THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Dạy học nhóm bài phong cách ngôn ngữ trong chương
trình Ngữ văn THPT theo định hướng phát triển năng lực
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Chương trình Ngữ văn THPT lớp 10,11,12
ban cơ bản
3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ tháng 9/2015 đến tháng 5/2016
4. Tác giả:
Họ và tên: Vũ Lan Phương
Năm sinh: 1976
Nơi thường trú: 11/64 Trần Nhật Duật
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: THPT Chuyên Lê Hồng Phong
Điện thoại: 0932251976
Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 50%
5. Đồng tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Hương Quỳnh
Năm sinh: 1990
Nơi thường trú: số nhà 33 đường Nguyễn Hới, thôn Phúc Trọng, xã Mĩ Xá,
thành phố Nam Định
Trình độ chuyên môn: Cử nhân
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: THPT chuyên Lê Hồng Phong
Điện thoại: 01234083380
Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 50%
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: THPT Chuyên Lê Hồng Phong
Địa chỉ: 76 Vị Xuyên
Điện thoại: 0350640297.
[1]
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
Trong những năm gần đây, nền giáo dục nước ta đang tích cực chuyển
mình, từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung chuyển sang tiếp cận năng
lực của người học. Phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều”
không còn thích hợp. Thay vào đó, dạy cách học, cách vận dụng kiến thức,
rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất được quan tâm. Trong
bối cảnh ấy, việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng phát
triển năng lực của người học là cần thiết.
Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh là
thông qua môn học, học sinh có khả năng kết hợp một cách linh hoạt và có tổ
chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, động cơ cá nhân,… nhằm đáp
ứng hiệu quả một số yêu cầu phức hợp của hoạt động trong một số hoàn cảnh
nhất định. Các năng lực đặc thù của môn học gồm: năng lực giao tiếp tiếng
Việt và năng lực thưởng thức văn học,cảm thụ thẩm mỹ. Ngoài ra, học sinh
cũng cần được phát huy các năng lực khác như: năng lực giải quyết vấn đề,
giao tiếp, sáng tạo, hợp tác, tự quản bản thân,…
Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như việc đi dự giờ,
học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, chúng tôi nhận thấy sự đổi mới, sáng
tạo trong phương pháp dạy học môn ngữ văn để phát huy được tính chủ động,
tích cực cũng như để phát hiện được những năng lực chuyên biệt của người
học…chưa nhiều. Dạy học văn vẫn nặng về việc học sinh cần học những gì để
có được kiến thức toàn diện chứ chưa ý thức được mục tiêu quan trọng nhất
của việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực là học sinh có thể làm
được gì sau khi học.
Xuất phát từ hiện thực đời sống, giao tiếp ngôn ngữ đóng một vai trò
quan trọng. Giao tiếp luôn luôn được phân biệt theo từng lĩnh vực và trên
từng lĩnh vực đều có những cách thức thể hiện riêng (thông tin-> thể loại ->
tín hiệu). Các cách thức thể hiện tập hợp thành những kiểu phương tiện ngôn
ngữ riêng, đó chính là phong cách ngôn ngữ. Dạy học theo định hướng phát
triển năng lực học sinh áp dụng vào nhóm bài phong cách ngôn ngữ trong
[2]
chương trình Ngữ văn THPT gồm: Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, Phong
cách ngôn ngữ nghệ thuật (lớp 10); Phong cách ngôn ngữ báo chí, Phong
cách ngôn ngữ chính luận (lớp 11); Phong cách ngôn ngữ khoa học, Phong
cách ngôn ngữ hành chính (lớp 12) không phải để minh họa cho lí thuyết dạy
học mà mục đích chính hướng tới là giúp người học có thể tìm ra câu trả lời
cho câu hỏi: Giao tiếp như thế nào để mang lại hiệu quả cao nhất cũng như
thể hiện được phẩm chất, năng lực, tính cách của người nói?
II. Mô tả giải pháp
1.
Hiện trạng trước khi áp dụng giải pháp mới
1.1. Ưu, nhược điểm của giải pháp cũ
a/ Phương pháp thuyết trình
Trước khi nền giáo dục nước ta chú trọng vào việc đổi mới, sáng tạo
những phương pháp dạy học tích cực thì phương pháp thuyết trình vẫn được
coi là phương pháp giảng dạy truyền thống, đã tồn tại từ rất lâu, được áp dụng
không chỉ ở môn ngữ văn mà ở hầu khắp các môn học. Hình ảnh “rót nước
vào bình” đã mô tả chính xác phương pháp dạy học này. Khi ấy, giáo viên là
người “rót” những kiến thức cần thiết vào “chiếc bình” là học sinh. Vận dụng
phương pháp thuyết trình vào việc giảng dạy nhóm bài phong cách ngôn ngữ
trong chương trình Ngữ văn THPT ta dễ dàng nhận thấy cái đích hướng tới
của việc học nhóm bài này chỉ để thực hiện những mục tiêu về kiến thức mà
bài học đề ra. Cụ thể như sau:
Bài Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt nắm được các khái niệm ngon ngữ
sinh hoạt, phong cách ngôn ngữ sinh hoạt với những đặc trưng cơ bản của nó.
Bài Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật nắm được khái niệm ngôn ngữ
nghệ thuật, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật với các đặc trưng cơ bản của nó.
Bài Phong cách ngôn ngữ báo chí hiểu được khái niệm ngôn ngữ báo
chí, các thể loại chủ yếu của văn bản báo chí và đặc điểm của phong cách
ngôn ngữ báo chí.
Bài Phong cách ngôn ngữ chính luận hiểu được khái niệm ngôn ngữ
chính luận, các loại văn bản chính luận và đặc điểm của phong cách ngôn ngữ
chính luận.
[3]
Bài Phong cách ngôn ngữ khoa học nắm vững các khái niệm văn bản
khoa học, phong cách ngon ngữ khoa học và các đặc trưng của phong cách ấy.
Bài Phong cách ngôn ngữ hành chính nắm vững khái niệm ngôn ngữ
hành chính và các đặc trưng cơ bản
Ngày nay, trong xu hướng đổi mới của nền giáo dục, phương pháp
thuyết trình không phải không còn chỗ đứng. Chúng ta không thể phủ nhận
đây là phương pháp tối ưu giúp người dạy có thể truyền đạt một khối lượng
kiến thức lớn trong một khoảng thời gian ngắn.Giáo viên hoàn toàn chủ động
trong giờ giảng của mình, không gặp khó khăn trở ngại đối với những vấn đề
có thể nảy sinh trên lớp, chỉ cần chuẩn bị bài giảng thuyết trình một lần người
dạy có thể sử dụng để giảng dạy trong nhiều lần. Về phía học sinh, các em
tiếp thu được nhiều kiến thức khi nhận được càng nhiều thông tin từ giáo
viên.
Tuy nhiên, cần phải nghiêm túc nhìn nhận về phương pháp dạy học
mang tính truyền thống này. Điều mà tất cả các giáo viên dễ dàng nhận thấy
khi đứng lớp đó là nếu thuyết trình trong một khoảng thời gian dài thì hầu hết
học sinh đều mệt mỏi khi phải ngồi lắng nghe mà không được chủ động tham
gia vào bài giảng. Mặc dù giáo viên hoàn toàn chủ động về thời gian và nội
dung giảng dạy, nhưng người dạy cũng vẫn rất mệt mỏi như người học.
Mặt khác, chỉ có mỗi giáo viên là người trình bày, nên dường như giáo
viên là người chịu trách nhiệm duy nhất về thành công và chất lượng bài
giảng. Điều này không thể khuyến khích học sinh tích cực học tập và có tâm
lý ỷ lại vào giáo viên. Trong thực tế, rất nhiều học sinh không thể nhớ được
hết những gì mà thầy cô trình bày và thậm chí còn nhớ rất ít. Hơn nữa, việc
học sinh ghi nhớ những kiến thức mà giáo viên truyền đạt trên lớp không
đồng nghĩa với việc học sinh hiểu và có thể vận dụng được trong thực tế. Bên
cạnh đó, vì học sinh không có cơ hội để chia sẻ, đóng góp những kiến thức
và suy nghĩ, trải nghiệm của mình nên giáo viên đôi khi sẽ trình bày lại những
kiến thức mà học sinh đã biết rồi hoặc không cần thiết. Ngoài ra, giáo viên
không thể thu nhận được ý kiến phản hồi từ học sinh nên họ cũng không thể
biết được những nội dung nào mà học sinh đã hiểu, chưa hiểu và những nội
dung nào cần thiết phải điều chỉnh lại.
[4]
b/ Phương pháp phân tích ngôn ngữ
Một phương pháp thường được sử dụng khi dạy học tiếng việt đặc biệt
ở những bài về phong cách ngôn ngữ là phương pháp phân tích ngôn ngữ,
Trong phương pháp này, học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo
viên, tiến hành tìm hiểu các hiện tượng ngôn ngữ, quan sát và phân tích các
hiện tượng đó theo định hướng của bài học, từ đó rút ra những nội dung lý
thuyết hoặc thực hành cần ghi nhớ. Bản chất của phương pháp này mang tính
quy nạp.
Ví dụ: Ở bài Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, SGK có đưa ra ngữ liệu
như sau:
Hãy thể hiện đúng giọng điệu đoạn ghi chép sau đây:
(Buổi trưa, tại khu tập thể X, hai bạn Lan và Hùng gọi bạn Hương đi học.)
-
Hương ơi! Đi học đi!
(Im lặng)
-
Hương ơi! Đi học đi! (Lan và Hùng gào lên)
Gì mà ầm ầm lên thế chúng mày! Không cho ai ngủ ngáy nữa à! (tiếng
một người đàn ông nói to)
Các cháu ơi, khẽ chứ! Để cho các bác ngủ trưa vơi!...Nhanh lên con,
Hương! (tiếng mẹ Hương nhẹ nhàng ôn tồn)
-
Đây rồi, ra đây! (tiếng Hương nhỏ nhẹ)
-
Gớm, chậm như rùa ấy! Cô phê bình chết thôi! (tiếng Lan càu nhàu)
lời)
Hôm nào cũng chậm. lạch bà lạch bạch như vịt bầu!...(tiếng Hùng tiếp
Trên đây là một đoạn ghi lại cuộc đối thoại trong ngôn ngữ sinh hoạt.
Từ đoạn hội thoại đó, anh (chị) hiểu thế nào là ngôn ngữ sinh hoạt?
Hay ở bài Phong cách ngôn ngữ chính luận, giáo viên có thể yêu cầu
học sinh tìm hiểu ngữ liệu SGK trang 96:
Đọc các đoạn trích trong các văn bản chính luận sau và tìm hiểu về:
-Thể loại của văn bản
-Mục đích viết văn bản
[5]
-Thái độ, quan điểm của người viết đối với những vấn đề được đề cập
đến.
a) Tuyên ngôn
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”
Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn độc lập nawm1776 của nước Mĩ.
Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm
1791 cũng nói:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi.”
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
(…)
(Hồ Chí Minh)
b) Bình luận thời sự
CAO TRÀO CHỐNG NHẬT, CỨU NƯỚC
Ngày 9-3-1945, ở Đông Dương, phát xít Nhật quật thực dân Pháp
xuống chân đài chính trị. Không đầy hai mươi bốn tiếng đồng hồ, trong các
thành phố lớn, thực dân Pháp đều hạ súng xin hàng. Nhiều quân đội của
Pháp nhằm biên giới cắm đầu chạy. Riêng ở Cao Bằng và Bắc Cạn, một vài
đội quân của Pháp định thống nhất hành động với Quân Giải phóng Việt
Nam chống Nhật. Ở Bắc Cạn, họ đã cùng ta tổ chức “Ủy ban Pháp-Việt
chống Nhật”. Nhưng không bao lâu họ cũng bỏ ta chạy sang Trung Quốc. Có
thể nói là quân Pháp ở Đông Dương đã không kháng chiến và công cuộc
kháng chiến ở Đông Dương là công cuộc duy nhất của nhân dân ta (…)
(Trường Chinh, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, tập 1, NXB
Sự thật, 1976)
[6]
c) Xã luận
VIỆT NAM ĐI TỚI
Khắp non sông Việt Nam đang bừng dậy một sinh khí mới. Sinh khí ấy
đang biểu hiện trên khuôn mặt từng người dân, trong từng thôn bản, ngõ phố,
trên từng cánh đồng, công trường, trong từng viện nghiên cứu, trên các chốt
tiền tiêu đầu sóng ngọn gió…
Rạo rực đất trời, rạo rực lòng người! (…)
Đất nước đang căng tràn sức xuân trong ý chí và khát vọng vươn tới
của 80 triệu người con đất Việt. Nguồn sinh lực mới được kết tụ và nhân lên
trong xuân Giáp Thân đang hứa hẹn tạo ra một sức băng lướt mới trên con
đường dài xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Xuân mới, thế và lực mới, chúng ta tự tin đi tới!
(Theo báo Quân đội nhân dân, số Tết 2004)
Ưu điểm của phương pháp phân tích ngôn ngữ là phương pháp này
phân chia đối tượng thành những bộ phận, những khía cạnh, những mặt khác
nhau để nhận thức đối tượng chính xác và đầy đủ hơn. Nó rất thuận lợi và
hiệu quả khi cần cung cấp cho học sinh những tri thức lý thuyết mới, hay khi
cần tìm hiểu mối quan hệ giữa các yếu tố ngôn ngữ với nhau. Giúp học sinh
vừa phát triển ngôn ngữ vừa phát triển tư duy.
Hạn chế của phương pháp này là mất nhiều thời gian cho việc quan sát,
phân tích ngữ liệu, hình thành khái niệm lý thuyết và củng cố, vận dụng,
luyện tập. Giáo viên phải nắm chắc nội dung trọng tâm và phương hướng giải
quyết vấn đề, nếu không bài giảng dễ đi lan man, vòng vo, lạc hướng vấn đề.
c/ Phương pháp luyện tập
Bên cạnh việc nắm vững những kiến thức về phong cách ngôn ngữ
cũng như những đặc trưng của phong cách ngôn ngữ thì việc thực hành để
luyện rèn về kĩ năng cũng vô cùng quan trọng và cần thiết. Bởi vậy phương
pháp luyện tập đã được áp dụng.
Luyện tập với tư cách là phương pháp dạy học là sự chỉ dẫn của giáo
viên, học sinh lặp đi lặp lại nhiều lần những hành động nhất định trong những
hoàn cảnh khác nhau nhằm hình thành và phát triển những kỹ năng, kỹ xảo.
[7]
Tất cả các môn học nói chung và môn ngữ văn nói riêng đều cần tổ
chức luyện tập nhằm hình thành cho học sinh những hành động trí tuệ hoặc
hành động vận động tương ứng. Đó là những kỹ năng, kỹ xảo giải những bài
tập cùng một loại nhất định. Việc luyện tập không chỉ hình thành và phát triển
những kỹ năng, kỹ xảo từng môn học mà còn những kỹ năng, kỹ xảo chung
như kỹ năng kỹ xảo tư duy logic, tổ chức lao động, học tập một cách khoa
học.
Đối với nhóm bài phong cách ngôn ngữ trong chương trình Ngữ văn
THPT, người giáo viên vận dụng phương pháp luyện tập nhằm thực hiện
những mục tiêu về kĩ năng cụ thể như sau:
Bài Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt nâng cao kĩ năng phân tích và sử
dụng ngôn ngữ theo phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.
Bài Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật có kĩ năng phân tích và sử dụng
ngôn ngữ theo phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
Bài Phong cách ngôn ngữ báo chí biết viết một bài đưa tin trên báo
tường, biết phân tích một bài phóng sự hoặc tiểu phẩm báo chí.
Bài Phong cách ngôn ngữ chính luận biết phân tích và viết bài văn nghị
luận chính trị.
Bài Phong cách ngôn ngữ khoa học có kĩ năng phân biệt phong cách
ngôn ngữ khoa học với các phong cách ngôn ngữ khác và biết sử dụng ngôn
ngữ khoa học trong các trường hợp cần thiết.
Bài Phong cách ngôn ngữ hành chính có kĩ năng soạn thảo một số văn
bản hành chính khi cần thiết.
Phương pháp luyện tập thể hiện ưu điểm trong việc giúp người học vận
dụng và ghi nhớ những kiến thức đã học. Luyện tập là cách để học sinh rèn kĩ
năng hiệu quả và giúp các em chủ động trong việc tiếp thu kiến thức.
Tuy vậy với thời lượng có hạn cho một bài dạy, áp dụng phương pháp
luyện tập khiến người dạy phải dành nhiều thời gian cho học sinh làm bài.
Tốc độ làm bài luyện tập của học sinh không giống nhau, khó chọn được bài
luyện vừa sức trong thời gian định trước cho tất cả mọi người.
1.2. Tiểu kết
[8]
Các phương pháp dạy học nhóm bài phong cách ngôn ngữ trong
chương trình Ngữ văn THPT mang tính truyền thống như thuyết trình, phân
tích ngôn ngữ, luyện tập… luôn quan trọng. Đổi mới không có nghĩa là loại
bỏ phương pháp này mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả
và hạn chế nhược điểm của chúng.
Cần phải kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học. Bởi vì không có
một phương pháp dạy học toàn năng phù hợp với mọi mục tiêu và nội dung.
Mỗi phương pháp và hình thức dạy học có những ưu, nhược điểm và giới hạn
sử dụng riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng phương pháp và hình thức trong
toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích
cực và nâng cao chất lượng dạy học.
2.Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
2.1. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực
Sự phát triển kinh tế – xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá đặt ra những
yêu cầu mới đối với người lao động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới
cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực. Một trong những
định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang
tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc
hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người
học.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy
và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận
dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một
chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự
học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát
triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập
đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Để
thực hiện tốt mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo Nghị quyết
số 29-NQ/TW, cần có nhận thức đúng về bản chất của đổi mới phương pháp
[9]
dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học và một số biện pháp
đổi mới phương pháp dạy học theo hướng này.
a/ Đặc trưng của dạy học theo định hướng phát triển năng lực
Một, dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, giúp
học sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không thụ động tiếp thu
những tri thức được sắp đặt sẵn. Giáo viên là người tổ chức và chỉ đạo học
sinh tiến hành các hoạt động học tập phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng
tạo kiến thức đã biết vào các tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn…
Hai, chú trọng rèn luyện cho học sinh biết khai thác sách giáo khoa và
các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã có, suy luận để tìm
tòi và phát hiện kiến thức mới… Định hướng cho học sinh cách tư duy như
phân tích, tổng hợp, đặc biệt hoá, khái quát hoá, tương tự, quy lạ về quen…
để dần hình thành và phát triển tiềm năng sáng tạo.
Ba, tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác, lớp học trở
thành môi trường giao tiếp GV – HS và HS – HS nhằm vận dụng sự hiểu biết
và kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết các nhiệm vụ
học tập chung.
Bốn, chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong
suốt tiến trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập (đánh giá lớp học).
Chú trọng phát triển kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh
với nhiều hình thức như theo lời giải/đáp án mẫu, theo hướng dẫn, hoặc tự
xác định tiêu chí để có thể phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu cách sửa
chữa các sai sót.
b/ Các năng lực môn Ngữ văn hướng đến
* Năng lực giải quyết vấn đề
Năng lực giải quyết vấn đề là một năng lực chung, thể hiện khả năng
của mỗi người trong việc nhận thức, khám phá được những tình huống có vấn
đề trong học tập và cuộc sống mà không có định hướng trước về kết quả, và
tìm các giải pháp để giải quyết những vấn đề đặt ra trong tình huống đó, qua
đó thể hiện khả năng tư duy, hợp tác trong việc lựa chọn và quyết định giải
pháp tối ưu.
[10]
Với môn Ngữ văn, năng lực này cũng cần được hướng đến khi triển
khai các nội dung dạy học của bộ môn, do tính ứng dụng thực tiễn và quy
trình hình thành năng lực có thể gắn với các bối cảnh học tập (tiếp nhận và tạo
lập văn bản) của môn học, khi nảy sinh những tình huống có vấn đề.
Với một số nội dung dạy học trong môn Ngữ văn như: xây dựng kế
hoạch cho một hoạt động tập thể, tiếp nhận một thể loại văn học mới, viết một
kiểu loại văn bản, lí giải các hiện tượng đời sống được thể hiện qua văn bản,
thể hiện quan điểm của cá nhân khi đánh giá các hiện tượng văn học,… quá
trình học tập các nội dung trên là quá trình giải quyết vấn đề theo quy trình đã
xác định. Quá trình giải quyết vấn đề trong môn Ngữ văn có thể được vận
dụng trong một tình huống dạy học cụ thể hoặc trong một chủ đề dạy học.
* Năng lực sáng tạo
Năng lực sáng tạo được hiểu là sự thể hiê nê khả năng của học sinh trong
viê êc suy nghĩ và tìm tòi, phát hiê ên những ý tưởng mới nảy sinh trong học tâ êp
và cuô êc sống, từ đó đề xuất được các giải pháp mới mô êt cách thiết thực, hiê êu
quả để thực hiê ên ý tưởng. Trong viê êc đề xuất và thực hiê ên ý tưởng, học sinh
bô êc lô ê óc tò mò, niềm say mê tìm hiểu khám phá.
Viê êc hình thành và phát triển năng lực sáng tạo cũng là mô êt mục tiêu
mà môn học Ngữ văn hướng tới. Năng lực này được thể hiê ên trong viê êc xác
định các tình huống và những ý tưởng, đă êc biê êt những ý tưởng được gửi gắm
trong các văn bản văn học, trong viê êc tìm hiểu, xem xét các sự vật, hiê ên
tượng từ những góc nhìn khác nhau, trong cách trình bày quá trình suy nghĩ
và cảm xúc của học sinh trước mô tê vẻ đẹp, mô tê giá trị của cuô cê sống. Năng
lực suy nghĩ sáng tạo bô êc lô ê thái đô ê đam mê và khát khao được tìm hiểu của
học sinh, không suy nghĩ theo lối mòn, theo công thức.
* Năng lực hợp tác
Học hợp tác là hình thức học sinh làm việc cùng nhau trong nhóm nhỏ
để hoàn thành công việc chung và các thành viên trong nhóm có quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau, giúp đỡ nhau để giải quyết các vấn đề khó khăn của nhau. Khi
làm việc cùng nhau, học sinh học cách làm việc chung, cho và nhận sự giúp
đỡ, lắng nghe người khác, hoà giải bất đồng và giải quyết vấn đề theo hướng
[11]
dân chủ. Đây là hình thức học tập giúp học sinh ở mọi cấp học phát triển cả
về quan hệ xã hội lẫn thành tích học tập.
Năng lực hợp tác được hiểu là khả năng tương tác của cá nhân với cá
nhân và tâ êp thể trong học tâ pê và cuô êc sống. Năng lực hợp tác cho thấy khả
năng làm viê êc hiê êu quả của cá nhân trong mối quan hê ê với tâ êp thể, trong
mối quan hê ê tương trợ lẫn nhau để cùng hướng tới mô êt mục đích chung. Đây
là mô êt năng lực rất cần thiết trong xã hô êi hiê ên đại, khi chúng ta đang sống
trong mô êt môi trường, mô êt không gian rô nê g mở của quá trình hô êi nhâ êp.
Trong môn học Ngữ văn, năng lực hợp tác thể hiê ên ở viê êc học sinh
cùng chia sẻ, phối hợp với nhau trong các hoạt đô nê g học tâ êp qua viê êc thực
hiê ên các nhiê êm vụ học tâ pê diễn ra trong giờ học. Thông qua các hoạt đô nê g
nhóm, că pê , học sinh thể hiê nê những suy nghĩ, cảm nhâ nê của cá nhân về
những vấn đề đă êt ra, đồng thời lắng nghe những ý kiến trao đổi thảo luâ ên của
nhóm để tự điều chỉnh cá nhân mình. Đây là những yếu tố rất quan trọng góp
phần hình thành nhân cách của người học sinh trong bối cảnh mới.
* Năng lực tự quản bản thân
Năng lực này thể hiê ên ở khả năng của mỗi con người trong viê êc kiểm
soát cảm xúc, hành vi của bản thân trong các tình huống của cuô êc sống, ở
viê êc biết lâ êp kế hoạch và làm viê êc theo kế hoạch, ở khả năng nhâ ên ra và tự
điều chỉnh hành vi của cá nhân trong các bối cảnh khác nhau. Khả năng tự
quản bản thân giúp mỗi người luôn chủ đô nê g và có trách nhiê êm đối với
những suy nghĩ, viê êc làm của mình, sống có kỉ luâ êt, biết tôn trọng người
khác và tôn trọng chính bản thân mình.
Cũng như các môn học khác, môn Ngữ văn cũng cần hướng đến viê êc
rèn luyê ên và phát triển ở học sinh năng lực tự quản bản thân. Trong các bài
học, học sinh cần biết xác định các kế hoạch hành động cho cá nhân và chủ
động điều chỉnh kế hoạch để đạt được mục tiêu đặt ra, nhận biết những tác
động của ngoại cảnh đến việc tiếp thu kiến thức và rèn luyện kĩ năng của cá
nhân để khai thác, phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu
cực, từ đó xác định được các hành vi đúng đắn, cần thiết trong những tình
huống của cuô êc sống.
* Năng lực giao tiếp tiếng Viê êt
[12]
Giao tiếp là hoạt đô nê g trao đổi thông tin giữa người nói và người nghe,
nhằm đạt được mô tê mục đích nào đó. Viê êc trao đổi thông tin được thực hiê ên
bằng nhiều phương tiê ên, tuy nhiên, phương tiê ên sử dụng quan trọng nhất
trong giao tiếp là ngôn ngữ. Năng lực giao tiếp do đó được hiểu là khả năng
sử dụng các quy tắc của hê ê thống ngôn ngữ để chuyển tải, trao đổi thông tin
về các phương diê ên của đời sống xã hô êi, trong từng bối cảnh/ngữ cảnh cụ
thể, nhằm đạt đến mô êt mục đích nhất định trong viê êc thiết lâ êp mối quan hê ê
giữa những con người với nhau trong xã hô êi. Năng lực giao tiếp bao gồm các
thành tố: sự hiểu biết và khả năng sử dụng ngôn ngữ, sự hiểu biết về các tri
thức của đời sống xã hô êi, sự vâ ên dụng phù hợp những hiểu biết trên vào các
tình huống phù hợp để đạt được mục đích.
Trong môn học Ngữ văn, viê êc hình thành và phát triển cho HS năng
lực giao tiếp ngôn ngữ là mô êt mục tiêu quan trọng, cũng là mục tiêu thế mạnh
mang tính đặc thù của môn học. Thông qua những bài học về sử dụng tiếng
Viê êt, HS được hiểu về các quy tắc của hê ê thống ngôn ngữ và cách sử dụng
phù hợp, hiê êu quả trong các tình huống giao tiếp cụ thể, HS được luyê nê tâ êp
những tình huống hô êi thoại theo nghi thức và không nghi thức, các phương
châm hô êi thoại, từng bước làm chủ tiếng Viê êt trong các hoạt đô nê g giao tiếp.
Các bài đọc hiểu văn bản cũng tạo môi trường, bối cảnh để HS được giao tiếp
cùng tác giả và môi trường sống xung quanh, được hiểu và nâng cao khả năng
sử dụng tiếng Viê êt văn hóa, văn học. Đây cũng là mục tiêu chi phối trong
viê êc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn là dạy học theo quan điểm giao
tiếp, coi trọng khả năng thực hành, vâ ên dụng những kiến thức tiếng Viê tê
trong những bối cảnh giao tiếp đa dạng của cuô êc sống.
Năng lực giao tiếp trong các nội dung dạy học tiếng Việt được thể hiện
ở 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và khả năng ứng dụng các kiến thức
và kĩ năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác nhau trong cuộc sống.
* Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mĩ
Năng lực cảm thụ thẩm mĩ thể hiê ên khả năng của mỗi cá nhân trong
viê êc nhâ ên ra được các giá trị thẩm mĩ của sự vâ êt, hiê ên tượng, con người và
cuô êc sống, thông qua những cảm nhâ ên, rung đô nê g trước cái đẹp và cái thiê ên,
từ đó biết hướng những suy nghĩ, hành vi của mình theo cái đẹp, cái thiê nê .
[13]
Như vậy, năng lực cảm thụ (hay năng lực trí tuệ xúc cảm) thường dùng với
hàm nghĩa nói về các chỉ số cảm xúc của mỗi cá nhân. Chỉ số này mô tả khả
năng tự nhận thức để xác định, đánh giá và điều tiết cảm xúc của chính mỗi
người, của người khác, của các nhóm cảm xúc.
Năng lực cảm thụ thẩm mĩ là năng lực đă êc thù của môn học Ngữ văn,
gắn với tư duy hình tượng trong viê êc tiếp nhâ nê văn bản văn học. Quá trình
tiếp xúc với tác phẩm văn chương là quá trình người đọc bước vào thế giới
hình tượng của tác phẩm và thế giới tâm hồn của tác giả từ chính cánh cửa
tâm hồn của mình. Năng lực cảm xúc, như trên đã nói, được thể hiện ở nhiều
khía cạnh; trong quá trình người học tiếp nhận tác phẩm văn chương năng lực
cảm xúc được thể hiện ở những phương diện sau:
– Cảm nhận vẻ đẹp của ngôn ngữ văn học, biết rung động trước những
hình ảnh, hình tượng được khơi gợi trong tác phẩm về thiên nhiên, con người,
cuộc sống qua ngôn ngữ nghệ thuật.
– Nhận ra được những giá trị thẩm mĩ được thể hiện trong tác phẩm
văn học: cái đẹp, cái xấu, cái hài, cái bi, cái cao cả, cái thấp hèn,….từ đó cảm
nhận được những giá trị tư tưởng và cảm hứng nghệ thuật của nhà văn được
thể hiện qua tác phẩm.
– Cảm hiểu được những giá trị của bản thân qua việc cảm hiểu tác
phẩm văn học; hình thành và nâng cao nhận thức và xúc cảm thẩm mĩ của cá
nhân; biết cảm nhận và rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, con người,
cuộc sống; có những hành vi đẹp đối với bản thân và các mối quan hệ xã hội;
hình thành thế giới quan thẩm mĩ cho bản thân qua việc tiếp nhận tác phẩm
văn chương.
Từ việc tiếp xúc với các văn bản văn học, học sinh sẽ biết rung động
trước cái đẹp, biết sống và hành động vì cái đẹp, nhận ra cái xấu và phê phán
những hình tượng, biểu hiện không đẹp trong cuộc sống, biết đam mê và mơ
ước cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
Như vậy, quá trình dạy học Ngữ văn đồng thời giúp học sinh hình thành
và phát triển các năng lực đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội, thông
qua việc rèn luyện và phát triển các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói. Trong quá
trình hướng dẫn học sinh tiếp xúc với văn bản, môn Ngữ văn còn giúp học
[14]
sinh từng bước hình thành và nâng cao các năng lực học tập của môn học, cụ
thể là năng lực tiếp nhận văn bản (gồm kĩ năng nghe và đọc) và năng lực tạo
lập văn bản (gồm kĩ năng nói và viết).
2.2. Về nhóm bài phong cách ngôn ngữ trong chương trình Ngữ văn
THPT
a/ Khái niệm phong cách ngôn ngữ
Phong cách ngôn ngữ là toàn bộ những đặc điểm về cách thức diễn đạt
tạo thành kiểu diễn đạt trong mỗi loại văn bản nhất định.
b/ Phân loại phong cách ngôn ngữ
Căn cứ vào lĩnh vực giao tiếp trong hoạt động thực tiễn, có các loại
phong cách ngôn ngữ sau:
* Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
Là phong cách mang những dấu hiệu đặc trưng của ngôn ngữ dùng
trong giao tiếp sinh hoạt hàng ngày.
Ngôn ngữ sinh hoạt chủ yếu thể hiện ở dạng nói, nhưng cũng có thể ở
dạng viết. Trong văn bản văn học, lời thoại của nhân vật là dạng tái hiện, mô
phỏng ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày.
* Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ chủ yếu dùng trong các tác phẩm văn
chương, không chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ
của con người. Nó là ngôn ngữ được tổ chức, xếp đặt, lựa chọn, tinh luyện từ
ngôn ngữ thông thường và đạt được giá trị nghệ thuật – thẩm mĩ.
* Phong cách ngôn ngữ báo chí
Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ dùng để thông báo tin tức thời sự trong
nước và quốc tế, phản ánh chính kiến của tờ báo và dư luận quần chúng,
nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Ngôn ngữ báo chí được sử dụng ở những
thể loại tiêu biểu là bản tin, phóng sự, tiểu phẩm…
* Phong cách ngôn ngữ chính luận
Ngôn ngữ chính luận là ngôn ngữ được dùng trong các văn bản chính
luận hoặc lời nói miệng (khẩu ngữ) trong các buổi hội nghị, hội thảo, nói
chuyện thời sự…nhằm trình bày, bình luận, đánh giá những sự kiện, những
[15]
vấn đề về chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng…theo một quan điểm chính trị
nhất định.
* Phong cách ngôn ngữ khoa học
Là ngôn ngữ được dùng trong phạm vi giao tiếp thuộc lĩnh vực khoa
học.
+ Dạng viết : sử dụng từ ngữ khoa học và các kí hiệu, công thức, sơ đồ…
+ Dạng nói : yêu cầu cao về phát âm, diễn đạt trên cơ sở một đề cương.
* Phong cách ngôn ngữ hành chính
Ngôn ngữ hành chính là ngôn ngữ dùng trong các văn bản hành chính
để giao tiếp trong phạm vi cơ quan nhà nước hay các tổ chức chính trị xã hội,
kinh tế… hoặc giữa cơ quan với cá nhân, hay giữa các cá nhân với nhau trên
cơ sở pháp lí.
c/ Đặc trưng cơ bản của các phong cách ngôn ngữ
* Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
-Tính cụ thể: Cụ thể về hoàn cảnh, về con người và về cách nói năng, từ
ngữ diễn đạt.
-Tính cảm xúc: Không một lời nói nào nói ra lại không mang tính cảm
xúc.
-Tính cá thể: Trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, ngoài giọng nói thì cách
dùng từ ngữ, lựa chọn kiểu câu của mỗi người cũng thể hiện cá tính: mỗi
người thường có vốn từ ngữ ưa dùng riêng, có những cách nói riêng… Qua
giọng nói, từ ngữ và cách nói quen dùng, ta có thể biết được lời nói của ai,
thậm chí đoán biết được tuổi tác, giới tính, cá tính, địa phương…của họ. Lời
nói là “vẻ mặt thứ hai, diện mạo thứ hai” của con người để phân biệt người
này với người khác, người quen hay kẻ lạ, thậm chí người tốt với người xấu.
* Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
-Tính hình tượng: Là đặc trưng cơ bản của phong cách ngôn ngữ nghệ
thuật.
-Tính truyền cảm: Thể hiện ở chỗ ngôn ngữ nghệ thuật làm cho người
nghe (đọc) cùng vui, buồn, yêu thích…như chính người nói (viết). Sức mạnh
[16]
của ngôn ngữ nghệ thuật là tạo ra sự hòa đồng, giao cảm, cuốn hút, gợi cảm
xúc cho người đọc.
-Tính cá thể hóa: Ngôn ngữ là phương tiện diễn đạt chung của cộng đồng
nhưng khi được các nhà văn nhà thơ sử dụng thì mỗi người lại có khả năng
thể hiện một giọng riêng, một phong cách riêng không dễ bắt chước, pha trộn.
Sự khác nhau về ngôn ngữ là ở cách dùng từ, đặt câu và cách sử dụng hình
ảnh, bắt nguồn từ cá tính sáng tạo của người viết. Chính những biện pháp xử
lí ngôn ngữ đã tạo ra giọng điệu riêng, phong cách nghệ thuật riêng của từng
nhà văn trong sáng tạo nghệ thuật.
Tính cá thể hóa còn được thể hiện ở vẻ riêng trong lời nói của từng nhân
vật trong tác phẩm nghệ thuật; ở nét riêng trong cách diễn đjat từng sự việc,
từng hình ảnh, từng tình huống trong tác phẩm.
Tính cá thể hóa tạo cho ngôn ngữ nghệ thuật những sáng tạo mới lạ, không
trùng lặp.
* Phong cách ngôn ngữ báo chí
- Tính thông tin thời sự: Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ thông tin thời sự
cập nhật, truyền bá những tin tức nóng hổi hàng ngày trên mọi lĩnh vực hoạt
động của xã hội. Để đảm bảo chất lượng thông tin, ngôn ngữ phải chính xác,
nhất là những thông tin về địa điểm, thời gian, nhân vật, sự kiện.
-Tính ngắn gọn: Văn báo chí là lối văn ngắn gọn, lượng thông tin cao.
-Tính sinh động, hấp dẫn: Muốn thu hút sự chú ý của người đọc, ngôn ngữ
báo chí phải kích thích sự tò mò, hiểu biết của họ. Điều đó thể hiện ở cách
dùng từ và đặt câu, nhưng trước hết là ở những tiêu đề của bài báo.
* Phong cách ngôn ngữ chính luận
-Tính công khai về quan điểm chính trị: Tuy đề tài của những văn bản
chính luận là những vấn đề thời sự trong cuộc sống nhưng ngôn từ chính luận
không chỉ có chức năng thông tin một cách khách quan mà phải thể hiện
đường lối, quan điểm, thái độ chính trị của người viết (hay nói) một cách
công khai, dứt khoát, không che giấu, úp mở.
-Tính chặt chẽ trong diễn đạt và suy luận: Trừ những lời phát biểu đơn lẻ,
phong cách chính luận thể hiện tính chặt chẽ của hệ thống lập luận.
[17]
-Tính truyền cảm, thuyết phục:Ngôn ngữ chính luận là công cụ để trình
bày, thuyết phục, tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc(người nghe).
Ngoài giá trị lập luận, văn bản chính luận còn thể hiện giá trị ở giọng văn
hùng hồn, tha thiết, bộc lộ nhiệt tình của người viết. Đặc biệt trong những
cuộc tranh luận, diễn thuyết thì ngữ điệu, giọng nói được coi là phương tiện
quan rọng hỗ trợ cho lí lẽ, ngôn từ.
* Phong cách ngôn ngữ khoa học
- Tính khái quát, trừu tượng: Ngôn ngữ khoa học dùng nhiều thuật ngữ khao
học. Đó là lớp từ chuyên dùng trong từng nghành KH và chỉ dùng để biểu
hiện khái niệm khoa học: lạm phát, suy thoái, xoá đói giảm nghèo, quỹ đạo,
véc-tơ, tiệm cận...Từ ngữ trong văn bản khoa học chỉ dùng với một nghĩa,
không dùng từ đa nghĩa, không dùng các phép tu từ. Sử dụng các kí hiệu, chữ
số, những sơ đồ, bảng biểu, công thức...
Ví dụ: Làm ruộng bậc thang là cách giữ nước hiệu quả nhất của đồng bào
vùng cao.
Từ nước trong câu này chỉ có 1 nghĩa là H2O, không có nghĩa khác như Tổ
quốc, đất nước, bước đi của quân cờ, thế hơn kém...
- Tính lí trí, lôgic: Tính lí trí, lôgíc của ngôn ngữ khoa học thể hiện ở nhiều
phương tiện ngôn ngữ . Ngoài lớp từ ngữ thể hiện khái niệm và tư duy khoa
học, thì câu văn khoa học là câu văn chặt chẽ, mạch lạc, là một đơn vị thông
tin dựa trên cú pháp chuẩn.Câu văn liên kết thành đoạn văn và phục vụ cho
lập luận khao học. Cả văn bản cũng được tổ chức mạch lạc để phục vụ cho lập
luận lô gíc.
- Tính khách quan, phi cá thể: Ngôn ngữ khoa học không mang sắc thái cá
nhân như ngôn ngữ sinh hoạt hay ngôn ngữ nghệ thuật. Có thể có tác giả khoa
học thể hiện sắc thái cá nhân trong ngôn ngữ, nhưng hiện tượng đó là hãn hữu
và không phải là đặc trưng cần yếu của phong cách ngôn ngữ khoa học. Từ
ngữ, câu văn, kết cấu văn bản trong ngôn ngữ KH thiên về tính khái quát, trí
tuệ, lôgíc, do đó tính cá thể, tính biểu cảm không phải là đặc trưng quan trọng.
* Phong cách ngôn ngữ hành chính
- Tính khuôn mẫu: Kết cấu bắt buộc của văn bản hành chính có tính bắt buộc
gồm 3 phần:
[18]
+ Phần đầu: quốc hiệu, tiêu ngữ; tên cơ quan ban hành, số hiệu văn bản, địa
điểm, thời gian ban hành văn bản
+ Phần chính: nội dung văn bản.
+ Phần cuối: chức vụ, chữ kí và họ tên của người kí văn bản, dấu cơ quan, nơi
nhận…
- Tính minh xác: Mỗi từ chỉ có một nghĩa, mỗi câu chỉ có một ý, không dùng
lối biểu đạt hàm ý hoặc phép tu từ.
- Tính công vụ: Tính chất chung của cộng đồng hay tập thể. Những biểu đạt
tình cảm của cá nhân bị hạn chế ở mức tối đa. Các từ ngữ biểu cảm nếu dùng
chỉ mang tính khuôn mẫu, ước lệ ( kính chuyển- kính mong- kính gửi)
2.3. Dạy học nhóm bài phong cách ngôn ngữ trong chương trình Ngữ văn
THPT theo định hướng phát triển năng lực
a/ Áp dụng một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học
• Cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống
Để nâng cao hiệu quả của các phương pháp dạy học truyền thống, người
giáo viên trước hết cần nắm vững những yêu cầu và sử dụng thành thạo các
kỹ thuật của chúng trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành bài lên lớp, kỹ
thuật đặt các câu hỏi và xử lý các câu trả lời trong đàm thoại, hay kỹ thuật làm
mẫu trong luyện tập.
Những phương pháp mang tính truyền thống như thuyết trình, phân tích
ngôn ngữ, luyện tập vẫn có thể phát huy tác dụng nếu người giáo viên biết
cách vận dụng chúng hợp lí.
Ví dụ: Thay vì giáo viên thuyết trình nội dung học tập của bài học về các
phong cách ngôn ngữ khác nhau cho học sinh, học sinh có thể thuyết trình
những vấn đề mình hoặc nhóm học tập của mình đã tiếp cận được trong quá
trình tự học, tự tìm tòi, nghiên cứu. Hoạt động này có thể tích hợp với bài
“Trình bày một vấn đề” trong SGK Ngữ văn tập 1. Đây là cách thức làm việc
hiệu quả, giúp học sinh tự tin, chủ động, ý thức hơn về vai trò trung tâm của
mình trong toàn bộ quá trình học tập.
Hay cũng sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ, thay vì tiến hành
trong phạm vi giờ dạy trên lớp, giáo viên nên giao thành một nhiệm vụ học
[19]
tập cho học sinh hoặc nhóm học sinh thực hiện ở nhà. Kết quả của việc thực
hiện nhiệm vụ này sẽ được học sinh(nhóm học sinh) báo cáo ở tiết học hôm
sau.
Phương pháp luyện tập sẽ là cũ mòn nếu giáo viên chỉ yêu cầu học sinh
làm các bài tập luyện tập trong SGK. Chúng ta có thể biến việc luyện tập
thành các trò chơi sau khi học sinh đã nắm được những nội dung kiến thức cơ
bản của bài học. Mô hình trò chơi có thể mô phỏng các chương trình game
show truyền hình nổi tiếng: Ai là triệu phú, Đấu trường 100, Đi tìm ô chữ bí
mật…Kiến thức khi được mã hóa thành những câu hỏi trong trò chơi sẽ tạo
sức hấp dẫn, lôi cuốn học sinh tham gia tìm lời giải. Giáo viên cũng có thể
tích hợp nội dung của tất cả các bài phong cách ngôn ngữ trong một trò chơi
để giúp học sinh ôn tập kiến thức một cách hệ thống.
• Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học
Việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn
bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và
nâng cao chất lượng dạy học. Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm, nhóm đôi và
dạy học cá thể là những hình thức xã hội của dạy học cần kết hợp với nhau,
mỗi một hình thức có những chức năng riêng.
Tình trạng độc tôn của dạy học toàn lớp và sự lạm dụng phương pháp
thuyết trình cần được khắc phục, đặc biệt thông qua làm việc nhóm. Trong
thực tiễn dạy học ở trường trung học hiện nay, nhiều giáo viên đã cải tiến bài
lên lớp theo hướng kết hợp thuyết trình của giáo viên với hình thức làm việc
nhóm, góp phần tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Tuy nhiên
hình thức làm việc nhóm rất đa dạng, không chỉ giới hạn ở việc giải quyết các
nhiệm vụ học tập nhỏ xen kẽ trong bài thuyết trình, mà còn có những hình
thức làm việc nhóm giải quyết những nhiệm vụ phức hợp, có thể chiếm một
hoặc nhiều tiết học, sử dụng những phương pháp chuyên biệt như phương
pháp đóng vai, nghiên cứu trường hợp, dự án.
Ví dụ: Ở bài Phong cách ngôn ngữ báo chí, giáo viên có thể chia nhóm học
tập theo một số thể loại thuộc phong cách ngôn ngữ báo chí như: nhóm Bản
tin, nhóm Phóng sự, nhóm Phỏng vấn, nhóm Quảng cáo, nhóm Tiểu phẩm…
Ở mỗi nhóm học tập đó, học sinh sẽ sử dụng phương pháp đóng vai để hoàn
[20]
- Xem thêm -