Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Lớp 3 Skkn dạy tập làm văn lớp 3 theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học si...

Tài liệu Skkn dạy tập làm văn lớp 3 theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học sinh

.DOC
17
2476
80

Mô tả:

Dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học sinh PHẦN I. MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.Cơ sở lí luận Nhân loại đang sống trong thế kỉ XXI, thế kỉ của sự phát triển khoa học-kĩ thuật và công nghệ thông tin, của nền văn minh tri thức.Trước tình hình hội nhập quốc tế, đòi hỏi nền Giáo dục và Đào tạo phải đào tạo ra những con người phát triển toàn diện về mọi mặt, đáp ứng được nhu cầu xã hội. Trong đó, bậc Tiểu học là bậc học đặt nền móng, quyết định sự thành công trong việc thực hiện mục tiêu chung. Khi xã hội ngày càng phát triển, yêu cầu đối với mỗi cá nhân ngày càng cao.Vai trò của giáo dục và đào tạo nói chung và đào tạo bậc tiểu học nói riêng có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực cho đất nước, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam đã gia nhập WTO và phấn đấu trở thành đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Luật Giáo dục cũng ghi rõ: “ Mục tiêu Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức và trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở.” ( Điều 23- Luật Giáo dục 2005) Như vậy, chúng ta thấy rằng mục tiêu giáo dục Tiểu học chỉ có thể đạt được khi mỗi nhà trường thực hiện tốt chất lượng giảng dạy của tất cả các môn học.Bậc tiểu học là bậc học nền tảng mang tính hội tụ toàn diện ở tất cả các môn học. Tiếng việt chiếm vị trí đặc biệt quan trọng và chiếm thời lượng nhiều nhất trong chương trình dạy học ở trường Tiểu học hiện nay. Học sinh sau khi hoàn thành chương trình bậc Tiểu học phải đạt được bốn kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết. Đó là hành trang cho các em vững bước trên con đường học tập của mình. Mỗi giáo viên giảng dạy đều phải thực sự tâm huyết, nhiệt tình trong công tác, không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng với nhu cầu giáo dục hóa hiện nay. 2.Cơ sở thực tiễn Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn là môn học khó trong các phân môn của môn Tiếng việt. Do đặc thù của môn học phải hình thành và rèn cho học sinh khả năng nói và viết một văn bản ở nhiều thể loại khác nhau. Chính vì vậy, phân môn Tập làm văn ở Tiểu học có nhiệm vụ quan trọng đối với học sinh là rèn kĩ năng nói, viết, giao tiếp,... Nói và viết hỗ trợ rất nhiều cho các môn học khác. Đặc biệt hơn nữa, Ở lớp 2, các em mới bước đầu làm quen với môn học này, viết một đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu qua hình thức quan sát tranh ảnh, nghe chuyện,... Nhưng bước sang lớp 3 kỹ năng hình thành một đoạn văn yêu cầu cao hơn từ 5 đến 7 câu, rồi 7 đến 10 câu. Nhưng thực tế hiện nay, phần đa học sinh đều không hứng thú học phân môn Tập làm văn vì các em nghĩ rằng : Mình sẽ không biết nói gì ? viết gì ? để hoàn thành một đoạn văn ngắn theo yêu câu đề bài. Trực tiếp giảng dạy các lớp 3 qua nhiêu năm, tôi nhận thấy rằng ở tiết Tập làm văn hầu như các em không thích học, còn lúng túng khi dùng từ đặt câu, câu văn thường lặp lại, dùng sai từ, cách sử dụng dấu câu, không đầy đủ ý, …Nhiều em làm theo hình thức trả lời câu hỏi và gạch đầu dòng của phần gợi ý dẫn đến yêu cầu đề bài không đạt. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế nào để kích thích tính tự giác, tích cực, độc lập của học sinh và tạo hứng thú học tập cho học sinh để giúp các em nói và viết đúng cấu trúc của đoạn văn theo yêu cầu đề bài của môn học Tập làm văn? Đây là vấn đề đặt ra cho mỗi giáo viên trực tiếp giảng dạy phải có tay nghề vững vàng, phải biết yêu nghề, mến trẻ, tức là phải có năng lực sư phạm, phải biết chọn lựa tự tìm tòi những phương pháp, hình thức tổ chức thích hợp, biện pháp để nâng cao chất lượng học tập cho học sinh đạt kết quả cao. Xuất phát từ những lý do trên mà tôi chọn sáng kiến:“Dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh ” II. MỤC ĐÍCH,ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Mục đích nghiên cứu đề tài: Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm :“Dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh ” đó là giúp giáo viên có được những kinh nghiệm, biện pháp hữu hiệu nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo, chủ độngtrong học tập và rèn kỹ năng diễn đạt theo suy nghĩ của mình thành ngôn ngữ văn bản. Đồng thời cũng làm nền tảng cho các em nói và viết theo hiểu biết của chính mình để hỗ trợ trong việc học tập, góp phần đưa chất lượng “ Dạy - Học ” đạt hiệu quả tốt hơn. 2. Đối tượng nghiên cứu: - Học sinh Lớp 3A - Học sinh Lớp 3B Trường Tiểu học xã Nhật Tân - Học sinh Lớp 3C 3.Phương pháp nghiên cứu: Với đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp điều tra - Phương pháp thực hành dạy trên lớp. - Phương pháp phân tích- tổng hợp - Phương pháp thực nghiệm - Phương pháp so sánh - Phương pháp tổng hợp PHẦN II. NỘI DUNG I.NỘI DUNG DẠY HỌC PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN 1.Nội dung dạy học Chương trình và sách giáo khoa Tiếng việt lớp 3 nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng giúp học sinh : + Có những kỹ năng : Nghe, nói, đọc, viết. + Biết sử dụng ngôn ngữ giao tiếp trong gia đình, nhà trương và xã hội.Trau dồi thái độ ứng xử có văn hóa, có tinh thần trách nhiệm trong học tập, trong cuộc sống. + Rèn tính tự giác, tự tin chủ động, tích cực sáng tạo trong học tập. + Tiếp tục rèn luyện kĩ năng kể chuyện và miêu tả: kể một sự việc đơn giản, tả sơ lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh, bằng câu hỏi. + Rèn luyện kĩ năng nghe thông qua các bài tập nghe – kể và các hoạt động học tập trên lớp. 2. Các kiểu bài tập Bài tập nghe : nghe và kể lại một mẫu chuyện ngắn, nghe và nói lại một mẫu tin. Bài tập nói: Tổ chức, điều khiển cuộc họp, phát biểu trong cuộc họp. Kể hoặc tả miệng về người thân, gia đình, trường lớp, quê hương, lễ hội, hoạt động thể thao – văn nghệ, … 3. Bài tập viết: -Điền vào giấy tờ in sẵn. -Viết một số giấy tờ theo mẫu. Viết thư. -Ghi chép sổ tay. -Kể hoặc tả ngắn về người thân, gia đình, trường lớp, quê hương, lễ hội, hoạt động thể thao – văn nghệ, … II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ Trong 3 năm gần đây, Tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công giảng dạy trực tiếp ở khối lớp 3. Dựa trên tình hình thực tế của toàn khối 3 nói chung, cụ thể là các lớp tôi phụ trách nói riêng, bản thân thấy có những thuận lợi, khó khăn sau: a. Thuận lợi: Đơn vị Trường tiểu học xã Nhật Tân mới sáp nhập từ 2 trường Tiểu học A và Tiểu học B.Cả 2 trường nhiều năm liền đã gặt hái rất nhiều thành tích cao trong nền giáo dục huyện nhà. - Trường có đội ngũ CBGV đạt chuẩn về trình độ kiến thức, trẻ khỏe và giàu tâm huyết. - Học sinh đa số là con em trong xã và có tinh thần hiếu học. - Được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, Ban giám hiệu nhà trường luôn đi sâu đi sát và tạo mọi điều kiện tốt cho giáo viên trong công tác giảng dạy. - Số lượng học sinh được phân bố đều các khối lớp. - Cơ sở vật chất ở các lớp tương đối đầy đủ tiện nghi, bàn ghế, phòng học. - Đời sống của phụ huynh học sinh tương đối ổn định, nền kinh tế vững chắc nên phụ huynh rất quan tâm tạo mọi điều kiện tốt đến việc học của con em mình. - 100 % các Lớp học 2 buổi / ngày. -Cách đánh giá học sinh theo tinh thần TT 30/2014 có tính nhân văn giúp học sinh mạnh dạn tự tin và có hứng thú học tập hơn. b. Khó khăn: - Nhiều giáo viên trẻ mới ra trường do chưa có kinh nghiệm giảng dạy còn lệ thuộc vào tài liệu hướng dẫn, ít sáng tạo, chưa lôi cuốn, thu hút học sinh. - Một số giáo viên trong quá trình giảng dạy đầu tư còn chưa nhiều, chưa khắc sâu được kiến thức trọng tâm cho học sinh, đôi khi còn chưa làm chủ được kiến thức, chưa bao quát được toàn bộ học sinh trong lớp, không nắm bắt được kịp thời khả năng nhận thức, điểm yếu của từng em, chưa chú ý tập trung vào rèn kỹ năng cho học sinh nhất là học sinh trung bình, học sinh yếu. Vì vậy khi dạy còn hay cho học sinh làm theo văn mẫu của cô mà không để cho học sinh tự sáng tạo. - Việc tổ chức dạy các giờ tập làm văn (được coi là dạy mẫu ) ở các trường tiểu học chưa nhiều nên giáo viên chưa có cơ hội để học tâp lẫn nhau nhằm nâng cao năng lực giảng dạy. - Hình thức, phương pháp dạy học theo hướng đổi mới làm cho nhiều giáo viên lúng túng trong quá trình lên lớp, nhiều giáo viên phụ thuộc, rập khuôn theo sách giáo khoa, hay áp đặt học sinh,… - Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của các em tiếp thu nhanh nhưng cũng nhanh quên, mức độ tập trung học tập chưa cao. Học sinh lớp 3 vốn ngôn ngữ của các em chưa nhiều: các em còn mãi chơi nhiều hơn học. Việc tiếp thu bài còn thụ động theo cách truyền tải của giáo viên nên nó ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các em. - Môn Tập làm văn là một môn khó, nhiều em còn ngại học văn, lười suy nghĩ nên ở các giờ học các em còn ngại phát biểu, viết bài qua loa cho xong chuyện. Cách dùng từ đặt câu chưa đúng, viết đoạn văn còn nghèo ý. - Việc tổ chức học tập trên lớp của giáo viên chưa phát huy dược vốn ngôn ngữ vốn có của các em cũng như chưa khơi dậy ở học sinh sự mạnh dạn tự tin trong học tập. - Một số học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy móc, chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối văn của riêng mình. Nhiều học sinh thiếu sự quan tâm của một số gia đình, nhiều phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của các em mà tất cả là phó mặc cho giáo viên. Dẫn đến các em không hứng thú khi học phân môn này. -Chính vì những lý do trên nên việc học văn ở lớp Ba còn hạn chế. Trong tiết “Nghe - kể lại chuyện” nhiều em còn chưa kể lại được chuyện mặc dầu chuyện đó ngắn, tình tiết ít. Khi “Kể hay nói, viết về một chủ đề” nào đó theo các gợi ý ở SGK thì các em diễn đạt còn lúng túng nhất là những học sinh yếu không nói (viết) được bài. Bên cạnh đó, một số giáo viên chưa nhận thức tầm quan trọng của phân dẫn đến quy trình và phương pháp dạy học chưa thích hợp. Phần thì học sinh hiểu biết chưa sâu rộng về nghĩa của các từ ngữ và bản chất của câu văn nên khi các em viết một đoạn văn thường hay mắc lỗi diễn đạt như: từ lặp lại nhiều, câu văn không rõ nghĩa, ý theo không trình tự rất lộn xộn, nhiều em thì mang tính chất trả lời câu hỏi gợi ý bằng cách gạch đầu dòng. Những khó khăn trên chính là nguyên nhân dẫn đến việc dạy Tập làm văn chưa phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh.Những nguyên nhân trên đã thúc dục tôi tìm những giải pháp, biện pháp để tạo cho học sinh có hưng phấn và tích cực phát huy tính mạnh dạn tích cực học tập trong phân môn Tập làm văn. III. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC Phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy và học, người giáo viên cần nắm được mục tiêu cơ bản của bài học. Tìm tòi và áp dụng những phương pháp dạy học sao cho phù hợp với đối tượng của học sinh. Nội dung chính là nhằm trang bị cho các em một số kiến thức, kĩ năng phục vụ cho học tập, đời sống hàng ngày. Tùy theo nội dung, yêu cầu của mỗi đơn vị kiến thức bài học và đặc điểm đối tượng học sinh, người giáo viên cần áp dụng nhóm các biện pháp, hoặc một biện pháp chủ đạo kết hợp với một số biện pháp bổ trợ khác. Về cơ bản có những biện pháp sau: 1. Luôn chú trọng “tích hợp - lồng ghép” khi dạy phân môn tập làm văn lớp 3. Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Muốn học sinh chủ động trong học tập, GV không dạy học theo lối rập khuôn mà cần người GV phải linh động trong tiết dạy, tạo không khí lành mạnh trong lớp, cần phải sử dụng các phương pháp đa dạng: nêu vấn đề, thí nghiệm, thực hành, so sánh, đàm thoại và thảo luận, cùng phối hợp nhịp nhàng tạo không khí hứng thú, kích thích trí tò mò của học sinh. Chính vì vậy, khi dạy phân môn này, người giáo viên cần lồng ghép giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt như: Tập đọc, kể chuyện, Chính tả, luyện từ và câu, tập viết để giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân môn Tập làm văn. Mối quan hệ này thể hiện rõ trong cấu trúc của sách giáo khoa: Các bài học được biên soạn theo chủ đề, chủ điểm, hai đơn vị học xoay quanh một chủ điẻm ở tất các các phân môn. Khi dạy ở các tuần, mỗi chủ điểm của từng tuần có sự liên kết với nhau giữa các phân môn trong môn Tiếng việt. Mối quan hệ này thể hiện rất rõ trong cấu trúc của sách giáo khoa: các bài học được biên soạn theo chủ đề, chủ điểm, hai đơn vị học xoay quanh một chủ điểm ở tất cả các phân môn. Ví dụ: Chủ đề Cộng đồng dạy trong 2 tuần gồm các bài Tập đọc, Luyện từ và câu…Trong quá trình rèn đọc, khai thác nội dung các bài đọc cung cấp cho học sinh vốn từ về chủ đề Cộng đồng, những câu văn có hình ảnh về chủ đề Cộng đồng. Cụ thể khi dạy bài tập đọc: Kể chuyện: Các em nhỏ và cụ già - Tuần 8, giáo viên khai thác nội dung bài theo hệ thống câu hỏi sau: + Điều gì gặp bên đường khiến các bạn nhỏ phải dừng lại? (Các bạn gặp một cụ già đứng ven đường, vẻ mặt mệt mỏi, cặp mắt lộ vẻ u sầu) + Các bạn quan tâm đến ông cụ như thế nào? (Các bạn băn khoăn và trao đổi với nhau. Có bạn đoán: a) Hay ông cụ bị ốm, b) Hay cụ bị mất cái gì đó. Cuối cùng cả tốp đến tận nơi để hỏi thăm ông cụ) + Vì sao các bạn quan tâm đến ông cụ? Với câu hỏi này có thể các em sẽ trả lời như sau:    Vì các bạn là những trẻ ngoan. Vì các bạn là nhữngngười nhân hậu. Vì các bạn muốnquan tâm, giúp đỡ ông cụ. + Ông cụ gặp chuyện gì buồn? (Cụ bà bị ốm nặng đang nằm trong bệnh viện, khó mà qua khỏi) +Vì sao khi trò chuyện với các bạn nhỏ ông cụ thấy lòng nhẹ hơn? Với câu hỏi này có thể các em sẽ trả lời như sau:    Ông cảm thấy nỗi buồn được chia sẻ. Ông cảm thấy đỡ cô đơn vì có người trò chuyện. Ông cảm thấy lòng ấm lại vì tình cảm của các bạn nhỏ dành cho mình. Qua các câu trả lời của học sinh, giáo viên định hướng cho các em ý thức biết quan tâm chia sẻ với những người trong cộng đồng, giúp cho các em khi viết đoạn văn kể về những người thân, hoặc người hàng xóm, đoạn văn toát lên được nội dung: Con người phải biết yêu thương nhau, sự quan tâm chia sẻ của những người xung quanh làm cho mỗi người dịu bớt những nỗi lo lắng, buồn phiền, và cảm thấy cuộc sống tốt đẹp hơn. Qua hệ thống câu hỏi, giáo viên giúp cho học sinh bày tỏ được thái độ, tình cảm, ý kiến nhận xét, đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học. Song song với quá trình đó, giáo viên cần hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về câu trả lời của bạn để học sinh rút ra được câu trả lời đúng, cách ứng xử hay. Ở phân môn Chính tả (Tuần 8), các em cũng được luyện viết các bài trong chủ đề Cộng đồng. Ví dụ: Viết đoạn 4 trong bài các em nhỏ và cụ già. Cụ ngừng lại và nghẹn ngào nói tiếp: - Ông đang rất buồn. Bà lão nhà ông năm bệnh viện mấy tháng nay rồi. Bà ốm nặng lắm, khó mà qua khỏi. Ông ngồi đây chờ xe buýt để đến bệnh viện, ông cảm ơn lòng tốt của các cháu. Dẫu các cháu không giúp gì được nhưng ông cũng thấy lòng nhẹ hơn. Khi viết đoạn văn trên, học sinh được rèn viết chính tả, cách sử dụng các dấu câu; thấy được sự cảm thông, chia sẻ giữa con người với nhau làm dịu bớt nỗi lo lắng, buồn phiền, tăng thêm cho mỗi người niềm hy vọng, nghị lực trong cuộc sống. Học sinh vận dụng cái hay , cái đẹp của ngôn từ trong đoạn văn để thể hiện tình cảm, thái độ đánh giá trong từng bài văn cụ thể của chính các em. Tương tự, ở phân môn Tập viết-Tuần 8, các em được làm quen với các thành ngữ, tục ngữ về chủ đề Cộng đồng như luyện viết câu ứng dụng: “ Khôn ngoan đá đáp người ngoài Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau. Xuất phát từ các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập viết xoay quanh chủ đề Cộng đồng, học sinh biết “Kể về người hàng xóm mà em quý mến” ( TLV 3 - Tuần 8) và viết được đoạn văn hoàn chỉnh, thể hiện tình cảm, thái độ đánh giá đối với người hàng xóm qua việc sử dụng từ ngữ, câu văn có hình ảnh. Như vậy, khi dạy tất cả các phân môn của Tập làm văn đều nhằm mục đích giúp học sinh có kỹ năng hình thành văn bản, ngôn bản. Do đó, tích hợp lồng ghép là phương pháp đặc trưng khi dạy phân môn Tập làm văn lớp 3. 2.Tạo niềm say mê khám phá kiến thức, tạo không khí vui vẻ, sôi động, hào hứng trong tiết học Dạy học là truyền thụ kiến thức cho người học, để chuẩn bị cho một tiết dạy, GV cần kết hợp các phương pháp giảng dạy phù hợp, sinh động, sáng tạo trong mỗi tiết học. Để tạo nên một không khí sinh động và lôi cuốn HS thì không dễ dàng. Nhưng làm được điều đó GV không chỉ làm chủ kiến thức trong lĩnh vực dạy học của mình mà cần có phương pháp sư phạm thích hợp để phát huy tính chủ động của HS. Tôi nghĩ rằng, Là một GV có trình độ chuyên môn, nhưng bên cạnh đó phải có tay nghề vững vàng, phải biết yêu nghề, mến trẻ, phải có năng lực sư phạm. Năng lực về khoa học; hiểu biết ngôn ngữ diễn đạt, cách tổ chức, trình bày bài giảng,…Đổi mới phương pháp là đổi mới hình thức tổ chức dạy học để tạo một sự tương ứng cần thiết. Mỗi hình thức tổ chức dạy học đều có tác dụng tích cực để phát triển học sinh ở một khía cạnh nào đó. Vì vậy mỗi GV cần biết kết hợp nhiều hình thức tổ chức để phát huy thế mạnh của từng học sinh. Phương pháp dạy học mới, đòi hỏi phải có hình thức tổ chức dạy học tạo cơ hội cho học sinh suy nghĩ làm việc, trao đổi thảo luận với nhau nhiều hơn… nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh. Khi dạy bài Tập làm văn Nghe - kể: Dại gì mà đổi Tuần 4. Tiết : Tập làm văn Bài : Nghe - kể: Dại gì mà đổi Ở tiết Tập làm văn này, GV cần kể đúng nội dung câu chuyện, thể hiện được điệu bộ, cử chỉ hấp dẫn lôi cuốn học sinh ngay từ phát ban đầu: Thể hiện được giọng kể lời nói nghiêm khắc của người mẹ, lời nói vô tư ngộ nghỉnh của cậu bé 4 tuổi khi trả lời câu nói của người mẹ. - Lập kế hoạch cho hình thức dạy học, GV chọn hình thức dạy học phù hợp nhằm lôi cuốn HS vào các hoạt động học tập tích cực, chủ động và sáng tạo. Tạo cho học sinh không khí thoải mái, mạnh dạn tự tin khi thảo luận, đàm thoại một cách tự nhiên đúng chủ điểm trọng tâm của bài học.Từ đó rèn cho học sinh khả năng diễn đạt những ý kiến theo lối suy nghĩ, cảm xúc của mình, thể hiện thái độ yêu ghét, trân trọng , thẳn thắn phê phán… Thực hiện được những biện pháp trên là giáo viên đã thành công một phần trong phương pháp đổi mới dạy học. Học sinh trở nên mạnh dạn tự tin và có nhiều hứng thú trong học tập. 3. Dạy học theo quan điểm giao tiếp: Dạy học theo quan điểm giao tiếp là hình thành cho học sinh kỹ năng diễn đạt thông qua các bài học, hình thành thói quen ứng xử trong giao tiếp hàng ngày với thầy cô, cha mẹ, bạn bè và mọi người xung quanh. Vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm này, giáo viên tạo cho học sinh nhiều cơ hội thực hành, luyện tập, không quá nặng về lý thuyết như phương pháp dạy học truyền thống. Do vậy học sinh hào hứng tham gia vào các hoạt động học tập, tích cực, sáng tạo trong làm văn. Việc hình thành và rèn luyện các kỹ năng nghe-nói-đọc-viết cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn đảm bảo đạt được hiệu quả tối ưu. Ví dụ: Giảng dạy dạng bài tập nghe và tập nói. Nghe và kể lại câu chuyện “Giấu cày”- Tập làm văn-Tuần 1. Qua việc kể mẫu của giáo viên, quan sát tranh, gợi ý sách giáo khoa… học sinh kể nội dung câu chuyện như sau: Có một người đang cày ruộng thì vợ gọi về ăn cơm. Bác ta liền hét to trả lời: Để tôi giấu cái cày vào bụi đã. Về nhà bác ta liền bị vợ trách: Ông giấu cày mà la to như thế, kẻ gian biết chỗ, nó lấy mất cày thì sao. Lát sau, cơm nước xong, bác ta ra ruộng, quả nhiên thấy cày bị mất. Bác ta liền chạy một mạch về nhà, nói thầm vào tai vợ: “Nó lấy mất cày rồi!” Qua giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau (kể cho nhau nghe), việc kể lại nội dung câu chuyện trước lớp giúp các em thấy được sự phê phán hóm hỉnh, hài hước, và kể lại nội dung câu truyện với giọng kể, cử chỉ, điệu bộ gây cười ở người nghe, nét mặt phù hợp, nâng kịch tính câu chuyện lên cao hơn. Song song với việc rèn luyện kỹ năng nghe-nói, học sinh rèn kỹ năng viết: nắm kỹ thuật viết, luật viết câu văn, đoạn văn hoàn chỉnh, đúng về ngữ pháp, bố cục, phù hợp văn cảnh hoặc môi trường giao tiếp. Mỗi bài văn của học sinh không đơn thuần là kể, tả ngắn về con người, sự vật, sự việc mà thông qua đó thể hiện suy nghĩ, cảm xúc, sự đánh giá, thái độ yêu - ghét, trân trọng hay phê phán của các em.Thông qua bài viết của các em người đọc hiểu được tâm tư tình cảm của các em về một vấn đề nào đó. Bổ trợ cho việc rèn kỹ năng nghe - nói trong tiết Tập làm văn, phần kể chuyện của tiết Tập đọc - kể chuyện cũng chú trọng đến rèn kỹ năng giao tiếp. Ví dụ: Dạy Tập đọc kể chuyện. Tiết 2 - Bài Đất quý đất yêu - Tuần 11. Nhiệm vụ của học sinh là: quan sát tranh, sắp xếp lại tranh theo trình tự nội dung câu chuyện Đất quý đất yêu. Sau đó dựa vào tranh kể lại câu chuyện, đúng nội dung, ngắn gọn, từ ngữ súc tích, dễ hiểu, biết kết hợp lời nói với cử chỉ, điệu bộ để câu chuyện thêm hấp dẫn sinh động; giúp người nghe thấy được phong tục tập quán của người Ê - ti - ô - pi - a : họ coi đất đai là thứ thiêng liêng, cao quý nhất. Thông qua kể lại câu chuyện theo tranh, học sinh hình thành và rèn luyện khả năng diễn đạt, phục vụ tốt cho bài tập nói của tiết Tập làm văn. Tóm lại, học sinh rèn luyện khả năng quan sát, nói - viết, rút ra những nét điển hình, đặc trưng của từng vùng miền, thấy được vẻ đẹp đáng yêu, đáng tự hào của mỗi vùng miền, từ đó hình thành nuôi dưỡng tình cảm gắn bó, yêu thương, ý thức giữ gìn, xây dựng quê hương đất nước. Ngoài ra, mỗi giáo viên cần cần chú trọng vận dung phương pháp dạy học theo quan điểm giao tiếp, khơi dậy ở các em những cảm xúc, đánh thức tiềm năng cảm thụ văn học và có nhu cầu thể hiện, bày tỏ sự cảm thụ đó với người khác. Như vậy, mỗi bài nói, bài viết sẽ chính là tâm hồn tình cảm của các em, các em sẽ thêm yêu văn - yêu cái hay, cái đẹp, yêu tiếng Việt - giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. 4 .Tổ chức tốt việc quan sát tranh, hướng dẫn học sinh cách dùng từ, giọng kể, điệu bộ khi làm bài nghe, nói, viết. Với đặc điểm vốn từ còn hạn chế, nên học sinh lớp 3 gặp nhiều khó khăn trong việc nghe - nói - viết - kể lại câu chuyện bằng lời văn của mình. Do vậy, giáo viên cần tổ chức tốt hoạt động quan sát tranh: quan sát từng đường nét, màu sắc, hình ảnh, nội dung thể hiện của tranh. Học sinh cảm nhận được được những nét đẹp của cảnh vật, con người và muốn bày tỏ trao đổi với bạn, với thầy cô. Để các em làm tốt hoạt động này, trước hết giáo viên chú ý cho học sinh sử dụng gợi ý trong sách giáo khoa, lắng nghe cô kể, bạn kể để nhớ được các ý chính của nội dung câu chuyện. Giáo viên chú trọng về lời văn kể và nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Giáo viên cần hướng dẫn các em cách chọn lựa, sử dụng từ ngữ, hình ảnh để điễn đạt sao cho dễ hiểu, sinh động. Có như vậy người nghe-đọc sẽ dễ dàng hình dung, tưởng tượng, nắm bắt được sự việc, suy nghĩ tình cảm mà các em muốn thể hiện qua bài nói, bài viết. Người nghe, người đọc tuy không trực tiếp nhìn diện mạo của nhân vật, xem bối cảnh của sự việc như xem phim, xem kịch nhưng vẫn thấy được thế giới nội tâm của nhân vật, quá trình diễn biến của sự việc qua những hình ảnh miêu tả, so sánh cùng với những tình cảm, thái độ, sự đánh giá của các em. Đó chính là điểm mạnh của nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Ví dụ: Dạy Tập làm văn Tuần 12. Bài tập 1.Quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta. Thông qua việc quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta, giúp học sinh nắm nội dung của tranh (ảnh), thấy vẻ đẹp của tranh (ảnh), từ đó các em lựa chọn từ ngữ thích hợp để nói và viết thành đoạn văn, giúp cho người nghe - đọc tuy không quan sát tranh (ảnh) nhưng vẫn thấy được vẻ đẹp của danh lam thắng cảnh mà học sinh nói đến. Bài tập 2: Học sinh quan sát ảnh chụp cảnh biển Phan Thiết. HS quan sát tổng thể bức ảnh, sau đó quan sát từng hình ảnh cụ thể, màu sắc của bức ảnh, thấy vẻ đẹp bức ảnh mình vừa quan sát. ngoài ra các em biết cách quan sát một số bức tranh ảnh mà mình sưu tầm được. Bài Tập làm văn tuần 25 : Đề bài: “Quan sát một ảnh lễ hội dưới đây (SGK) tả lại quang cảnh và hoạt động của những người tham gia lễ hội”. Khi quan sát học sinh nhận đâu là hoạt động chính của lễ hội. Đó là hoạt động gì? Màu sắc trong tranh thể hiện không khí, quang cảnh lễ hội từ đó các em bộ lộ tình cảm của mình đối với các hoạt động mang đậm nét phong tục tập quán của địa phương. Thêm vào đó, những yếu tố phi ngôn ngữ như điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, nét mặt, giọng điệu của các em khi nói sẽ làm tăng tính hấp dẫn, tính thuyết phục đối với người nghe. Do đó, giáo viên cũng cần khuyến khích các em rèn luyện khả năng sử dụng những yếu tố phi ngôn ngữ này. 5. Sử dụng linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy tập làm văn theo hướng đổi mới. Việc tổ chức tốt các hình thức dạy học sẽ cuốn hút học sinh vào các hoạt động học tập một cách chủ động tích cực. Giáo viên sử dụng các hình thức tổ chức dạy học như: học sinh thảo luận nhóm, đàm thoại với nhau và với chính thầy cô hoặc hoạt động cá nhân (độc thoại) về một vấn đề. Các hình thức tổ chức hoạt động học có thể là: đóng các hoạt cảnh, vận dụng các trò chơi trong tiết học, các cuộc thi tiếp sức… Qua đó học sinh lĩnh hội kiến thức, tích cực, tự giác “học mà chơi-chơi mà học”. Không khí học tập thoái mái khiến học sinh mạnh dạn, tự tin khi nói. Các em dần có khả năng diễn đạt, phát biểu ý kiến, đánh giá trước đông người một cách lưu loát, rành mạch, dễ hiểu. So sánh với phương pháp dạy Tập làm văn lớp 3 truyền thống: mỗi tiết Tập làm văn chú trọng đến mục tiêu là hình thành bài văn theo một đề bài thuộc một thể loại văn nào đó dưới dạng nói hoặc viết. Tiết học diễn ra theo tiến trình: giáo viên hướng dẫn làm bài dựa theo dàn bài thuộc thể loại chung, đưa các câu hỏi gợi ý... khiến học sinh dễ nhàm chán, có cảm giác bị bắt buộc theo khuôn mẫu, không khuyến khích học sinh nói, viết những cảm xúc, nhận xét, đánh giá, sự miêu tả của chính các em. Trong chương trình sách giáo khoa lớp 3 hiện hành, mỗi tiết Tập làm văn là một hệ thống bài tập có tính định hướng, gợi mở, với nhiều dạng bài: nghe - nói, nói - viết, nghe - nói - viết... Vì vậy, giáo viên vẫn bám sát mục đích, yêu cầu của tiết dạy, bài dạy nhưng linh hoạt, chủ động hơn trong cách tổ chức các hoạt động dạy - học, phân bố thời gian hợp lý, vừa tránh được những nhược điểm nêu trên vừa tạo được không khí học tập phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh. Ví dụ 1: Tiết tập làm văn (tuần11) với hệ thống bài tập như sau: Bài 1: Nghe kể lại câu chuyện “Tôi có đọc đâu”. Yêu cầu : Học sinh nghe và kể lại câu chuyện. Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học: - Giáo viên kể mẫu nội dung câu chuyện. - Thảo luận theo nhóm, theo cặp: học sinh dựa vào gợi ý, sách giáo khoa, tranh và việc nghe giáo viên kể để kể lại nội dung câu chuyện cho nhau nghe. - Đại diện từng nhóm kể trước lớp. - Học sinh nhận xét. - Giáo viên nhận xét, bổ sung và tuyên dương học sinh kể tốt. Cách tổ chức các hình thức hoạt động nêu trên huy động được tất cả học sinh tham gia vào hoạt động học tập, tạo được không khí thi đua học tập giữa từng học sinh với nhau, và giữa các nhóm học sinh. Bài 2: Nói về quê hương em hoặc nơi em đang ở. Yêu cầu : Học sinh làm việc cá nhân với vở bài tập. Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học:  Cá nhân học sinh làm trong vở bài tập.    Học sinh trình bày trước lớp Học sinh nhận xét bài làm của bạn Giáo viên nhận xét, bổ sung và tuyên dương học sinh có bài làm hay. Qua việc giáo viên nhận xét, bổ sung,đánh giá khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh, khả năng diễn đạt sắp xếp các ý theo đúng trình tự bài học chưa. Từ nhận thức của học sinh giúp giáo viên lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học phù hợp từ nội dung bài giảng, hệ thống câu hỏi gợi mở, hình thức luyện tập giúp học sinh phát huy khả năng của mình và đạt hiệu quả cao nhất. Ngoài ra giáo viên đánh giá cách truyền thụ kiến thức, phương pháp giảng giải của chính bản thân để điều chỉnh cho phù hợp. Tóm lại, sử dụng và phối hợp linh hoạt các hình thức dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới tạo được hứng thú học tập cho học sinh, học sinh tham gia các hoạt động học một cách hào hứng, tích cực, sáng tạo. Ví dụ 2: Tiết tập làm văn (tuần22) với hệ thống bài tập: Bài 1: Kể về người lao động trí óc mà em biết.     Giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân (làm trong vở bài tập). Trao đổi nhóm, kể cho nhau nghe về người lao động trí óc. Sau khi thống nhất các em cử đại diện nhóm trình bày. Học sinh khác nghe nhận xét, bổ sung. Bài 2: Viết những điều em vừa kể thành đoạn văn.  Học sinh phải biết viết những điều em vừa kể thành đoạn văn với câu văn đúng, hay, biết sử dụng hình ảnh, từ ngữ phù hợp. Như vậy, trong một tiết học, học sinh vừa luyện kể (luyện nói), vừa luyện viết đoạn văn (văn bản), nên việc giáo viên vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học trong dạy Tập làm văn là nhiệm vụ cần thiết. 6. Dạy học theo Phương pháp thực hành theo nhóm và cá nhân. Dạy học nhằm phát huy tinh thần tự học và sáng tạo của học sinh là tập trung vào học sinh không phải chỉ tìm ra một câu trả lời có sẵn mà học sinh phải đưa ra được câu trả lời trên cơ sở suy nghĩ và hiểu biết của chính mình. Quá trình tư duy đó đòi hỏi học sinh phải vận dụng những vốn tri thức, hiểu biết phù hợp với vấn đề đặt ra trong câu hỏi; phân tích, sắp xếp những tri thức đưa ra với vấn đề trong câu hỏi trả lời, kết luận và chọn phương án trả lời tốt nhất. Tóm lại, học sinh tự tìm ra câu trả lời qua việc thu thập, sàng lọc thông tin và phân tích dữ liệu. Tuần 22. Tập làm văn Bài : Nói,viết về người lao động trí óc Bài 1: Kể về người lao động trí óc mà em biết . - Giáo viên cho học sinh suy nghĩ làm việc cá nhân trong vở nháp. - Trao đổi nhóm, kể cho nhau nghe về người lao động trí óc mà em biết. - Sau khi hoàn thành trong nhóm cử đại diện trình bày trước nhóm, lớp. - Cả lớp cùng nghe, cùng nhận xét, bổ sung. - GV là người chỉnh sữa câu, từ, bố cục của đoạn văn. - Đánh giá và động viên kịp thời. Bài 2: Viết những điều em vừa kể thành đoạn văn ngắn ( từ 5 đến 7 câu ). - Học sinh phải biết viết những điều em vừa kể thành đoạn văn với câu văn đúng, hay, biết sử dụng hình ảnh, từ ngữ phù hợp. Vậy trong một tiết học, học sinh vừa luyện kể (luyện nói), vừa luyện viết đoạn văn, học sinh tự tìm ra câu trả lời qua việc thu thập, sàng lọc thông tin và phân tích dữ liệu. Nên giáo viên cần vận dụng một cách linh hoạt các hình thức dạy học trong dạy Tập làm văn để đạt hiệu quả cao. 7. Dạy học phối kết hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Các hoạt động ngoại khoá giúp học sinh có những hiểu biết thực tế ngoài kiến thức được học trong chương trình chính khoá. Do đó việc phối kết hợp với các hoạt động ngoài giờ lên lớp là rất cần thiết. Qua các hoạt động ngoài giờ, học sinh được rèn luyện bằng nhiều hình thức khác nhau, có nội dung liên quan đến bài học của các em. Giáo viên giảng dạy cần có sự kết phối hợp chặt chẽ với giáo viên tổng phụ trách, thông qua các buổi chào cờ nói về gương người tốt việc tốt, tổ chức các hoạt động: thi búp măng xinh, thi ca hát tập diễn các tiểu phẩm, thi kể chuyện - văn nghệ, thi đọc thơ, thi các môn năng khiếu…Hoặc thông qua buổi lễ khai giảng học sinh có thể viết những cảm xúc, những kỷ niệm đẹp của các em về ngày đầu tiên đi học (Bài học Tuần 6).Hay qua buổi lễ kết nạp đội viên TNTP Hồ Chí Minh, học sinh có nguyện vọng viết đơn vào Đội, sinh hoạt trong các câu lạc bộ, tổ chức của Đội…Từ thực tế đó, học sinh sẽ có thêm hiểu biết về Đội TNTP Hồ Chí Minh, giúp các em viết tốt hơn Đơn xin vào Đội (tiết Tập làm văn-Tuần 2) với yêu cầu: Em hãy viết đơn xin vào Đội với mẫu in sẵn. IV.Kết quả đạt được Tôi đã mạnh dạn áp dụng các biện pháp trên vào quá trình giảng dạy, tôi thấy học sinh đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Hiệu quả giờ dạy được nâng lên rõ rệt. Học sinh chủ động hứng thú học tập, hoạt động tích cực hơn, mạnh dạn, tự tin hơn trong giờ học. Kết quả học tập phân môn tập làm văn của lớp tôi có tiến bộ trong từng học kỳ như sau : Khối 3 Trước khi thực nghiệm Sau khi thực nghiệm Không tích Tích cực,hứng cực, hứng thú, thú, say mê say mê sáng sáng tạo học Sĩ số tạo học môn môn TLV HS TLV Tích cực,hứng thú, say mê, sáng tạo học môn TLV Không tích cực, hứng thú, say mê sáng tạo học môn TLV 3A 30 10 em 20 em 27 em 3 em 3B 31 10m 21 em 22 em 9 em 31 10 em 21 em 25 em 6 em Lớp 3C (KQ HK I ) Qua quá trình áp dụng các biện pháp thực hiện nhằm nâng cao tính tích cực chủ động trong phân môn Tập làm văn kết quả của từng nội dung thực nghiệm như sau: So sánh số học sinh Chưa thực nghiệm và thực nghiệm. 3A Nội dung khảo sát (KQ HK I ) 3B (KQ HK I ) 3C ( KQ HK I) CTN TN CTN TN CTN TN - Viết đúng câu, đúng đúng từ. 8 27 9 20 12 21 - Nói và viết thành câu 9 27 11 21 10 21 - Dùng từ ngữ, câu văn có hình ảnh 8 26 9 27 14 28 - Viết và trình bày đoạn văn 8 28 9 20 12 21 - Bài viết đạt từ trung bình trở lên 10 30 12 21 14 21 Từ biện pháp mà tôi đã sử dụng đã thu được kết quả thật khả quan. Nhìn vào bảng khảo sát ta thấy có sự chuyển biến rõ rệt. Từ hiểu biết thực tế trong cuộc sống, quan sát tranh ảnh,…Các em tự nhận thấy không còn sợ phân môn này nữa vì bản thân các em đã được đóng vai trò chủ đạo trong tiết học. Học sinh đã tạo cho chính mình sử dụng một cách tự tin về sử dụng câu từ và mạnh dạn phát huy ưu điểm chính mình tạo cho lớp học vui vẽ, sôi nổi và hứng thú hơn. Thiết nghĩ, nếu giáo viên áp dụng các biện pháp này một cách thường xuyên ở lớp thì chắc chắn chất lượng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh trong lớp sẽ được cải thiện. V.KẾT LUẬN , ĐỀ XUẤT 1.Kết luận: BÊt kú mét giai ®o¹n lÞch sö nµo th× gi¸o dôc vÉn lµ quèc s¸ch hµng ®Çu bëi v× gi¸o dôc cã vai trß quan träng t¹o nªn nguån nh©n lùc t¬ng lai cho ®Êt níc. §æi míi ph¬ng ph¸p d¹y häc còng chÝnh lµ t¹o ®iÒu kiÖn quan träng ®Ó ®µo t¹o mét thÕ hÖ míi n¨ng ®éng, s¸ng t¹o ®¸p øng ®îc xu thÕ ®æi míi cña ®Êt níc.Qua việc thực hiện nội dung nghiên cứu trên, cho chúng ta thấy được việc Phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh Lớp 3 trong phân môn Tập làm văn đó là một việc đòi hỏi người giáo viên chủ nhiệm cần phải sáng tạo và linh hoạt trong các tiết dạy. Để có được kết quả trên, Người giáo viên đã biết áp dụng nhiều phương pháp dạy học một cách linh hoạt và khéo léo. Như chúng ta đã biết, không có phương pháp dạy học nào là vạn năng. Vì vậy, trong dạy học, mỗi giáo viên phải linh hoạt phối hợp các phương pháp dạy học và các hình thức tổ chức sao cho nhịp nhàng, lô-gic để tiết dạy theo phong phú, tự nhiên, sinh động và đem lại niềm vui cho các em trong việc học tập. Tôi nghĩ những biện pháp nêu trên có thể áp dụng rộng rãi ở các lớp đó là những yếu tố không thể thiếu được để nâng cao chất lượng dạy học. Tôi mong rằng kinh nghiệm này sẽ được nhân rộng ra ở các khối lớp ở bậc tiểu học nói chung và đặc biệt là ở lớp 2,3 nói riêng để tạo cho các em có một hành trang đầy tự tin khi học phân môn này. 2.Đề xuất Dựa trên tình hình thực tế ở địa phương, trình độ học sinh, qua trải nghiệm việc dạy - học ở trường, tôi có một số kiến nghị với quí cấp nhằm nâng cao chất lượng dạy - học ở phân môn Tập làm văn. - Bộ Giáo dục, Sở giáo dục trang bị thêm cho trảnh ảnh, mẫu vật bằng mô hình có nội dung theo các bài học để tiết dạy đạt hiểu quả cao. - Phòng giáo dục nên tổ chức các buổi tập huấn chuyên đề, trao đổi kinh nghiệm để giúp giáo viên nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. - Là GV ở bậc tiểu học,tôi nghĩ rằng GV cần phải : Tăng cường sử dụng các phương tiện, đồ dùng dạy học, đổi mới cách đánh giá, kiểm tra. Bên cạnh đó người giáo viên phải có lòng nhiệt tình,tâm huyết trong việc giảng dạy. - Dành thời gian để nghiên cứu bài, lập kế hoạch bài dạy, dự kiến trước những tình huống có thể xảy ra để đề ra những biện pháp khắc phục kịp thời. - Theo dõi, quan tâm, giúp đỡ mọi đối tượng học sinh. Tạo điều kiện để tất cả các em đều được hoạt động. Tổ chức cho các em tự phát hiện, tìm tòi ra kiến thức mới từ đó sẽ phát huy được óc tư duy sáng tạo, tính độc lập, tự giác cho các em. - Cùng với học sinh xây dựng môi trường học tập thân thiện; giáo dục học sinh tính trung thực, khiêm tốn, vượt khó trong học tập. Đây chính là việc làm góp phần xây dựng phong trào “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong giai đoạn hiện nay. - Trong quá trình dạy học, nếu giáo viên phát hiện được những sai lầm của học sinh, tìm hiểu nguyên nhân của những sai lầm đó và tìm ra những biện pháp khắc phục kịp thời thì hiệu quả các tiết học chắc chắn sẽ được nâng cao. Trong thời gian tìm tòi và nghiên cứu, khi áp dụng những giải thực nghệm đã đạt những kết quả đáng khích lệ. Nhưng thời gian và trình độ còn hạn chế, vì vậy không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng khoa học các cấp để sáng kiến kinh nghiệm áp dụng rộng rãi hơn trong quá trình giảng dạy nói riêng và giáo dục hóa nói chung. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Người viết Trịnh Thị Hòa
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan