Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn công tác chủ nhiệm lớp và chủ nhiệm lớp nguồn....

Tài liệu Skkn công tác chủ nhiệm lớp và chủ nhiệm lớp nguồn.

.DOC
30
366
86

Mô tả:

SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI Đơn vị: Trường THPT Đoàn Kết …˜ ™ … Mã số:…………… ĐỀ TÀI: CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP VÀ CHỦ NHIỆM LỚP NGUỒN Người thực hiện: Trang Sĩ Dũ Lĩnh vực nghiên cứu: Quản lý giáo dục Phương pháp dạy học bộ môn Vật Lý Phương pháp giáo dục Lĩnh vực khác:………………………… Có đính kèm: Mô hình Phần mềm Phim ảnh Năm học: 2014- 2015 SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC …š  › … Hiện vật khác I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: Trang Sĩ Dũ 2. Ngày tháng năm sinh: 23/ 04/ 1981 3. Nam , , nữ 4. Địa chỉ: Phú Lộc - Tân Phú - Đồng Nai 5. Điện thoại: 0987570656 6. Chức vụ: Giáo viên 7. Đơn vị công tác: Trường THPT Đoàn Kết II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Học vị (Hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân - Năm nhận bằng: 2004 - Chuyên ngành đào tạo: Cử nhân Vâ ât li III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: 10 năm - Số năm có kinh nghiệm: 10 năm - Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: + Kết hợp tiết tự chọn vào phân phối chương trình chương Động học chất điểm môn Vật lý 10 Cơ bản. + Phương pháp tìm hiệu điện thế trong bài toán dòng điện không đổi + Kết hợp kể chuyện lịch sử Vật lý vào dạy học Vật lý + Dạy học vật lý bằng công nghệ thông tin và mô tả thi nghiệm, hiện tượng trong Vật lý bằng phần mềm Flash +Ứng dụng định luật bảo toàn động lượng chế tạo tên lửa nước và động cơ hơi nước DUYỆT CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ: Phần Một: MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài: Công tác chủ nhiệm là một phần quan trọng của một giáo viên trong nhà trường. Chủ nhiệm là một nhiệm vụ khó khăn nhưng cũng rất nhiều ý nghĩa cao cả. Chủ nhiệm lớp không đơn thuần như một giáo viên dạy bộ môn bình thường là chỉ truyền thụ kiến thức cho học sinh, mà người giáo viên chủ nhiệm thực sự là một người nghệ sỹ, một người thầy, một người cha, người mẹ định hướng, uốn nắn các em học sinh trở thành một con người đúng nghĩa và dìu dắt các em bước vào đời trở thành một người công dân tốt, một người có ích cho gia đình và xã hội. Để hiểu được vai trò của một giáo viên chủ nhiệm thì dễ, nhưng để hoàn thành được nhiệm vụ như yêu cầu thì thực sự rất khó. Nó đòi hỏi người giáo viên không chỉ giỏi về chuyên môn, phẩm chất đạo đức tốt, lương tâm, trách nhiệm mà còn có cả kinh nghiệm lẫn nghệ thuật giáo dục. Đối với các giáo viên mới làm công tác chủ nhiệm thì đây quả thật là một nhiệm vụ khó khăn. Bản thân tôi cũng không ngoại lệ, cũng đã học hỏi rất nhiều từ các thầy cô đi trước, cũng đã trăn trở và suy nghĩ nhiều để tìm ra con đường tốt nhất nhằm hoàn thành nhiệm vụ của mình. Dù kinh nghiệm làm chủ nhiệm chưa nhiều, nghệ thuật chưa thật sự nhuần nhuyễn nhưng may mắn được sự tín nhiệm của lãnh đạo trường, sự ủng hộ và giúp đỡ của đồng nghiệp, của phụ huynh học sinh và của cả học sinh, bản thân cũng rút ra đựơc nhiều bài học quý báu trong công tác chủ nhiệm lớp A1 niên khoá 2011 -2014. Đề tài về công tác chủ nhiệm là một đề tài rất rộng và khó, song bản thân cũng muốn mạnh dạn chia sẻ những trăn trở, những khó khăn cùng các đồng nghiệp để học hỏi lẫn nhau và hơn hết bản thân cũng muốn lắng nghe những góp ý chân thành về những hạn chế của mình để hoàn thiện hơn trong công tác chủ nhiệm về sau. Với thời gian không nhiều, kinh nghiệm chưa sâu nên nhất định đề tài còn rất nhiều chỗ hạn chế. Rất mong được sự cảm thông và chia sẻ của các thầy cô đồng nghiệp. II. Mục tiêu và hướng phát triển đề tài Đề tài của tôi viết nên chỉ bằng những kinh nghiệm nhỏ của bản thân, muốn đúc kết và hệ thống lại thành một bài học cho mình và những giáo viên mới làm công tác chủ nhiệm. Vì thế những chia sẻ của quý thầy cô thật sự là niềm vui, là những bài học quý giá trong công tác của mình với mong muốn sau này có thể chỉnh sửa, thêm bớt để hoàn thiện hơn đề tài có thể trở thành một tài liệu tham khảo bổ ích cho bạn bè đồng nghiệp. 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. Phần hai: CƠ SỞ LÝ LUẬN Căn cứ vào Điều lệ trường trung học cơ sở, trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày 28/3/2011 người giáo viên chủ nhiệm ( sau đây viết tắt là GVCN) có những nhiệm vụ sau đây: Dạy học theo chương trình, kế hoạch giáo dục, kế hoạch dạy học của nhà trường theo chế độ làm việc của giáo viên do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định, quản lý học sinh trong các hoạt động do nhà trường tổ chức, tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn; chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả giáo dục; tham gia nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng. Rèn luyện đạo đức, học tập văn hoá, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao chất lượng và hiệu quả của giảng dạy và giáo dục. Vận dụng các phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, chủ động và sáng tạo, rèn luyện phương pháp tự học của học sinh. Thực hiện điều lệ nhà trường, thực hiện quyết định của hiệu trưởng, chịu sự kiểm tra, đánh giá của hiệu trưởng và các cấp quản lý giáo dục. Giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo, gương mẫu trước học sinh; yêu thương, tôn trọng học sinh, đối xử công bằng với học sinh, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của học sinh; đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp; tạo dựng môi trường học tập dân chủ, thân thiện, hợp tác, an toàn và lành mạnh. Xây dựng các kế hoạch giáo dục, thể hiện rõ mục tiêu, phương pháp giáo dục bảo đảm tính khả thi, phù hợp với đặc điểm học sinh, với hoàn cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của lớp và của từng học sinh. Thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng. Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các giáo viên bộ môn, Đoàn thanh niên, các tổ chức xã hội có liên quan trong hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng nghiệp của học sinh lớp mình chủ nhiệm và góp phần huy động các nguồn lực trong cộng đồng phát triển nhà trường. Nhận xét, đánh giá, xếp loại học sinh cuối kì và cuối năm học, đề nghị khen thưởng và kỉ luật học sinh, đề nghị danh sách học sinh được lên lớp thẳng, kiểm tra lại, rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kì nghỉ hè; học sinh phải ở lại lớp; hoàn chỉnh việc ghi sổ điểm và học bạ của học sinh. Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình của lớp với hiệu trưởng. Phần ba : NỘI DUNG ĐỀ TÀI I. Vai trò, trách nhiệm và yêu cầu đối với người GVCN 1. Vai trò giảng dạy kiến thức chuyên môn Cũng như tất cả những giáo viên trong nhà trường, người GVCN cũng phải là một người giáo viên đứng lớp, truyền thụ cho học sinh kiến thức về chuyên môn. Qua đó có thể nắm bắt được khả năng học tập của từng học sinh, hiểu thêm về tình hình của từng cá nhân, của tập thể mà đôi khi GVCN không có điều kiện nắm bắt được. Giảng dạy kiến thức chuyên môn là một vai trò thiết yếu của người làm công tác chủ nhiệm. Thế nên để có uy tín trước học sinh chủ nhiệm, người GVCN cũng cần có kiến thức chuyên môn vững vàng, sâu sắc. 2. Vai trò giáo dục hình thành nhân cách học sinh Cùng với giáo viên bộ môn, các đoàn thể khác GVCN là người chịu trách nhiệm chính trong việc hình thành nhân cách của học sinh mình chủ nhiệm. GVCN có một tầm ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nên nhân cách, đạo đức, lối sống và thế giới quan cho học sinh. Vì thế đòi hỏi ngừơi GVCN phải thật sự là một người có đạo đức, nhân cách tốt; có lối sống lành mạnh, tích cực và mẫu mực; phải có một thế giới quan khoa học, đúng đắn. Người GVCN phải thật sự là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Đó là một yêu cầu rất cơ bản và không thể thiếu đối với ngừơi GVCN. Với truyền thống và phong tục của người Việt Nam, đòi hỏi người thầy phải thật thanh cao, chuẩn mực; phải thật sự trách nhiệm, bao dung. Có như thế mới có thể giáo dục, uốn nắn học sinh. Trong xã hội ngày nay, thật khó để có thể giữ được cái tâm của người thầy, cái thiên lương của người được xã hội tôn trọng và tin cậy. Nó đòi hỏi người giáo viên phải thật sự kiên định, vững vàng. Bởi người ta nói nếu như có một người thợ làm giày tồi thì người ta chỉ mang đôi giày xấu một chút. Nhưng nếu có một người thầy không tốt sẽ làm hỏng cả nhiều thế hệ. Nhưng thiết nghĩ “ cuộc chiến càng khó khăn bao nhiêu thì chiến thắng sẽ càng vẻ vang bấy nhiêu”. 3. Vai trò tổ chức điều phối các hoạt động giáo dục của lớp Học sinh đi học không chỉ có học kiến thức, mà mục tiêu của giáo dục là phải đào tạo những con người toàn diện. Có đầy đủ về kiến thức, sức khoẻ, đạo đức, thẩm mỹ . v.v. Thế nên trong việc giáo dục học sinh, người GVCN cần phải am hiểu, linh hoạt, phối hợp với các đoàn thể tố chức giáo dục cho học sinh. Người GVCN phải thường xuyên động viên nhắc nhở cho học sinh tham gia các hoạt động giáo dục do đoàn thể tổ chức hoặc tự tổ chức. Ví dụ các hoạt động Văn nghệ, Thể dục thể thao, tư vấn… Muốn làm tốt điều đó đòi hỏi người GVCN phải thật sự năng động, sáng tạo, tích cực và linh hoạt trong công tác.. Biết cách phối hợp với các giáo viên bộ môn ( sau đây viết tắt là GVBM), kết hợp với các đoàn thể …để nắm bắt thông tin, cần phải gần gũi học sinh, vui vẻ, hoà đồng, sẵn sàng tham gia để làm hình mẫu lôi kéo học sinh. 4. Vai trò cố vấn cho tập thể học sinh Người GVCN cũng là một cố vấn, một chuyên gia. Phải biết vận động, khuyến khích học sinh. Trong quá trình học tập lâu dài, với rất nhiều đòi hỏi, yêu cầu về chuyên môn của các GVBM; hay các phong trào văn hóa văn nghệ… do Đoàn trường tổ chức…và kể cả từ yêu cầu của gia đình học sinh. Nhất định học sinh sẽ rất nhiều áp lực, lúng túng và đặc biệt tinh thần học tập, tham gia phong trào giảm sút. Hoặc những vấn đề phát sinh trong quan hệ bạn bè trong lớp, trong trường, học sinh với giáo viên, với bạn bè ngoài xã hội. Thậm chí là các tệ nạn xã hội v.v…Lúc đó vai trò của người GVCN rất quan trọng. GVCN phải biết tư vấn, phải biết chia sẻ với học sinh. Biết nhắc nhở học sinh, chỉ ra những cái lỗi, những cái sai, những ưu điểm và khuyết điểm từ đó định hướng cho học sinh đi đúng hướng. Để làm được điều đó đòi hỏi người GVCN không chỉ giỏi về chuyên môn, mà đòi hỏi phải có kiến thức sâu rộng về nhiều mặt của cuộc sống. Người GVCN cần có một mối quan hệ xã hội nhất định, mối quan hệ mật thiết với nhà trường, với đồng nghiệp, giám thị …để có được sự đánh giá toàn diện. Công tác tư vấn là cả một nghệ thuật, người GVCN sẽ trở thành một chuyên gia tâm lý. Phải biết lắng nghe, lắng nghe từ nhiều phía; lắng nghe từ học sinh, bạn bè xung quanh; lắng nghe đồng nghiệp và lãnh đạo. Phải biết cảm thông với lỗi lầm của học sinh, phải biết chia sẻ, động viên và cũng phải mạnh mẽ, kiên định. II. Các nhiệm vụ giáo dục trọng tâm của GVCN và giải pháp chung của từng nhiệm vụ 1. Chịu sự chỉ đạo thống nhất về công tác chủ nhiệm của nhà trường Muốn làm tốt công tác chủ nhiệm trước hết người GVCN phải thường xuyên nắm bắt đầy đủ các chủ trương của nhà trường. Phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định của cơ quan, của lãnh đạo trường về thực hiện các nhiệm vụ được giao. Không được tự ý làm theo thói quen, sở thích, sở trường và lợi ích cá nhân; phải đặt lợi ích nhà trường, lợi ích tập thể lớp lên hàng đầu. Trên thực tế có rất nhiều GVCN không thường xuyên theo dõi sự chỉ đạo dẫn đến chậm trễ, không đúng yêu cầu của nhà trường. Ví dụ về lao động của học sinh, các khoản đóng góp, quản lý học sinh, thực hiện các chủ trương, phong trào do Đoàn trường và Công đoàn ngành phát động. Giải pháp để thực hiện tốt nhiệm vụ này là người GVCN phải thường xuyên theo dõi thực hiện các kế hoạch chung của nhà trường hàng tuần, hàng ngày ( như sinh hoạt, hội họp, chào cờ, kế hoạch lao động, kế hoạch kiểm tra.v.v.). Phải kịp thời báo cáo với lãnh đạo trường và lắng nghe sự chỉ đạo của lãnh đạo. 2. Giáo dục đạo đức, tư tưởng Giáo dục đạo đức, tư tưởng cho học sinh là nhiệm vụ trọng tâm trong việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Dù ở thế hệ nào, ở thời đại nào thì câu tục ngữ “Tiên học lễ, hậu học văn” vẫn luôn cần thiết và đúng đắn. Người học sinh trước hết phải có đạo đức tốt, phải có tư tưởng lành mạnh. Muốn là một trò giỏi trước hết phải là một trò ngoan. Đối với học sinh THPT thì vấn đề đạo đức và tư tưởng là hết sức quan trọng. Bởi các em ở tuổi mới lớn, bắt đầu có những cảm nhận sâu sắc về thế giới quan. Về tâm sinh lý có nhiều biến đổi, thường thì các em muốn thể hiện mình là một người lớn nên có những hành động, những lời nói, những suy nghĩ chưa thật chuẩn mực. Điều này GVCN cần phải thấu hiểu và chấn chỉnh, uốn nắn kịp thời. Xã hội ngày nay càng phức tạp. Hàng ngày các em phải tiếp thu rất nhiều những văn hoá, kiến thức và tư tưởng có cả lành mạnh và không lành mạnh ngoài xã hội. Thế nên người GVCN cần phải giáo dục cho các em tư tưởng đúng đắn, lành mạnh. Chỉ cho các em thấy được những mặt tốt, mặt xấu của xã hội. Xây dựng cho các em một thế giới quan khoa học, phù hợp lứa tuổi. Sau đó nâng tầm nhận thức, lập trường chính trị của các em theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa và lập trường, đường lối kiên định của Đảng Cộng Sản. Giáo dục đạo đức, tư tưởng, lối sống cho học sinh có thể thực hiện thông qua các tiết sinh hoạt, các tiết dạy và các hoạt động ngoài giờ, ngoại khoá… 3. Giáo dục tri dục Giáo dục trí dục là giáo dục về tri thức nhằm mở mang kiến thức và phát triển tư tưởng của con người. Ngoài việc là một giáo viên giảng dạy bộ môn, truyền thụ cho học sinh kiến thức của môn học người GVCN cần truyền thụ, bổ sung cho học sinh những kiến thức khác thuộc về tri thức của nhân loại, về cuộc sống, xã hội, giáo dục, kinh tế, khoa học kỹ thuật, sức khoẻ, giới tính, lịch sử và địa lý địa phương v.v…Có như vậy học sinh mới có thể có được kiến thức đầy đủ, phong phú khi bước vào đời. Giáo dục trí dục cho học sinh chủ nhiệm có thể tiến hành song song với tiết dạy bộ môn, tiết sinh hoạt, ngoại khoá, dã ngoại…Việc này đòi hỏi người GVCN phải có kiến thức thật rộng, chính xác. Với thời đại công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay, học sinh cũng có thể dễ dàng nắm bắt thông tin và biết nhiều kiến thức khác. Vì thế người GVCN phải luôn học tập, trau dồi và cập nhật. Xây dựng kế hoạch hoạt động 15 phút đầu giờ, tăng cường theo dõi, kiểm tra đánh giá, phát động phong trào thi đua học tập…cũng là một giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục trí dục của lớp. 4. Giáo dục văn thể mỹ Giáo dục văn thể mỹ cho học sinh sẽ giúp cho học sinh trở thành một con người hoàn thiện. Giáo dục văn thể mỹ là một nhiệm vụ rất quan trọng mà người GVCN cần phải thực hiện. Ngoài việc giáo dục trí dục để học sinh phát triển kiến thức thì cần phải giáo dục cho học sinh kiến thức về thẩm mỹ. Dạy cho học sinh tình yêu cái đẹp, và trân trọng giá trị tinh thần trong cuộc sống. Nếu học sinh chỉ học kiến thức chuyên môn, chỉ giỏi về chuyên môn thì các em sẽ trở thành một con người thực dụng, sống khô khan và cứng nhắc. Nhưng nếu các em được giáo dục về thẩm mỹ thì các em sẽ có thể trở thành một người toàn diện, vừa giỏi về chuyên môn, vừa biết quý trọng các giá trị khác của cuộc sống ngoài vật chất. Như Bác Hồ nói là “ vừa hồng vừa chuyên” vậy. Giáo dục văn thể mỹ bao gồm giáo dục cho học sinh về thể dục thể thao, văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, v.v.. Đoàn trường thường có rất nhiều phong trào nhằm tạo sân chơi lành mạnh để giáo dục thẩm mỹ cho học sinh. Tuy nhiên giáo dục thẩm mỹ cũng cần phải liên tục như giáo dục trí dục. Vì thế GVCN cần phải chủ động tích cực giáo dục và nhắc nhở các em thường xuyên. Tạo điều kiện cho các em thể hiện tài năng của mình. Qua đó phát hiện những năng khiếu, sở trường của từng học sinh để định hướng tương lai các em. Ngoài việc chỉ cho học sinh nhận ra cái hay, cái đẹp người GV cần gieo trong tâm hồn các em một tình yêu đối với cái hay cái đẹp đó. Ví dụ cần chỉ cho học sinh nhận thấy cái hay, cái sâu sắc và giá trị của một bản nhạc thì cũng cần cho học sinh được hát, được thể hiện năng khiếu trong những lúc có thể. Ngoài việc chỉ các em cái đẹp của một cây hoa thì cũng cần cho các em thực hành chăm sóc. Một việc đơn giản nhất là nhắc nhở học sinh vệ sinh thân thể, lựa chọn cách ăn mặc, vệ sinh lớp học, trang trí lớp học, ngăn nắp khăn trải bàn và chăm chút bình hoa cũng là một biện pháp giáo dục thẩm mỹ cho học sinh. 5. Giáo dục hướng nghiệp Có thể nói bên cạnh việc giáo dục hình thành nên tri thức, thẩm mỹ cho học sinh thì giáo dục hướng nghiệp cũng có vai trò không kém quan trọng. Bởi dù học sinh có học giỏi, có toàn diện đến đâu nhưng việc đỗ đạt đại học vẫn là mục tiêu hàng đầu và ưu tiên. Thi đỗ đại học không có nghĩa là đã thành công, mà đó chỉ là bước khởi đầu cho cả một hành trình lâu dài và gian khó, có thể là gắn liền hết cả đời sau này của các em. Một lựa chọn thiếu khoa học có thể làm học sinh thi rớt đại học, một sự lựa chọn sai lầm có thể làm cả cuộc đời con người phải vất vả, hối tiếc. Vì thế tư vấn, hướng nghiệp cho học sinh đóng một vai trò then chốt trong cả cuộc đời của học sinh. Vấn đề là làm thế nào để có thể tư vấn, định hướng cho học sinh. Đây là một nhiệm vụ không hề đơn giản. Trước tiên người GVCN phải thật sự am hiểu học sinh của mình. Phải biết được năng khiếu học tập, sở trường, kỹ năng của từng học sinh để xác định khối thi, môn thi đại học. Phải biết được sở thích, tính cách, sức khoẻ và kể cả nguyện vọng của học sinh để định hướng lựa chọn ngành nghề phù hợp với bản thân các em. Phải biết được năng lực của từng học sinh, phải dự đoán được điểm thi mà các em có thể đạt được để từ đó làm cơ sở chọn trường thi phù hợp. Một phần không thể thiếu đó là sự quan tâm của gia đình học sinh với tương lai con em. Sở thích của phụ huynh về nghề nghiệp của con em thế nào. Phải nắm rõ điều kiện về kinh tế và kể cả lý lịch gia đình, nhu cầu của xã hội. Người GVCN phải biết chan hoà giữa sở thích của phụ huynh, sự kì vọng của phụ huynh vào con em và sở thích của học sinh. Dĩ nhiên phải đặt sở thích của học sinh lên trên hết. GVCN và kể cả phụ huynh không nên áp đặt các em làm theo sở thích của mình, vì tương lai các em chính các em phải chịu trách nhiệm. Để làm tốt công tác tư vấn hướng nghiệp đòi hỏi người GVCN phải có nhiều kĩ năng và kiến thức rộng, phải nắm rất rõ về các thông tin tuyển sinh đại học, nhu cầu công việc của xã hội. Phải hiểu rõ gia đình và bản thân học sinh. Người GVCN phải thật sự có trách nhiệm trong việc tư vấn cho các em, không thể xem nhẹ, tư vấn qua loa, sơ sài. Cái khó của người GVCN là làm thế nào để biết được nhu cầu của xã hội, sự phát triển kinh tế của đất nước và làm sao để có thể dự đoán được tương lai. Một vấn đề cũng không dễ đó là làm sao để có thể phát hiện sở thích và năng khiếu của học sinh. Trên thực tế có rất nhiều học sinh đã 18 tuổi nhưng không hề biết mình thích cái gì, làm gì. Không hề biết mình có năng khiếu gì. Vì thế khi lựa chọn ngành nghề đa phần các em lựa chọn theo cảm tính, theo phong trào, theo sự động viên của gia đình và bạn bè xung quanh. Để làm tốt công tác này đòi hỏi người GVCN phải thường xuyên tìm hiểu tâm tư , nguyện vọng các em. Tìm hiểu thông qua chính các em, bạn bè, gia đình và giáo viên dạy bộ môn. Phải chú ý đến những việc làm, hành động của các em trong suốt quá trình học, đặc biệt là các giờ sinh hoạt ngoại khoá, các chương trình giáo dục văn thể mỹ … để tìm ra năng khiếu và sở trường các em. Phải thường xuyên cập nhật, nắm bắt thông tin, phải tổ chức tư vấn cho học sinh một cách có khoa học, có kế hoạch. Phải biết phối hợp với các đoàn thể, gia đình và cựu học sinh để tổ chức tư vấn cho các em hiệu quả, thiết thực. 6. Giáo dục kỹ năng sống Giáo dục kỹ năng sống là một nhiệm vụ tương đối mới và có lẽ ít được giáo viên quan tâm. Ngày hôm nay, với sự phát triển, biến động và phức tạp của xã hội thì giáo dục kỹ năng sống trở thành một nhiệm vụ không thể thiếu trong công tác chủ nhiệm. Ở nhà trường, trong việc học và quan hệ bạn bè cũng có rất nhiều áp lực và biến cố xảy ra. Ở gia đình một số phụ huynh thiếu quan tâm con cái, không dạy cho học sinh những điều hay lẽ phải mà đôi khi con đòi hỏi, yêu cầu vượt quá khả năng của con em. Ngoài xã hội thì vô vàn phức tạp và cạm bẫy. Các tệ nạn, cám dỗ luôn kề bên v.v.. Tất cả những yếu tố đó đã ảnh hưởng đến nhận thức của học sinh, góp phần hình thành nên nhân cách của học sinh. Các em dễ dàng sa ngã trước cám dỗ, dễ dàng trở thành một con người thô bạo, cộc cằn và hơn nữa là thiếu tình người. Các em không có được hoặc thiếu những cử chỉ, nghĩa cử và hành động cao đẹp, nhân văn. Giáo dục kỹ năng sống và giáo dục văn thể mỹ sẽ góp phần làm cho các em biết quý trọng hơn các giá trị của cuộc sống. Biết cách để trở thành một người tốt, có đạo đức, có lương tâm trong sáng. Giáo dục kỹ năng sống giúp các em biết nhận ra và vượt qua những khó khăn của cuộc sống. Biết xử lý tình huống khéo léo và cư xử đúng mực, có văn hoá trong quan hệ bạn bè, thầy cô, cha mẹ và ngoài xã hội. Điều đó thật sự hết sức cần thiết. Thế nhưng làm thế nào để có thể làm tốt công tác giáo dục kỹ năng sống? Để giải quyết vấn đề này, trước hết đòi hỏi người GVCN phải có kĩ năng sống thật tốt. Đó là điều kiện tiên quyết. Tiếp theo GVCN phải thật sự nhiệt tình, chịu khó, quan tâm và thương yêu học sinh. Có như thế người GV mới có đủ thời gian, kiên nhẫn và khéo léo để giáo dục cho các em. Vì giáo dục kĩ năng sống không phải chỉ một ngày một bữa, mà nó phải liên tục trong suốt quá trình học tập của học sinh. Nó đòi hỏi GVCN phải có giáo án, chuẩn bị một cách nghiêm túc, phải có kế hoạch trong từng tháng, đó là giáo dục kĩ năng theo chủ đề. Ngoài ra có những kĩ năng cần phải giáo dục ngay tức thì khi xảy ra tình huống. Vì vậy người làm công tác giáo dục kĩ năng sống phải thật sự mềm dẻo, khéo léo, linh hoạt. Khi xảy ra một tình huống cần giải quyết thì ngoài việc giúp các em giải quyết vấn đề, bên cạnh đó cần phải chỉ cho các em rút ra được bài học gì từ tình huống đó; đó chính là đã giáo dục kĩ năng sống cho các em. Cần cho học sinh tham gia nhiều phong trào, khơi dậy ở học sinh nhất là các học sinh cá biệt tham gia vào các buổi sinh hoạt ngoại khoá, qua đó giáo dục kĩ năng sống cho các em. 7. Giáo dục pháp luật Trong thực tiễn hiện nay, giáo dục pháp luật là hết sức cần thiết. Với sự tác động , lôi kéo của phim ảnh, game, của những thành phần xấu trong xã hội…các em rất dễ sa ngã, dễ dàng có những hành động thiếu suy nghĩ dẫn đến vi phạm pháp luật một cách vô ý thức, gây hậu quả ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai của bản thân, của gia đình và xã hội. Giáo dục pháp luật không chỉ giúp các em có kiến thức về luật pháp, biết được những điều được và không được làm của một người công dân. Biết được quyền lợi của mình để tự bảo vệ bản thân và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của một công dân. Những luật cần thiết giáo dục cho học sinh THPT như luật hôn nhân gia đình, luật nghĩa vụ quân sự, luật giao thông đường bộ, luật bảo vệ môi trường, luật phòng chống ma tuý, luật thực hành tiết kiệm, luật khiếu nại tố cáo, luật phòng chống tội phạm… Trong các nội dung giáo dục pháp luật không nhất thiết phải truyền đạt tất cả nội dung nhưng cần nhấn mạnh những điều vi phạm và hình thức xử phạt tương ứng để học sinh có kiến thức sơ bộ để phòng tránh và bảo vệ mình. Để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục pháp luật cho học sinh đòi hỏi người GVCN phải có kiến thức về pháp luật. Phải tự trau dồi bổ sung kiến thức cho bản thân. Hơn nữa GVCN phải là một tấm gương tốt về việc chấp hành pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của một công dân. Cái khó để thực hiện nhiệm vụ này là thời gian tổ chức và tiến hành thế nào. Có thể thực hiện thông qua các buổi ngoại khoá có chủ đề hoặc thực hiện ở các tiết sinh hoạt, tiết dạy thông qua các câu chuyện thực tiễn. 8. Đánh giá xếp loại học sinh GVCN có nhiệm vụ và trách nhiệm trong việc đánh giá, xếp loại học sinh. Hơn ai hết GVCN là người hiểu rõ nhất năng lực của từng học sinh, hiểu rõ nhất phẩm chất đạo đức và việc thực hiện nội quy của học sinh. GVCN là người hiểu rõ nhất quá trình phấn đấu và rèn luyện để từ đó có cơ sở đánh giá, xếp loại học lực, hạnh kiểm, đánh giá được lên lớp hay ở lại…của một học sinh. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, giáo viên cần phải: - Nắm rõ các quy định về đánh giá , xếp loại học sinh - Nắm rõ các quy định của nhà trường, luật giáo dục. - Cần phải có nội quy của lớp trên cơ sở nội quy của trường. Nêu ra những mục vi phạm, những mức độ vi phạm và hình thức xử phạt. Cần công bố, thông qua cho học sinh và phụ huynh. - Phải theo dõi thường xuyên việc thực hiện nội quy , học lực của học sinh để có cơ sở đánh giá xếp loại. Cần phải có sổ theo dõi chi tiết, nhất là các học sinh cá biệt, đồng thời có kế hoạch xếp loại học lực, hạnh kiểm từng giai đoạn giữa học kì để học sinh và phụ huynh nắm bắt thông tin, kịp thời chấn chỉnh và khắc phục. - Việc đánh giá cần phải công bằng, chính xác; phải tôn trọng quyền lợi của học sinh; tránh thiên vị vì những yếu tố chủ quan. - Việc đánh giá xếp loại cần kèm theo phê bình và khen thưởng, động viên. 9. Phối hợp với nhà trường, đoàn thể, hội phụ huynh giáo dục học sinh và các tổ chức liên quan. Trong công tác chủ nhiệm, việc phối hợp với nhà trường, với Đoàn thanh niên, với giáo viên bộ môn, giám thị và PHHS là rất cần thiết. Phối hợp với nhà trường , với Đoàn thanh niên để kịp thời nắm bắt các chủ trương, nhằm lên kế hoạch thực hiện đầy đủ, kịp thời và hiệu quả các chủ trương, phong trào. Phối hợp với GVBM để nắm được thông tin về học lực của lớp; phối hợp với giám thị trong việc theo dõi, xử lý vi phạm kịp thời. Một cầu nối không thể thiếu đó là PHHS. GVCN cần chủ động liên lạc với gia đình học sinh để nắm bắt được thông tin từ phía gia đình và phản hồi kịp thời về gia đình. Cùng với PHHS tìm ra giải pháp kịp thời giáo dục con em. Cũng rất cần thiết phối hợp với các tổ chức có liên quan đến giáo dục và hỗ trợ học sinh như Hội khuyến học, Công an…để hỗ trợ giúp đỡ khi cần thiết. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này GVCN nhất thiết phải chủ động, thường xuyên liên lạc với lãnh đạo trường, với Đoàn thanh niên, với GVBM , với PHHS, quản sinh và học sinh. Cũng cần chú ý thành lập và phối hợp với Hội PHHS, thường xuyên liên lạc, trao đổi với Hội phụ huynh để được sự hỗ trợ. Một tập thể mạnh không thể thiếu Hội PHHS nhiệt tình, tích cực. III. Thực tiễn khi làm GVCN lớp A1 niên khoá 2011-2014 1. Đặc điểm tình hình: a.Thuận lợi : - Được sự quan tâm của lãnh đạo trường, của GVBM, Đoàn thể, Hội PHHS… - Tập thể lớp đồng đều, năng động, tích cực. Ý thức rèn luyện và năng lực học tập tương đối tốt. - Hội PHHS nhiệt tình, sẵn sàng tham mưu, định hướng và giúp đỡ cả vật chất lẫn tinh thần khi cần thiết. - Tập thể có tinh thần cầu tiến, luôn cố gắng học hỏi, đoàn kết giúp đỡ nhau. - Bản thân luôn nhiệt tình, hết mình vì tập thể học sinh. Luôn luôn lắng nghe và học hỏi kinh nghiệm của phụ huynh và đồng nghiệp. b.Khó khăn: - Tập thể có số học sinh đông nhất trường: 50 học sinh - Dù năng lực học tập của các em khá nhưng các em cũng rất cá tính. Một số em có biểu hiện trầm cảm, tự kỉ. - Nhiều học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Một số phải đi học rất xa, hoặc ở trọ đi học. - Sự quan tâm của lãnh đạo trường, của Hội PHHS và của PHHS…dù là một thuận lợi nhưng đó cũng là một áp lực rất lớn. - Bản thân cũng còn rất nhiều hạn chế về kinh nghiệm, khó khăn về kinh tế và nhiều yếu tố khách quan khác làm ảnh hưởng phần nào đến công tác chủ nhiệm. c.Thách thức: Dù chủ nhiệm lớp chọn, có rất nhiều thuận lợi nhưng cũng rất nhiều áp lực. Có thể nói lớp có rất nhiều tiềm năng, nhiều điều kiện để phát triển, thế nhưng vấn đề là làm sao để phát huy nội lực vốn có của nó. Làm sao lôi kéo, vận động được sự hỗ trợ từ phụ huynh, và làm sao để định hướng , giáo dục một tập thể vốn rất cá tính và rất đông thành một tập thể thống nhất, đồng lòng vì một mục tiêu phấn đấu. Đó vừa là thuận lợi nhưng cũng là một thử thách đối với bản thân chưa từng có kinh nghiệm chủ nhiệm lớp chọn. 2. Các công việc quan trọng đã thực hiện và một số nghệ thuật thực hiện a. Tìm hiểu đối tượng học sinh - Công việc đầu tiên của GVCN là phải tìm hiểu học sinh của lớp mình. Cần phải nắm rõ lý lịch, điều kiện và hoàn cảnh gia đình của từng học sinh.Việc này trước tiên là tìm hiểu ở chính học sinh thông qua sơ yếu lý lịch. Khi cho học sinh ghi sơ yếu lý lịch ngoài các thông tin cơ bản cần chú ý một số nội dung: Sở thích, năng khiếu, tính cách, hoàn cảnh và điều kiện gia đình, nguyện vọng và mơ ước của bản thân,tình hình sức khoẻ, môn học yêu thích, khả năng quản lý…Địa chỉ gia đình cần ghi cụ thể, và vẽ bản đồ vị trí nhà để khi cần thiết GV thuận tiện liên lạc. - Tìm hiểu học sinh không chỉ thông qua sơ yếu lý lịch lần đầu mà còn suốt cả quá trình làm chủ nhiệm và giảng dạy. Vì thế GVCN cần quan sát, theo dõi để nắm bắt thông tin, sự thay đổi, tiến bộ của từng em. Cần tìm hiểu các em thông qua gia đình, bạn bè, giáo viên bộ môn và kể cả thầy cô cũ của học sinh. - Quan sát, theo dõi học sinh chủ nhiệm không chỉ thông qua quá trình giảng dạy trên lớp, các buổi ngoại khoá, qua bạn bè, thầy cô, phụ huynh, các phiếu thăm dò… mà còn qua cả các phương tiện, ví dụ face book. Hiện nay hầu như các em đều có face book và thường xuyên thể hiện tâm tư, nguyện vọng, trăn trở, suy nghĩ của mình trên đó. Có rất nhiều vấn đề các em không thể nói ra được, nhưng với mạng xã hội ta có thể biết được rất nhiều thông tin ở học sinh. Vì thế cần thiết người GVCN cũng phải biết cập nhật khoa học , công nghệ. b. Tổ chức lớp học b.1. Trước hết là sắp xếp chỗ ngồi ổn định. Căn cứ vào tìm hiểu sơ bộ các em, căn cứ vào tình hình sức khoẻ, thể trạng mà sắp xếp hợp lý. Khi bố trí chỗ ngồi cần chú ý một số vấn đề: + Các em thể hình nhỏ, thấp và mắt yếu bố trí ngồi phía trên. + Không nên phân chia tách biệt nam và nữ thành hai dãy khác nhau, cũng không nên sắp xếp nữ ngồi cạnh nam vì một số vấn đề tế nhị, trừ trường hợp cần thiết vì những lý do học tập. + Cần chia đều học sinh mỗi bàn, tránh tình trạng một bàn 4 em, một bàn chỉ 1 hoặc 2 em. + Chia đều các tổ về số lượng nam, nữ, năng lực học tập và các năng khiếu khác. Tránh tình trạng có tổ thì rất nhiều nữ, tổ rất nhiều nam, tổ nhiều em học tốt, tổ thì nhiều em học yếu. Như vậy trong các tổ chức hoạt động nhóm, sinh hoạt tập thể khả năng các tổ không được đồng đều. + Cần thiết sắp xếp các em giỏi ngồi cạnh em yếu hơn để các em giúp đỡ nhau cùng học tập. + Cán sự lớp phải chia đều trong các tổ. Bí thư và lớp trưởng cần bố trí ngồi cuối lớp để dễ dàng quan sát tình hình trong giờ học. + Các em yếu không nên bố trí ngồi phía trong, vì như thế các em khó có điều kiện học tập và ít được sự quan tâm của giáo viên. + Một vấn đề có hơi tế nhị nhưng cũng là một nghệ thuật là nên sắp xếp các em có gương mặt tươi, sáng, hóc tốt ngồi bàn trên để tạo “mặt tiền” cho lớp. b.2. Bầu chọn Ban cán sự lớp: Ban cán sự lớp là cánh tay đắc lực giúp GVCN quản lý và điều hành lớp. Một tập thể muốn phát triển tốt cần thiết phải có người lãnh đạo tốt. Vì thế bầu chọn lớp trưởng, lớp phó, bí thư… là rất quan trọng. Không nên bầu chọn một cách ngẫu nhiên, đại khái. Lớp trưởng, lớp phó phải là người có năng lực học tốt, có uy tín, có tinh thần trách nhiệm, sáng tạo, tiếng nói phải có trọng lượng trong lớp thì mới có thể quản lý lớp tốt. Bí thư phải là người có năng khiếu, có khả năng quản trò, tổ chức và vận động. Đặc biệt với tập thể lớp chọn thì cán bộ lớp dễ bầu chọn nhưng cũng khó. Bởi vì hầu hết các em đều có thể làm cán sự khi ở lớp khác, song ở trong một tập thể có nhiều bạn giỏi, cá tính thì người cán sự lớp phải thật sự uy tín, xứng đáng là niềm tin cậy của các bạn khác. Ngoài lớp trưởng, lớp phó, bí thư, phó văn thể, tổ trưởng ra cũng rất cần có ban cán sự bộ môn. Ban cán sự bộ môn chính là nòng cốt trong các phong trào học tập của lớp, như 15 phút đầu giờ chẳng hạn. Nếu có ban cán sự lớp mạnh, ban cán sự bộ môn năng nổ thì các phong trào học tập của lớp sẽ rất thuận lợi. Tuy nhiên để cho các em trong ban cán sự thật sự nhiệt tình thì trách nhiệm phải gắn với quyền lợi. Quyền lợi các em không phải là tiền bạc, điểm số…nhưng cuối kì hay từng chặng thi đua cần tuyên dương, khen thưởng hoặc được một số ưu tiên hơn các bạn khác về lao động, đóng góp… c. Tổ chức các phong trào học tập: Công việc tổ chức các phong trào học tập, thi đua trong học sinh là hết sức cần thiết. Nó tạo điều kiện thuận lợi, tạo động lực để các em phấn đấu. GVCN phải tạo một môi trường học tập thân thiện, các em cạnh tranh lành mạnh. Giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Một số biện pháp tổ chức học tập như sau: c.1. Đôi bạn cùng tiến: GV có thể chia mỗi hai em cùng một nhóm hoặc một bàn thành một nhóm. Giao nhiệm vụ cho một em nhóm trưởng, các em đăng kí thành tích học tập sau từng chặng thi đua, nếu có tiến bộ thì GVCN khen thưởng. Dĩ nhiên các em sẽ giúp đỡ nhau một cách trung thực trong học tập, giáo viên cần theo dõi một cách thường xuyên và nhắc nhỡ các em. Việc chia các em mỗi bàn thành một nhóm nhỏ cũng thuận lợi cho các tiết dạy học hoạt động nhóm, các em sẽ làm việc quen và hiệu quả hơn. c.2. Theo dõi thi đua phát biểu xây dựng bài: Đối với các lớp chọn, dù năng lực học của các em khá tốt, song chưa hẳn giờ học đã sôi động và phong trào học tập tích cực. Vì đa phần các em không quan tâm đến phong trào chung của lớp. Các em chỉ học cho bản thân. Việc có phát biểu xây dựng bài không quan trọng. Một phần vì các em nghĩ các bạn khác sẽ giỏi hơn, và sẽ có câu trả lời hay hơn, một phần vì áp lực và đòi hỏi GVBM hơi cao, một phần cũng vì cá tính… Từ đó dẫn đến không khí học tập không được sôi động. Bản thân tôi cũng đã từng dạy qua rất nhiều lớp chọn, tôi cũng trăn trở vì sao lớp A1 học giỏi hơn A2 nhưng lại không sôi nổi bằng A2? Từ đó tôi đã tìm ra một giải pháp để phát động phong trào học tập xây dựng bài riêng cho lớp. Một số GVCN khác cũng có nhiều sáng kiến và giải pháp khá hay, như cho tổ trưởng theo dõi chéo tổ khác, mỗi lần phát biểu được một điểm cộng, mỗi tuần sinh hoạt tổng kết xếp loại các tổ. Thiết nghĩ việc xếp hạng các tổ chưa thiết thực và gắn liền với lợi ích các em, chưa là động lực mạnh lên các em. Và để các tổ trưởng chấm chéo nhau dễ phát sinh thiếu sót, công bằng, mỗi tuần lại tổng kết thì tương đối phiền phức bởi thực tế không hẳn tuần nào cũng có tiết sinh hoạt. Bản thân tôi đã tiến hành như sau và thấy có hiệu quả tích cực: Đầu tiên quy định mỗi học sinh trong một học kì phải phát biểu được ít nhất 60 lần. Như vậy mỗi tháng 15 lần. Một con số rất khiêm tốn. Nhưng tính tổng số học sinh thì mỗi tháng ít nhất 750 lượt phát biểu. Chia đều ra các môn thì mỗi tiết ít nhất 7 đến 8 lần phát biểu. Việc chấm theo dõi phát biểu chỉ giao cho lớp trưởng và bí thư chấm theo dãy. Mỗi hai tháng sơ kết chặng thi đua và công bố số lần phát biểu của từng học sinh. Nếu không đạt yêu cầu thì nhắc nhở, lấy đó làm căn cứ xếp hạnh kiểm. Chọn ra 3 em có số lần phát biểu nhiều nhất tuyên dương và khen thưởng. c.3. Ý thức học tập cá nhân: Thường xuyên nhắc nhỡ, động viên các em không được lơ là việc học tập. Thúc đẩy việc tự học tự nghiên cứu ở nhà. Mặc dù năng lực học tập và khả năng tự học các em có, tuy nhiên không phải tất cả đều chăm chỉ, tất cả đều luôn cố gắng phấn đấu để đạt kết quả tốt nhất. Dù luôn nhắc nhỡ động viên các em giúp đỡ, chia sẻ nhau về kiến thức học tập thế nhưng cũng tạo một môi trường cho các em cạnh tranh lành mạnh, thể hiện mình; điều đó nó kích thích các em phấn đấu. Để thực hiện điều này không có gì hiện thực hơn là các phần thưởng dành cho các học sinh học giỏi nhất, các học sinh tham gia phát biểu xây dựng bài nhiều nhất. GVCN phải kết hợp chặt chẽ với PHHS kiểm tra, theo dõi việc học tập ở nhà của con em để kịp thời chấn chỉnh và động viên. Trên thực tế có rất nhiều học sinh cảm thấy áp lực, cảm thấy “ đuối sức” khi ngồi chung lớp với các bạn quá giỏi, giáo viên yêu cầu quá cao…Nên việc thường xuyên theo dõi để kịp thời có biện pháp nhắc nhỡ, giúp đỡ các em là một điều hết sức cần thiết. Khi các em mới vào lớp 10 còn rất nhiều bỡ ngỡ, chưa quen với môi trường và phong cách học tập mới ở trung hóc phổ thông nên nhiều em đã đánh mất sự tự tin, không xác định được phương pháp học tập phù hợp. Từ đó nếu không kịp thời giúp đỡ các em thì sẽ gây ảnh hưởng nhiều đến thành tích học tập của học sinh. Điển hình như em Nguyễn Thu Hà, khi thi vào trường em là thủ khoa. Thế nhưng với áp lực của vị trí người thủ khoa và mọi sự mới lạ làm em cảm thấy mất đi bản lĩnh của mình. Kết quả học kì I chỉ là học sinh khá. Nhưng khi được sự động viên, định hướng và nhắc nhỡ em thì em đã thay đổi phương pháp học tập, lấy lại sự tự tin. Kết quả HKII em được HSG và lên năm 11,12 em là một trong những học sinh dẫn đầu của lớp. Thành quả cuối cùng là thi đậu vào ĐH Ngoại Thương và ĐH Kinh Tế TPHCM với số điểm rất cao. d. Theo dõi và giáo dục học sinh khó khăn, “cá biệt”: Khi dùng khái niệm học sinh cá biệt người ta hay nghĩ đến các em quậy phá, học kém, ý thức thấp trong học tập và rèn luyện, luôn làm ảnh hưởng đến tập thể và người khác. Và học sinh cá biệt chỉ có ở các lớp bình thường. Thế nhưng cá biệt không có nghĩa hẹp như vậy. Các em học giỏi cũng có thể là cá biệt theo nghĩa nhẹ nhàng hơn. Vì thế lớp chọn không nghĩa là không có học sinh cá biệt, có thể các em sẽ ngoan, sẽ giỏi nhưng các em cũng rất cá tính. Chính cá tính mạnh mẽ và năng lực học tốt làm cho một số em có phần kiêu căng, ngạo mạn thậm chí xem thường kỉ luật. Hoặc áp lực học tập và nhiều yếu tố khách quan khác làm các em trở nên trầm cảm, thu hẹp mình thậm chí là tự kỉ. Nếu không kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn, giáo dục các em thì sẽ để lại một hậu quả nghiêm trọng cho tương lai các em. d.1. Đối với học sinh “cá biệt” : Giáo dục các em có cá tính đặc biệt cũng không phải đơn giản. Có một số trường hợp vì các em nghĩ mình quá giỏi nên bất cần mọi thứ, không chấp hành các quy định của nhà trường, của GVCN. Các em muốn thể hiện mình có một sự khác biệt với các bạn trong cái suy nghĩ chưa được chính chắn. Thậm chí đôi khi xem thường các kỉ luật, không tôn trọng giáo viên. Đối với các học sinh này đòi hỏi người GVCN phải uyển chuyển, linh hoạt, mềm dẽo và cũng nghiêm nghị, mạnh mẽ khi cần thiết. Phải thuyết phục, giáo dục các em bằng tình cảm, bằng lý trí và bằng sự cương nghị của mình. Không nên quát mắng các em, áp dụng biện pháp cứng rắn ngay từ đầu vì như thế sẽ dễ thất bại. Để làm tốt công tác này cần tuân thủ một số nguyên tắc: - Theo dõi, thu thập thông tin một các chính xác, đầy đủ và thuyết phục nhất. Tìm hiểu động cơ, nguyên nhân để nảy sinh hành động sai phạm của học sinh. - Thông báo tình hình và mức độ vi phạm của học sinh với tập thể lớp và gia đình học sinh, Hội PHHS và Ban lãnh đạo trường. - Trao đổi riêng với học sinh đó. Bình tĩnh, kiên trì lắng nghe sự trình bày, suy nghĩ và mong muốn của học sinh và sự tự nhận lỗi của học sinh. - Đặt mình vào vị trí của học sinh đó để thông cảm cho các em. Tránh vội vàng đánh giá em đó là một học sinh có ý thức thấp, một học trò hư. - Dùng những nghệ thuật của hành động, cử chỉ, lời nói để giáo dục các em, chỉ cho các em cái đúng, cái sai, cái nên làm, cái không nên làm. Tuy nhiên trước khi chỉ cho học sinh cái sai, cái lỗi thì cũng nên tìm ra cái ưu điểm, cái hay của em đó để khen ngợi động viên. Lời khen ngợi trước khi phê bình luôn rất cần thiết. - Nên cho học sinh cơ hội sửa sai, thể hiện niềm tin của mình vào các em. Có thể nói là “ Thầy( cô) tin tưởng em sẽ làm được và sẵn sàng chờ đợi em thể hiện mình. Khi biết mình sai thì em đã trưởng thành và nếu em sửa sai được em càng trưởng thành hơn. Mọi người sẽ nhìn em với ánh mắt tôn trọng hơn nếu em trở thành một người tốt”. - Cũng cần thiết chỉ ra cái năng lực của em, cái năng khiếu và động viên em đó, định hướng cho em đó, cũng nên giao một nhiệm vụ gì đó để các em có cơ hội thể hiện mình. Dĩ nhiên là một công việc nhẹ nhàng , đơn giản nhưng thể hiện được cái năng lực riêng của học sinh. - Cố gắng kiên trì, có thể 2 hoặc 3 lần gặp riêng, trao đổi để động viên các em. Nhưng nếu các em không có chiều hướng tích cực thì phải phối hợp với gia đình, với Hội PHHS với Ban lãnh đạo trường để được sự giúp đỡ. d.2. Đối với học sinh trầm cảm: Trầm cảm là một biểu hiện khá phổ biến hiện nay. Nhất là các em ở các lớp chọn. Vì có thể các em quá say mê học, vì các em chịu áp lực của gia đình, hoặc vì những yếu tố chủ quan và khách quan khác. Trầm cảm của học sinh biểu hiện không phải ở các lỗi em đó vi phạm, có thể em đó rất ngoan, có thể chấp hành tốt tất cả các nội quy của trường, của lớp. Có thể làm tất cả những yêu cầu của giáo viên nhưng chỉ làm một cách miễn cưỡng, không hiệu quả. Trầm cảm biểu hiện ở các em ít nói, không giao thiệp với bạn bè trong lớp và ngoài lớp; không chia sẻ với bạn bè, thầy cô và cả gia đình. Các em thường có suy nghĩ em là số một, mọi thứ em làm và có được đã đủ, không cần những người xung quanh. Nhiệm vụ của người GVCN là làm sao thay đổi được quan niệm của học sinh đó, làm cho suy nghĩ của em đúng đắn hơn và hoà nhập vào cuộc sống một cách tốt đẹp hơn. Bởi quan niệm bảo thủ và cái tôi quá lớn đó sẽ làm em thất bại trong cuộc sống hiện đại dù cho em đó có rất giỏi. Làm thế nào để giáo dục một học sinh trầm cảm? Đây cũng không phải một công việc nhẹ nhàng, đơn giản. Bởi nó cần rất nhiều thời gian, rất cần sự quan tâm đúng mực và biện pháp đúng đắn của GVCN. Giáo dục một học sinh trầm cảm nhất định phải có một kế hoạch cụ thể và phải theo dõi các em thường xuyên. Bởi thay đổi quan niệm của một con người không phải một sớm một chiều, nhất là biểu hiện của một chứng bệnh tâm lý. Để làm tốt công việc này đòi hỏi người GVCN phải : - Tìm hiểu tính cách, quan niệm, đặc điểm, sở thích, nguyện vọng của học sinh - Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến căn bệnh trầm cảm của học sinh. Cần trao đổi với học sinh, trao đổi với gia đình và bạn bè các em để hiểu được điều đó. - Lên kế hoạch để giáo dục và giúp đỡ các em đó. - Thường xuyên gặp gỡ, trò chuyện, chia sẻ với các em. Lắng nghe các em tâm sự như một người bạn, một người thân trong gia đình. Tránh làm cho học sinh hoảng sợ, lo lắng. Phải tạo điều kiện thuận lợi để các em yên tâm, tin tưởng và gợi ý các em nói về mình. Đặt cho các em nhiều câu hỏi để dẫn dắt các em vào câu chuyện theo kịch bản của kế hoạch đề ra. Một trong những nghệ thuật cần thiết là cố gắng lắng nghe để chắt lọc thông tin, hiểu được cái thật trong con người các em. Tránh làm các em phải muốn dừng cuộc nói chuyện. Khi lắng nghe cũng phải biết đồng tình với những suy nghĩ đúng đắn của các em. - Khuyên bảo các em, chỉ cho các em chỗ đúng, chỗ sai, cái cần giữ lại và cái cần thay đổi. - Động viên và lôi kéo các em tham gia vào các hoạt động tập thể. - Tích cực tổ chức nhiều buổi sinh hoạt ngoại khoá để tạo điều kiện cho các em tham gia. Cần thiết phải giao cho em đó một nhiệm vụ nào đó để thực hiện trong buổi sinh hoạt. - Phối hợp với gia đình tìm biện pháp giúp đỡ, chia sẻ với các thầy cô bộ môn để thầy cô hiểu, thông cảm và quan tâm học sinh hơn, tránh tình trạng làm tổn thương đến học sinh càng tình trạng thêm phức tạp. - Nhờ đến sự chia sẻ của các bạn học trong lớp, yêu cầu lớp quan tâm bạn nhiều hơn. Tập thể lớp phải hiểu và biết những điều cần thiết phải làm để giúp đỡ bạn. Thực tế trong khi chủ nhiệm lớp A1 vừa qua, cũng có vài em bị trầm cảm, có thể nói là khá nặng. Chính phụ huynh cũng không thể biết được con họ thích gì và bị như thế nào vì không thể nói chuyện được với con cái; điển hình là trường hợp của em Chu Hoài Nam. Nhưng sau một thời gian dài theo dõi, giúp đỡ, động viên cuối cùng em đã thay đổi, đã trưởng thành, đã hoà nhập vào tập thể rất tốt. Ngoài việc em đã thay đổi về cá tính của mình, thay đổi cái tôi của mình thì em còn học tốt hơn rất nhiều. Kết quả thi đại học em cũng đậu 2 trường với số điểm rất cao và là thủ khoa của trường Đại học KHXH và NV TPHCM. e. Giáo dục học sinh có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn: Dù trong một tập thể thế nào nhất định cũng phải có các em có hoàn cảnh đặc biệt. Có thể gia đình nghèo, mồ côi cha, mẹ. Dị tật, gia đình sống trong bạo lực, không hạnh phúc.v.v..Có rất nhiều nguyên nhân làm ảnh hưởng đến nhận thức và quá trình học tập của các em. Hơn ai hết GVCN phải là người hiểu và cảm thông các em nhiều nhất. Phải giúp đỡ để các em có được điều kiện học tập tốt nhất để vượt qua mặc cảm. GVCN cần phải: - Tìm hiểu hoàn cảnh thực sự của các em. - Chia sẻ, động viên với gia đình với em học sinh đó một cách tế nhị, khéo léo. - Cần thiết phải thông báo với tập thể lớp, với Hội PHHS để các bạn thông cảm, giúp đỡ. Vấn đề này chính các bạn trong lớp và Hội PHHS sẽ có điều kiện tốt hơn để giúp đỡ các em. - Cần đề ra các giải pháp động viên, khích lệ để các em cố gắng phấn đấu. Ví dụ đề nghị nhà trường, Hội PHHS trao các phần thưởng, học bổng cho các em khi có sự cố gắng. - Thường xuyên nhắc nhỡ, giáo dục các em thông qua các bài học về kĩ năng sống. Cần khéo léo tránh làm các em cảm thấy mặc cảm, xấu hổ, xa lánh bạn bè. Phải làm cho các em hiểu, phải chấp nhận hoàn cảnh và vựơt khó vươn lên. f. Tư vấn – giúp đỡ- giải quyết vấn đề: Trong suốt quá trình học, tất nhiên sẽ xảy ra rất nhiều vấn đề đối với học sinh. Như mâu thuẫn giữa bạn bè với nhau, áp lực học tập, trăn trở về giáo viên, vấn đề học lệch, thi đua, tham gia phong trào và còn rất nhiều vấn đề khác rất cần có sự tư vấn của GVCN. Thực tiễn cho thấy áp lực học tập là vấn đề phổ biến nhất và thường xuyên nhất với các em. Là một thành viên của lớp A1 là một vinh dự, một sự tự hào nhưng cũng là một áp lực rất lớn. Đa phần phụ huynh, nhà trường, Đoàn thanh niên…đều đòi hỏi và yêu cầu rất cao ở các em. Đặc biệt là các thầy cô bộ môn. Sự đánh giá cao các em học sinh A1 có mặt tích cực là tạo điều kiện để các em phấn đấu học tập, thể hiện tài năng của mình. Nhưng nó cũng có mặt trái khi sự yêu cầu quá sức học sinh. Bởi một tập thể đông thì khả năng của các em không thể đồng đều nhau được. Sự yêu cầu và đánh giá cao đó phần nào làm các em cảm thấy mệt mỏi, một số em có dấu hiệu buông xuôi và học lệch, nhất là năm học 12. Có thể thấy lịch học các em quá dày đặc, thời gian học đã vắt kiệt sức các em, từ đó sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng tham gia phong trào của Đoàn trường tổ chức. Có nhiều Phụ huynh cũng chỉ đặt mục tiêu con em đậu đại học, không nhất thiết phải là học sinh giỏi, không nhất thiết lớp xếp loại thi đua thế nào. Cũng đã động viên con em chú ý học lệch để đạt được mục đích cao nhất. Đối với GVBM cũng muốn hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách tốt đẹp nên phải yêu cầu các em hơi cao. Đoàn thanh niên cũng không muốn tinh thần và kết quả thực hiện phong trào thấp, chất lượng thi đua hàng tuần không đạt yêu cầu. Cũng có GVBM trao đổi: “Các em học quá lệch, các em dường như xem thường bộ môn, xem thường người dạy”. Đề nghị GVCN phải xem xét để nhắc nhỡ các em. Khi lắng nghe ý kiến của học sinh thì có em tâm sự : “ Em đã cố gắng để học suốt 11 năm hơn rồi. Đã 11 năm em là học sinh giỏi, bản thân em cũng muốn năm cuối cùng của mình cũng là học sinh giỏi. Em đã tự cố gắng, em đã cố gắng rất nhiều để học các môn theo yêu cầu của GVBM. Nhưng có lẽ yêu cầu của thầy, cô quá sức tụi em, thực sự bài tập thầy, cô cho quá khó …” Và còn rất nhiều những vấn đề tương tự. Đó quả thật là một bài toán khó đối với một GVCN muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, một vấn đề hết sức trăn trở đối với bản thân trong suốt thời gian làm công tác chủ nhiệm. GVCN không thể chỉ thương yêu và thông cảm cho học sinh mà yêu cầu đồng nghiệp thay đổi. Cũng không thể vì bảo vệ uy tín của đồng nghiệp mà không giúp các em giải quyết khó khăn đó. Người GVCN luôn phải đặt mình vào rất nhiều vị trí để dung hoà với nhau. Đó là đặt mình vào học sinh, đặt mình vào giáo viên bộ môn, đặt mình vào lãnh đạo, vào Đoàn trường và vào PHHS. GVCN phải thật sự hiểu và cảm thông cho học sinh. Không nên vội trách các em sao lơ là tham gia phong trào, sao không quan tâm nhiều và đầy đủ các môn học, vì có lẽ các em cũng đã cố gắng hết khả năng của mình. GVCN phải thường xuyên tâm sự, chia sẻ và lắng nghe ý kiến của học sinh. Trao đổi với phụ huynh, với Ban lãnh đạo và đồng nghiệp để có thể hiểu và cảm thông, giúp đỡ các em. Áp dụng các biện pháp thế nào để tư vấn, để giải quyết vấn đề tốt đẹp tuỳ thuộc vào kinh nghiệm, kĩ năng của mỗi giáo viên, song thiết nghĩ cần phải đặt mục tiêu là giáo dục các em phát triển một cách toàn diện. Vì thế yêu cầu người giáo viên phải luôn đặt lợi ích của học sinh, lợi ích của tập thể lên hàng đầu. Phải công bằng trong đánh giá. Phải giúp các em tạo được mối thân thiện, yêu thương, đoàn kết với nhau. Phải dạy các em tôn trọng giáo viên, giữ gìn uy tín giáo viên trong mắt học sinh, tôn trọng môn học. Dạy các em trung thực trong thi đua, cạnh tranh lành mạnh. Phải khuyến khích các em tham gia phong trào nhiệt tình, hiệu quả đến mức tối đa có thể để hoàn thành nhiệm vụ của mình. g. Vai trò một giáo viên giảng dạy bộ môn: Vừa là một GVCN cùng vừa là một GVBM giảng dạy môn Vật lý cho các em lớp chủ nhiệm là một điều thuận lợi. Vì có nhiều điều kiện thường xuyên gắn bó với các em hơn thông qua môn học. Có thể thông qua tiết dạy giáo dục cho học sinh các kĩ năng, thẩm mỹ, đạo đức, lối sống, pháp luật v.v.. Thế nhưng cần tránh sự nhẫm lẫn một tiết học kiến thức chuyên môn và một tiết sinh hoạt. Khi đứng lớp với tư cách là một GVBM ta không nên giải quyết quá nhiều của người GVCN. Không nên có thái độ không vui và xử lý khi lớp có vấn đề, hãy xem như một giáo viên bộ môn bình thường để kết quả học tập của các em là tốt nhất và vui vẻ nhất, trừ những tình huống rất quan trọng cần giải quyết. Đối với vai trò là một giáo viên chủ nhiệm cũng vừa là một giáo viên bộ môn thì đòi hỏi người giáo viên phải luôn học hỏi nâng cao trình độ, phương pháp dạy tích cực, hiệu quả để nâng cao chất lượng của lớp về bộ môn mà còn xây dựng uy tín, sự tôn trọng của học sinh thông qua kết quả dạy học góp phần vào mục tiêu giáo dục toàn diện của GVCN. 3. Kết quả thực hiện các nhiệm vụ của GVCN a. Giáo dục tri dục – đức dục: a.1. Giáo dục tri dục: a.1.1. Năm lớp 10 (2011-2012) Khi mới vào trường các em còn nhiều bỡ ngỡ, chưa quen với môi trường và phương pháp học tập mới. Vì thế kết quả học tập chưa cao: Học kì I: - Học sinh giỏi : 19 học sinh, chiếm 38% - Học sinh tiên tiến : 29 học sinh, chiếm 58% - Trung bình : 2 học sinh, chiếm 4%. Cả năm : - Học sinh giỏi : 25 học sinh, chiếm 50% - Học sinh tiên tiến : 25 học sinh, chiếm 50% - Tham gia thi HSG tỉnh vượt cấp đạt 4 giải ở môn toán. a.1.2 Năm lớp 11 ( 2012-2013) - Học sinh giỏi : 29 học sinh, chiếm 59,19% - Học sinh tiên tiến: 20 học sinh, chiếm 40,81% - Trung bình : 0 - Thi HSG tỉnh vượt cấp đạt 5 giải ( 4 giải ở môn Toán và 1 giải ở môn Lý) a.1.3. Năm lớp 12 ( 2013-2014) - Học sinh giỏi : 28 học sinh, chiếm 57,14% - Học sinh tiên tiến : 20 học sinh, chiếm 40,81%. - Trung bình : 1 học sinh, chiếm 2,04% - Thi HSG tỉnh 33 giải - Kết quả thi tốt nghiệp THPT đạt 100% - Kết quả thi đại học, cao đẳng đạt 100%, Trong đó có 89,79% thi đậu đại học nguyện vọng 1, còn lại là nguyện vọng 2 và cao đẳng. Khoảng 95% học sinh đạt điểm thi đại học trên 20 điểm và rất nhiều em đậu vào Y khoa, Ngoại thương, Bách khoa,Kinh tế, Ngân Hàng, KHXH và NV, Công an… a.2. Về giáo dục đức dục, hạnh kiểm: Ngay từ đầu năm lớp 10, dù đa phần các em ngoan, chăm chỉ. Thế nhưng cũng còn nhiều em vi phạm nhiều lỗi như đi học trễ nhiều lần, vô lễ với giáo viên, chưa nhiệt tình với phong trào, chưa tích cực tham gia xây dựng bài theo yêu cầu, tác phong chưa đúng quy định.v.v… Vì thế hạnh kiểm ở lớp 10,11 vẫn còn một số em xếp loại khá. Nhưng sang lớp 12 các em đã ý thức hơn, đã tiến bộ nhiều hơn. Chấp hành tốt nội quy, học tập và rèn luyện tốt nên hạnh kiểm tốt đạt 100% b. Giáo dục văn thể mỹ - kỹ năng sống: Như đã nói, mục tiêu giáo dục hướng các em đến sự trưởng thành một cách toàn diện. Không chỉ chú trọng giáo dục kiến thức, thành quả học tập mà công tác giáo dục thẩm mỹ và kĩ năng sống cũng rất được xem trọng. Ngay từ các buổi học đầu tiên tôi đã dạy các em một bài học về cách sống, cách học tập và cách làm người. Là một thành viên của A1 là một niềm vinh hạnh nhưng cũng sẽ rất nhiều khó khăn và thách thức. Phải học tập và rèn luyện như thế nào để xứng đáng là một đứa con ngoan, một người trò giỏi. Phải làm thế nào để trưởng thành cả về kiến thức lẫn kĩ năng sống và nhân cách của mình để mai sau sẽ trở thành một người sống có ý nghĩa, có hạnh phúc, có lợi ích cho gia đình và xã hội. Phải học tập thế nào để không phải trở thành một người khô khan, thực dụng. Sống không chỉ biết có vật chất mà còn phải có tình người, phải biết đối nhân, xử thế và phải biết giá trị của cái đẹp…Tất cả những suy nghĩ và hành động trong học tập ngày hôm nay cũng như trong công việc ở tương lai phải hướng đến cái - - - CHÂN, THIỆN, MỸ. Vì thế yêu cầu các em phải cố gắng học tập, cố gắng thực hiện những bài học giáo dục kĩ năng sống, cố gắng tham gia hoạt động phong trào, ngoại khoá… Với sự giúp đỡ của nhà trường, của Hội PHHS, và sự nhiệt tình của các em trong suốt 3 năm học đã thực hiện được rất nhiều hoạt động giáo dục thẩm mỹ và kĩ năng sống ngoài các phong trào của trường và đã đạt kết quả rất cao. b.1. Tham gia phong trào của Đoàn trường tổ chức: Tập thể luôn hăng hái tham gia nhiệt tình và hiệu quả các phong trào thi đua, học tập, TDTT do nhà trường tổ chức như các phong trào: thi đua thường xuyên, hoa học tốt, giờ học tốt; phong trào nuôi heo tiết kiệm, gây quỹ ủng hộ. Tham gia giải báo toán, viết thơ văn chào mừng ngày 20/11. Tham gia văn nghệ, diễn kịch tuyên truyền phòng tránh ma tuý, bạo lực học đường… Tham gia Hội khoẻ Phù Đổng cấp trường, cấp tỉnh v.v… tất cả đều đạt kết quả rất cao như: Về thi đua thường xuyên: Cả 3 năm học đều là lớp xếp loại tốt, với thứ hạng thi đua luôn trong nhóm 1,2,3 của trường. Về Tham gia hoa học tốt, giờ học tốt chào mừng ngày 20/11 luôn dẫn đầu trường hàng năm. Đặc biệt năm học 2012-2013 có số hoa điểm tốt và giờ học tốt đạt kỷ lục với 613 hoa và 174 giờ học tốt. Tham gia Hội khoẻ Phù Đổng cấp tỉnh đạt 3 HCV môn Võ Việt Nam Tham gia cuộc thi tiếng hát học sinh, sinh viên cấp tỉnh đạt giải 3 Giải nhất hội trại Mừng Đảng Mừng Xuân năm 2014. Tham gia hội thi Vũ Điệu Trẻ do Huyện đoàn tổ chức đạt giải 3 Và rất nhiều phong trào khác cũng đạt kết quả rất cao b.2.Các phong trào do tập thể lớp tổt chức: Với chủ trương phát triển kĩ năng sống, giáo dục tình yêu quê hương đất nước. Tạo môi trường thân thiện để các em vui chơi, đoàn kết, yêu thương và gắn bó nhau hơn đồng thời giúp các em giải toả bớt những căng thẳng , mệt mỏi trong học tập, ngoài các phong trào của Đoàn trường, tập thể lớp, GVCN và Hội PHHS cũng tổ chức được rất nhiều phong trào và hoạt động tham quan , ngoại khoá hiệu quả. Về phong trào giáo dục thẩm mỹ: cho các em thi cắm hoa, thi nấu ăn, viết bài thuyết trình. Cho các em làm báo tường chào mừng ngày 20/11. Làm thiệp để tặng cho nhau trong dịp tết kèm theo lời nhận xét chân thành, thường xuyên cho các em thuyết trình về các giá trị của cuộc sống như tình yêu, gia đình, cha mẹ, bạn bè, giá trị của nụ cười.v.v.. Đặc biệt làm được cuốn nội san của riêng tập thể A1 vào cuối năm học 12. Về ngoại khoá , tham quan, dã ngoại: + Tổ chức cho các em đi du lịch tham quan rừng Quốc gia Nam Cát Tiên ở cuối HKI năm lớp 10, kết hợp sơ kết và phát thưởng HKI, Tổ chức thành công trò chơi rung chuông vàng tìm hiểu về kiến thức học tập, tình hình của lớp, tình hình kinh tế xã hội ở địa phương và rừng Quốc gia Nam Cát Tiên… + Tổ chức tham quan du lịch Mũi Né vào cuối năm lớp 10. Kết hợp tổng kết và phát thưởng năm học. Tổ chức cuộc thi hoá trang và thi hoa hậu của lớp, tổ chức chương trình A1 Gottalen- tài năng A1. Đây vừa là sân chơi giải trí vừa để các
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng