Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng...

Tài liệu Skkn đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng học sinh giỏi quốc gia ở trường thpt chuyên hưng yên giai đoạn 2011 201

.PDF
63
1092
139

Mô tả:

Nguyễn Ngọc Luân - THPT Chuyên HY: Đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng học sinh giỏi Quốc gia ở trường THPT Chuyên Hưng Yên giai đoạn 2011-201 Nội dung Trang PHẦN MỞ ĐẦU 2 1. Lí do chọn đề tài 3 2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài 3 3. Phương pháp nghiên cứu đề tài 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 5 5. Đóng góp của đề tài 5 6. Kết cấu của đề tài CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 6 1. Cơ sở lí luận chung 16 2. Cơ sở thực tiễn của đổi mới phương pháp giảng dạy CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VIỆC ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY Ở TRƯỜNG THPT 19 CHUYÊN HƯNG YÊN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NAY 23 2.1. Vài nét về trương THPT Chuyên Hưng Yên 2.2. Thực trạng chất lượng và hiệu quả của phương pháp giảng 30 dạy ở trường THPT Chuyên Hưng yên từ năm 1997 đến 2010 2.3. Nguyên nhân và bài học kinh nghiệm CHƯƠNG III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO VÀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA Ở TRƯỜNG THPT CHUYÊN HƯNG 36 YÊN GIAI ĐOẠN 2011-2015 43 3.1. Phương hướng chung 3.2. Những giải pháp cụ thể 57 KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN 60 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Việt nam là một quốc gia ở khu vực Đông Nam Á - đang thực hiện sự nghiệp đổi mới và hội nhập, mở rộng giao lưu quốc tế và quá trình công nghiệp háo, hiện đại hóa đất nước. Vấn đề nguồn nhân lực đã và đang trở thành vấn đề cốt yếu của sự nghiệp giáo dục và đào tạo, góp phần làm động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội. Giáo dục phổ thông - đặc biệt là giáo dục mũi nhọn là một lĩnh vực có vai trò quan trọng trong mắt xích hệ thống giáo dục quốc dân ở Việt Nam. Bởi đây chinh là nguồn nhân lực đảm bảo vai trò, sư smạng của đất nước trong tương lai. Hiện nay - đổi mới giáo dục đàn diễn ra trên phạm vi toàn cầu trong đó có Việt nam. Do tác động của xu thế toàn cầu hóa đã tạo nên những thay đổi sâu sắc từ quan niệm về chất lượng giáo dục, mục tiêu giáo dục, đến cách thức tổ chức và hệ thống giáo dục. Nhà trường từ chỗ hoạt động đơn điệu là dạy và học chuyển sang giao lưu, đối thoại, tiếp nhận thông tin, gắn liền với nghiên cứu khoa học và công nghệ ứng dụng. Nhà giáo từ chỗ chỉ truyền đạt kiến thức chuyển sang cung cấp cho người học phương pháp thu nhận thông tin một cách có hệ thống , có tư duy, phân tích và tổng hợp. Học sinh từ chỗ tiếp thu kiến thức một cách thụ động, trở thành trung tâm thu nhận kiến thức, chủ động trong việc tiếp thu kiến thức, từ chỗ chỉ biết học kiến thức mà thầy cô giáo trang bị chuyển sang chủ động tìm tòi, nghiên cứu kiến thức, chọn lựa kiến thức sao cho phù hợp. Do vậy mà nhà trường phải đổi mới giáo dục về nhiều mặt đặc biệt là về phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của nhà trường và học sinh của nhà trường. Là sinh viên của khoa Vật lí trường Đại học sư phạm hà nội khóa 1979 - 1983 tôi tốt nghiệp loại giỏi - thủ khoa Vật lí năm 1983 - được điều động về giảng dạy tại trường THPT Yên Mĩ (tháng 1 năm 1984). Năm 1997, tỉnh Hưng Yên được tái lập trở lại - trường THPT Chuyên Hưng Yên được thành lập và tôi là người được Sở Giáo dục - Đào tạo Hưng Yên điều động về công tác tại trường từ những ngày đầu tiên. Tháng 11 năm 1997, tôi được Ủy ban nhân dan tỉnh Hưng Yên đề bạt giữ chức vụ Phó hiệu trưởng nhà trường, được nhà trường giao phụ trách mảng chuyên môn từ đó đến nay. Trong quá trình chỉ đạo và thực hiện công tác chuyên môn của nhà trường, hơn nữa bản thân tôi lại là giáo viên đứng lớp, từng giảng dạy các lớp Chuyên Vật lí và bồi dưỡng các Đội tuyển quốc gia của tỉnh Hưng Yên 12 năm qua tôi nhận thấy việc đổi mới phương pháp giảng dạy trong giai đoạn hiện nay là cần thiết đối với các nhà trường nói chung và trường THPT Chuyên Hưng Yên nói riêng. Đặc biệt đổi mới phương pháp giảng dạy, đưa công nghệ thông tin, đưa trang thiết bị hiện đại vào giảng dạy và nghiên cứu ở trường THPT Chuyên Hưng Yên lúc này là quan trọng và cấp bách hơn bao giừo hết. Vì vậy tôi chọn “Đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng học sinh giỏi Quốc gia ở trường THPT Chuyên Hưng Yên giai đoạn 2011-2015” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình. 2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài Trên cở sở nghiên cứu lí luận về đổi mới phương pháp giảng dạy ở trường THPT và nghiên cứu thực trạng phương pháp giảng dạy ở trường THPT Chuyên Hưng Yên từ năm 1997 đến 2010, đề tài đề xuất những giải pháp khả thi phải thực hiện nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng học sinh giỏi Quốc gia ở trường THPT Chuyên Hưng Yên giai đoạn 20112015. Nhiệm vụ đặt ra khi nghiên cứu đề tài đó là: * Xác định cơ sở lí luận của đổi mới phương pháp giảng dạy ở trường THPT nói chung và trường THPT Chuyên Hưng Yên nói riêng * Tìm hiểu thực trạng của chất lượng đội ngũ giáo viên trường THPT Chuyên Hưng Yên từ năm 1997- 2010 * Thực trạng của phương pháp giảng dạy ở nhà trường và học tập của học sinh nhà trường từ năm 1997- 2010 * Đề xuất một số giải pháp có thể đạt được nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THPT Chuyên Hưng Yên giai đoạn 20112015 3. Phương pháp nghiên cứu đề tài Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ của đè tài đặt ra, trong quá trình thực hiện đè tài, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau đây: +) Phương pháp nghiên cứu điển hình Các điển hình ở đây chính là các đồng chí giáo viên giỏi, giáo viên có kinh nghiệm, có tay nghề, nhiều năm giảng dạy và bồi dưỡng các đội tuyển Quốc gia ở trường THPT Chuyên Hưng Yên. Đặc biệt là ý kiến phản hồi của 1 số các em học sinh giỏi, có giải cao trong các kì thi chọn học sinh giỏi từ năm 1997- 2010 mà bản thân tôi và đồng nghiệp bồi dưỡng, các em còn đang theo học ở trường hoặc đã trưởng thành. +) Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết * Nghiên cứu văn bản, nghị quyết của Tỉnh ủy Hưng Yên, của Sở giáo dục và đào tạo Hưng Yên về đổi mới phương pháp giảng dạy * Đọc các tài liệu quản lí giáo dục đào tạo, các công trình nghiên cứu về vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy, +) Nhóm nghiên cứu thực tiễn * Tiến hành dự giờ, thăm lớp, tìm hiểu phương pháp dạy học truyền thống của giáo viên trong trường * Sử dụng phương pháp điều tra, thăm dò ý kiến của lãnh đạo giáo viên và học sinh nhà trường * Phân tích dữ liệu thu nhận được dựa vào kết quả thăm dò, biểu bảng, thống kê, biểu đồ…. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài * Về thời gian: Khảo sát đánh giá tình hình giảng dạy, kết quả của trường THPT Chuyên Hưng Yên từ năm 1997- 2010 * Về không gian: Trường THPT Chuyên Hưng Yên - thuộc Sở giáo Dục & Đào tạo Hưng Yên- số 1- Đường Chu Văn An- Phường An Tảo Thành phố Hưng Yên. * Đối tượng nghiên cứu: Ban giám hiệu, các thầy cô giáo thuộc Hội đồng giáo dục nhà trường, 28 lớp Chuyên thuộc 3 khối lớp 10, 11, 12 của trường THPT Chuyên Hưng Yên. * Các em học sinh thuộc các đội tuyển Quốc gia môn Vật lí đã đạt giải ở các năm học trước hiện đang công tác, học tập tại các trường Đại học trong cả nước. 5. Đóng góp của đề tài Đề tài nghiên cứu trước hết phục vụ cho công tác chỉ đạo chuyên môn của bản thân tôi về hoạt động chuyên môn của nhà trường những năm 20112015 nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo và bồi dưỡng học sinh giỏi của tỉnh Hưng Yên, phấn đầu có nhiều học sinh của nhà trường tham dự thi Olympic Quốc tế và nhiều học sinh đạt giải trong các kì thi chọn học sinh giỏi Quốc gia những năm tiếp theo. Bên cạnh đó đề tài là tài liệu tham khảo cho các đồng chí đồng nghiệp là cán bộ quản lí tại trường THPT Chuyên đã , đang và sẽ thực hiện nhiệm vụ quản lí hoạt động chuyên môn của nhà trường. Đề tài là tài liệu học tập cho các đồng chí giáo viên trẻ, qua đề tài các đồng chí thấy được nội dung của việc đổi mới phương pháp giảng dạy hiện nay, từ đó lựa chọn áp dụng vào việc giảng dạy của bản thân. 6. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài này được kết cấu gồm 3 chương Chương I. Cơ sở lí luận và thực tiễn của đổi mới phương pháp giảng dạy ở trường THPT Chương II. Thực trạng việc đổi mới phương pháp giảng dạy ở trường THPT Chuyên tỉnh Hưng Yên giai đoạn 1997- 2010 Chương III. Phương pháp và giải pháp đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng học sinh giỏi Quốc gia ở trường THPT Chuyên Hưng Yên giai đoạn 2011- 2015 CHƯƠNG I CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY I. Cơ sở lí luận chung 1.1. Quan niệm về đổi mới phương pháp giảng dạy 1.1.1. Quan niệm của Đảng cộng sản Việt nam về giáo dục Giáo dục và đào tạo được Đảng cộng sản Việt nam xác định :“ là quốc sách hàng đầu” và “đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho cho phát triển”. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW Đảng cộng sản Việt nam tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại háo đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Trong những năm qua, nền giáo dục cách mạng nước ta đã đạt được những thành tựu đáng tự hào, góp phần quan trọng, quyết định trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Hệ thống giáo dục quốc dân từ mầm non đến Đại học và trên Đại học với hơn 21 triệu người đi học (chiếm 27,8% tổng số dân trong cả nước). Sự nghiệp giáo dục Việt nam đã góp phần phát huy nhân tố con người – nguồn nội lực quan trọng đưa nước ta bước vào thế kỉ 21- thế kỉ của hội nhập, của nền kinh tế tri thức, của xu hướng toàn cầu hóa…..cùng với việc phổ cập tiểu học, Trung học cơ sở và tiến tới phổ cập trung học phổ thông là việc phấn đấu để chúng ta trở thành xã hội học tập và nghiên cứu, nhằm theo kịp sự phát triển của khoa học công nghệ của các nước trên thế giới. Bên cạnh đó, nền giáo dục Việt nam còn những bất cập cần phải khắc phục, văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX cho thấy: Chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp so với nhu cầu, mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học, sách giáo khoa, thi cử, cơ cấu đào tạo và trình độ, năng lực quản lí còn nhiều thiếu sót. Trong giáo dục và đào tạo còn có những tiêu cực đáng lo ngại . Để phát huy những thành tựu đã đạ được và khắc phục có hiệu quả các tồn tại, yếu kém, đưa sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX -Đảng cộng sản Việt nam đã chỉ ra hướng giaỉ quyết cho Giáo dục và đào tạo là: tiếp tục quán triệt quan điểm Giáo dục là quốc sách hàng đầu và tạo sự chuyển biến cơ bản toàn diện trong phát triển giáo dục. Triển khai thực hiện có hiệu quả luật giáo dục, tăng cường quản lí nhà nước, đặc biệt là hệ thống thanh tra giáo dục, thiết lập kỉ cương, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục và đào tạo. 1.1.2. Quan niệm của Đảng – nhà nước Việt nam về đổi mới phương pháp giảng dạy Nghị quyết 40/2000 – khóa X của Quốc hội nước cộng hào xã hội chủ nghĩa việt nam nêu rõ: Mục tiêu của việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là xây dựng nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước trong khu vực và trên thế giới. Những định hướng đổi mới phương pháp giảng dạy ở các môn học ở bậc Trung học phổ thông được đề cập trong các nghị quyết TW 4 khóa VII (tháng 1 năm 1993), nghị quyết TW 2 khóa VIII (tháng 12 năm 1996), trong Luật giáo dục (tháng 12 năm 1998) và trong các chỉ thị, quyết định của Bộ giáo dục và đào tạo. Theo nghị quyết này, tinh thần cơ bản của việc đổi mới phườn pháp giảng dạy là : Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh. Bồi dưỡng phương pháp tự học, tự rèn luyện, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn và tạo hứng thú học tập cho học sinh. Điểm cốt lõi của việc đổi mới phương pháp giảng dạy ở trường THPT là tạo cho học sinh thói quen học tập chủ động, chống lại lề thói học tập thụ động trước đây. Chỉ thị số 14/2002 của thủ tướng chính phủ đã đề ra 4 nguyên tắc đổi mới chương trình, sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy như sau: * Quán triệt mục tiêu, yêu cầu rõ nội dung và phương pháp giáo dục các bậc học theo luật giáo dục * Đảm bảo tính kế thừa và phát triển của chương trình giáo dục, phù hợp với thực tiễn và truyền thồng Việt nam, tiếp thu những thành tựu giáo dục tiên tiến trên thế giới. * Thực hiện chuẩn hóa, hiện địa hóa và xã hội hóa, đảm bảo thống nhất về chuẩn kiến thức và kĩ năng, tăng cường tính liên thông với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục sau trung học, đồng thời có phương án áp dụng chương trình, sách giáo khoa phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của các địa bàn khác nhau, chọn lọc đưa ra chương trình giảng dạy những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh, hết sức coi trọng tính thực tiễn, học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. * Thực hiện đồng bộ và có hiệu quả việc đổi mới chương trình và phương pháp dạy và phương pháp học với việc đổi mới cơ bản và phương pháp đánh giá, thi cử, đổi mới đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên. Đổi mới cả công tác quản lí giáo dục, nâng cấp cơ sở vật chất của nhà trường theo hướng chuẩn hóa, đảm bảo trang thiết bị dạy học hiện đại. Trong giáo dục và đào tạo thì nhà trường là quan trọng , là đơn vị nhỏ nhất thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước của Bộ và Sở về giáo dục. Nhà trường là nơi thực thi nhiệm vụ giáo dục và đào tạo, nơi mà kiến thức của thày được trang bị cho trò thông qua hoạt động dạy và học còn học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức thông qua hoạt động học và kiểm tra. Nhà trường là nới thực hiện phương pháp giảng dạy được Bộ giáo dục và đào tạo ban hành. Có thể nói, mọi hoạt động của nhà trường đều nhằm hoàn thành một mục tiêu nào đó của giáo dục đào tạo đặt ra. Nếu nhà trường có một phương pháp giảng dạy tốt thì học trò của nhà trường sẽ tích cực, hăng say và miệt mài học tập và kết quả giáo dục của nhà trường sẽ đảm bảo. Ngược lại, nếu phương pháp giảng dạy của nhà trường không tốt sẽ không thu hút được học sinh theo học, học trò tiếp thu kiến thức khó khăn hơn và dẫn đến kết quả học tập của học sinh đó thấp. Phương pháp giảng dạy của mỗi thầy cô giáo trong nhà trường sẽ quyết định thành quả của nàh trường đó trong hệ thống giáo dục, từ đó mà quyết định đến sự tồn tại và phát triển của nhà trường. Trong đổi mới phương pháp giảng dạy ở trường THPT hiện nay, chúng ta không phủ định vai trò của các phương pháp dạy học truyền thống nhưng yêu cầu phải sử dụng phương pháp đó theo tinh thần đổi mới; Tức là phải luôn luôn tìm cách để học sinh có thể tiếp thu kiến thức và kĩ năng một cách chủ động, tạo ra sự động não thật sựu của học sinh trong giờ học. Thí dụ, trong mỗi giờ học, người giáo viên vẫn có thể áp dụng phương pháp giảng dạy minh họa (phương pháp truyền thống) để dạy một vấn đề, nhưng trước khi giảng, nhất thiết phải cho học sinh nắm được mục đích mà ta đang muốn đạt đến trong giừo học. Tránh thuyết giảng tràn lan để rồi minh họa một cách hình thức, hời hợt. Chúng ta cần chú ý rằng việc nghe giảng kéo dài sẽ gây ra tình trạng ức chế ở học sinh, làm giảm khả năng tập trung suy nghĩ của các em và ảnh hưởng không tốt đến quá trình tiếp thu bài học. Giáo viên phải biết ngừng, biết ngắt đúng lúc từng đoạn của bài giảng của mình để đặt câu hỏi thu thập thông tin phản hồi từ phía học sinh xem học sinh có thực sự tiếp thu bài giảng của mình hay không? Nếu có những câu hỏi gây tranh cãi thì điều đó sẽ kích thích rất mạnh tư duy lí luận của học sinh. Người giáo viên, trước khi minh họa một vấn đề cần cho học sinh nắm rõ nội dung cần minh họa, cách thức tiến hành minh họa, cần yêu cầu học sinh mô tả lại hiện tượng quan sát được, lập luận để rút ra kết luận khẳng định lý thuyết đã được nghe giảng ở trên. Để đổi mới phương pháp giảng dạy, cần đổi mới dẫn dần từng công việc, từng bước lên lớp để tiến tới đổi mới toàn bộ phương pháp dạy học của 1 tiết học. Trước hết người giáo viên cần làm quen với việc dạy học theo tinh thần hướng dẫn học sinh tự học chiếm lính kiến thức, sau đó là để học sinh làm quen với cách học theo tinh thần đổi mới, không ỷ lại hay trông chờ, mà bản thân mỗi học sinh phải tự lực phấn đấu, kết hợp với sự hỗ trợ của giáo viên và bạn bè để nắm được kiến thức và kĩ năng mới. Việc đổi mới phương pháp giảng dạy của thầy, cô giáo kéo theo được sự đổi mới phương pháp học của học sinh. Những bước lên lớp cần được nghiên cứu đổi mới có thể là: bước đặt vấn đề; giao nhiệm vụ học tập cho học sinh; bước tìm tòi nghiên cứu để giải quyết vấn đề; bước rút ra kết luận và hợp thức hóa kết luận trước cả lớp; Cuối cùng là bước kiểm tra đánh giá kết quả tiếp thu bài của hcọ sinh. Chiến lược quan trọng của việc đổi mới phương pháp giảng dạy là dạy học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh. Theo chiến lược này, học sinh không còn ở tư thế thụ động tiếp thu kiến thức, nhắc lại nguyên văn lời thầy cô hay điều được viết trong sách giáo khoa như một chú vẹt. Các em phải nắm được mục tiêu bài học, chủ động tìm hiểu kiến thức trong SGK, quan sát, quan sát hiện tượng rút ra kết luận, tranh luận với bạn bè, thậm chí tranh luận cả với thầy cô giáo từ đó đề xuất ý kiến của mình đối với giáo viên. Học sinh phải thông qua hoạt động học để tự cải tạo chính mình; chiếm lĩnh kiến thức mới; khắc phục những giểu biết sai lầm, phát triển những năng lực, trí tuệ, rèn luyện kĩ năng chân tay, trau dồi với ngôn ngữ, thể nghiệm những quan điểm đạo đức và thái độ ứng xử của mình. Một số công việc mà lâu nay người giáo viên vẫn thực hiện thì nay chuyển giao cho học sinh nhưng giáo viên phải tìm cách kiểm tra cho được kết quả hoạt động của học sinh. Đối với những bộ môn khoa học thực nghiệm như Vật lí; Hóa học; Sinh học; Tin học…. thì người giáo viên cần chú ý rằng thực hành là một trong những biện pháp quan trọng để thu lượm thông tin từ thực tế. Thông qua thực hành ta xây dựng được những biểu tượng cụ thể về sự vật, hiện tượng mà không có một lời lẽ nào có thể mô tả đủ được. Trong thực hành, không những các kĩ năng như quan sát, thực hành lắp ráp thí nghiệm: đo dạc, đọc số liệu trên máy đo, vẽ đồ thị… được rèn luyện mà cả óc suy đoán, tư duy lí luận cũng phát triển rất mạnh. Muốn vậy, người giáo viên không thể cho học sinh thực hành theo cách chỉ đâu làm đấy một cách máy móc mô tả đơn giản một hiện tượng xẩy ra đã rõ ràng... mà cần cho học sinh nắm được mục đích thực hành, xây dựng phương án thực hành, tiến hành thí nghiệm, xử lí kết quả thí nghiệm để rút ra kết luận. Một nội dung nữa của đổi mới phương pháp dạy học là coi việc rèn luyện các kĩ năng quan trọng ngang bằng với việc truyền thụ kiến thức. Trong đố chúng ta đặc biệt chú ý đến các kĩ năng của một tiến trình khoa học. Đó là các kĩ năng thu lượm thông tin cần thiết, các kĩ năng xử lí thông tin để rút ra được kết luận bổ ích và các kĩ năng truyền đạt thông tin khoa học cho cộng đồng. Các kĩ năng thu lượm thông tin trong hoạt động học tập của học sinh bao gồm: kĩ năng đọc sách, đọc biểu, tóm tắt đề bài. Sử dụng thu viện, kĩ năng quan sát, lấy số liệu từ thí nghiệm, lấy số liệu thống kê từ thực tế, kĩ năng khai thác mạng internet…… Kĩ năng xử lí thông tin trong học tập của học sinh bao gồm: kĩ năng xây dựng bảng, biểu đồ, vẽ đồ thị, rút ra kết luận bằng suy luận qui nạp, suy luận diễn dịch, suy luận tương tự, khái quát hóa và tổng quát hóa và kĩ năng truyền đạt thông tin bao gồm: thảo luận khoa học, báo cáo viết, trình bày bảng, trình bày triển lãm…. Trong việc đổi mới phương pháp dạy học không thể tính đến việc bồi dưỡng khả năng tự học cho học sinh. Đó là vì, trước hết, dù là học trên lớp hay tự học ở nhà, mỗi học sinh phải thực sự động não để tiếp thu những điều cần học. Không ai có thể học thay ai được, cho nên, ngay trong tiết lên lớp giáo viên phải huấn luyện cho học sinh cách mắc bắt nội dung chính của mỗi phần tài liệu hay trong SGK, đường lối suy nghĩ và hành động để giải quyết một vấn đề… nghĩa là phải dạy cho học sinh cách tự học. Sau nữa là vì chúng ta gặp phải một mâu thuẫn rất lớn giữa một bên là những yêu cầu về thời gian cần thiết để thực hiện việc đổi mới phương pháp giảng dạy và một bên là sự eo hẹp của thời gian dành cho mỗi môn học. Để giải quyết được vấn đề này, người giáo viên phải khôn khéo kết hợp giữa nội dung dạy học trên lớp với nội dung dành cho học sinh tự học ở nhà - khi đó họ tìm được thời gian thích hợp cho phương pháp dạy học mới. Có lẽ, giáo viên không cần dạy từ A-Z của tất cả các kiến thức có trong SGK của mỗi bài học dành cho một tiết, mà nên dành một phần một nội dung nào đó cho học sinh tự tìm hiểu, rồi sau đó sẽ kiểm tra kết quả sự tự học của các em. Nội dung cuối cùng của đổi mới phương pháp dạy học – đó là đổi mới cách định giá. Về nội dung của đổi mới cách đánh giá cần thiên về đánh giá sự hiểu biết và khả năng vận dụng của học sinh hơn là sự tái hiện thuộc lòng SGK. Tăng cường những nội dung thực tế của bài kiểm tra , loại bỏ những bài toán phức tạp, phi thực tế. Về hình thức, cần phối hợách kiểm tra bằng trắc nghiệm khách quan với cách kiểm tra bằng các câu hỏi tự luận. Cần nghiên cứu một số biện pháp để học sinh tự đánh giá, kết hợp với sự đánh giá của nhóm hoặc của lớp trong 1 số công việc nhằm tạo tiềm lực cho học sinh trong các hoạt động thực tế sau này. 1.2. Nội dung của đổi mới phương pháp giảng dạy 1.2.1. Đổi mới cách soạn giáo án * Trong soạn giáo án, giáo viên phải lượng hóa cho được các mục tiêu của bài học. Lượng hóa mục tiêu có nghĩa là nêu ra những thể hiện cụ thể ở học sinh mà căn cứ vào đó giáo viên có thể đánh giá được, liệu học sinh đã đạt được mục tiêu đề ra hay chưa? Ví dụ, nếu yêu cầu học sinh phát biểu định nghĩa một khái niệm Vật lí thì điều đó có nghĩa là ta chỉ cần học sinh nhận biết và tái hiện đơn giản kiến thức đó. Nếu yêu cầu học sinh nêu được 1 thí dụ về một ứng dụng của một định luật Vật lí thì không những học sinh phải thông hiểu nội dung định luật mà còn phải biết định luật đó có ứng dụng như thế nào trong thực tế đời sống. Thông thường, mục tiêu được lượng hóa bằng những động từ mô tả các hoạt động của học sinh để từ đó các em bộc lộ việc nắm bắt mục tiêu. * Phải chia bài học thành một số nội dung riêng biệt mà ta gọi là đơn vị kiến thức sau đó giáo viên phải cân nhắc, lựa chọn xem nội dung nào nên dạy trên lớp trong thời gian 45 phút, nội dung nào giao cho học sinh tìm hiểu ở nhà. * Hoạch định các hoạt động của học sinh và các hoat động tương ứng của giáo viên trong từng tiết học. Những tình huống, những hoạt động chủ yếu của học sinh và giáo viên trong 1 tiết học thường là những hoạt động sau đây: Hoạt động của học sinh Hoạt động của giáo viên * Tiếp nhận nhiệm vụ học tập * Tạo tính huống học tập, trao nhiệm vụ học tập * Thu lượm thông tin * Tổ chức và hướng dẫn hoạt động cho học sinh +) Nghe giáo viên giảng bài +) Đọc và tìm hiểu một vấn đề trong +) Tóm tắt nội dung cần tìm hiểu SGK +) Giảng sơ lược những chỗ cần thiết +) Tìm hiểu 1 bảng số liệu trong +) Giới thiệu và hướng dẫn cách làm SGK thí nghiệm lấy kết quả +) Quan sát hiện tượng +) Biểu diễn thí nghiệm (nếu có) cho +) Làm thí nghiệm (nếu có) và ghi học sinh quan sát nhận kết quả thí nghiệm +) Cầm chịch và chủ động về thời gian * Xử lý thông tin * Tổ chức cho học sinh xử lý thông +) Rút ra nhận xét hay kết luận từ tin những điều tìm hiểu được +) Yêu cầu học sinh nhận xét, kết +) Lập bảng, vẽ đồ thị, nhận xét về luận tính qui luật của hiện tượng +) Đánh giá nhận xét, kết luận của học sinh +) Trả lời các câu hỏi của giáo viên +) Thảo luận, tranh luận với bạn bè +) Hướng dẫn học sinh cách lập bảng, biểu, vẽ đồ thị, rút ra kết luận trong nhóm, trong lớp từ đồ thị +) Tổ chức trao đổi trong nhóm, lớp +) Tổ chức hợp thức hóa kết luận +) Cầm chịch về thời gian * Ghi chép những kết luận cuối cùng * Củng cố bài học đã được hợp thức hóa * Ra bài tập vận dụng * Làm bài tập vận dụng và trả lời câu * Đưa ra hệ thống câu hỏi trắc hỏi dưới dạng trắc nghiệm nghiệm Người giáo viên phải nghiên cứu xem đơn vị kiến thức nào nên dạy theo nhóm nhỏ, đơn vị kiên sthức nào chỉ cần cho học sinh tìm hiểu ở nhà. * Xác định các thiết bị thí nghiệm(với các bộ môn Lí; Hóa; Sinh), các đồ dùng thiết bị khác như máy chiếu, bản trong, bản đồ đối với các bộ môn khoa học khác. 1.2.2. Nghiên cứu việc sử dụng SGK trong giờ học Theo tinh thần tạo ra sự chủ động, tích cực của học sinh trong việc nắm bắt kiến thức và bồi dưỡng cho học sinh khả năng tự học, tự nghiên cứu trong việc giảng giải và hướng dẫn của giáo viên với việc đọc SGK của học sinh. Đây là nội dung mới so với phương pháp dạy học truyền thống. Ở phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên chủ yếu là thuyết trình, học sinh tiếp thu kiến thức và ghi chép một cách thụ động, thậm chí còn có hiện tượng giáo viên đọc, học sinh chép trong một tiết hoc, làm cho không khí lớp học trầm lắng, chủ yếu là lối đọc – chép, học sinh không chủ động và tích cực xây dựng bài học. Để thực hiện nội dung đổi mới này, đòi hỏi người giáo viên phải tạo ra được sự hứng khởi, tinh thần và không khí học tập ngay từ bước giao nhiệm vụ học tập cho học sinh, làm cho các em chủ đông, hào hứng và tích cực hơn trong mỗi nhiệm vụ được giao. 1.2.3. Nghiên cứu và sử dụng được các phương tiện dạy học Như máy chiếu, bản trong, máy tính xách tay, băng điã CD , các phần mềm dạy học, các thí nghiệm ảo, tranh và bản đồ, biểu đồ, các trích đoạn phim minh họa…. Để tăng hiệu quả của việc truyền tải thông tin đến với người học. Đây là nội dung rất dễ tạo nên không khí học tập hào hứng, hấp dẫn trong học sinh. So với phương pháp giảng dạy cổ truyền thì đây là điều mới. Trước kia người giáo viên nặng về mô tả, thuyết trình thì giừo đây họ chỉ việc điều khiển máy chiếu, băng đĩa thì tất cả những điều cần mô tả sẽ hiện ra, học sinh theo dõi, quan sát, thu hút sự tập trung của các em hơn. Tăng hiệu quả hơn cho người học. 1.2.4. Giáo viên bố trí hợp lí thời gian cho học sinh thảo luận, tranh luận khoa học Tổ chức cho học sinh hợp thức hóa kiến thức hay chuẩn hóa kiến thức. Đồng thời với việc đổi mới các bước lên lớp giáo viên cần nghiên cứu thí nghiệm trong một số tiết học những phương pháp dạy học mới như phương pháp dạy học nêu vấn đề - giải quyết vấn đề; phương pháp dạy học được thiết kế trên cơ sở của các phương pháp nhận thức khoa học như phương pháp giải quyết- thực nghiệm; phương pháp tương tự - mô hình; phương pháp dạy học kiểu kiến tạo…. 1.2.5. Đổi mới cách đánh giá học sinh theo các định hướng dưới đây: +) Soạn bài kiểm tra 15 phút; 45 phút theo hướng phối hợp câu hỏi trắc nghiệm khách nghiệm và câu hỏi tự luận +) Tiến tới soạn bài kiểm tra theo hướng trắc nghiệm 100% đối với các bộ môn Vật lí; Hóa học; Sinh học….. Các môn còn lại soạn theo hình thức tự luận. +) Ở bậc THPT ta chọn các câu hỏi trắc nghiệm với 4 phương án trả lời. Chú ý cách soạn sao cho các phương án đúng hoàn toàn, còn các phương án sai là sai hoàn toàn. Không nên có loại câu hỏi lựa chọn phát biểu đúng nhất hay chính xác nhất. Không được có các phương án trả lời làm khó học sinh. Khi soạn câu hỏi trắc nghiệm người giáo viên cần chú ý rằng các phương án nhiễu cũng phải chính xác về mặt khoa học, không được làm méo mó bộ môn khoa học mà mình giảng dạy. +) Cho học sinh tập dượt và làm quen với phương pháp này bằng việc cho kiểm tra ở nhóm, lớp , có thể đánh giá định tính trước khi đánh giá định lượng 1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới phương pháp giảng dạy Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay của Việt nam, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực trở thành vấn đề cốt lõi, quan trọng bậc nhất của sự nghiệp giáo dục và đào tạo , góp phần tạo ra động lực phát triển kinh tế giữ vững anh ninh xã hội. Trong đó, giáo dục và bồi dưỡng nhân tài lại có vai trò quan trọng đào tạo nguồn nhân lực. Tại Văn miếu - Quốc tử giám Hà nội có ghi: “ Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia, nguyên khí mạnh thì nước thịnh, nguyên khí yếu thì nước suy ”. Điều này phần nào đã nói lên quan điểm và đường lối giáo dục mũi nhọn ở Việt nam. Hưng Yên là một tỉnh mới tái lập nền kinh tế Hưng Yên đang trên đà phát triển mạnh với tốc độ tăng trưởng nhanh. Giáo dục Hưng Yên cũng bắt kịp bước chuyển ấy, đã và đang có nhiều khởi sắc. Từ một tỉnh đứng thứ 60 trên 61 Tỉnh thành trong cả nước (cuối năm 1997) Nay Hưng Yên vươn lên đứng ở nửa tốp đầu (thứ 25 / 61 tỉnh thành cả nước). Về đường lối và quan điểm giáo dục – nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 15 (tháng 4/ 2001) đã nêu rõ: “Phải tạo nền tảng cho công dân phát triển toàn diện nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa…. Coi trọng cả qui mô, chất lượng và hiệu quả ở mọi cấp học, ngành học” . Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 – Ban chấp hành Đảng bộ Tỉnh Hưng Yên kháo 15 về chương trình phát triển giáo dục – đào tạo giai đoạn 2001-2005 và định hướng đến 2011 đã nêu mục tiêu cụ thể về phát triển giáo dục trong đó tập trug vào chiến lược con người. Nghị quyết ghi rõ: “ Phải đưa giáo dục đào tạo trong đó có giáo dục đào tạo mũi nhọn ngang tầm với các địa phương xung quanh và trong phạm vi cả nước phấn đấu có nhiều học sinh giỏi của Tỉnh tham sự các kì thi Olympic Quốc tế” 2. Cơ sở thực tiễn của đổi mới phương pháp giảng dạy Trước hết ta hiểu đổi mới là thay thế cái cũ, cái truyền thống, các lạc hậu bằng cái mới tiên tiến hơn, hoàn thiện hơn và hiệu quả hơn. Thực tế hiện nay cho thấy, khi mà cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ kéo theo những thay đổi lớn hơn trong nền kinh tế - xã hội, khi mà thế giới bước vào thời đại toàn cầu hóa, tin học hóa và nền kinh tế dần chuyển sang nền kinh tế trí thức thì ngành giáo dục và đào tạo đứng truwóc những thách thức và vận hội mới. “Nhà trường phải đào tạo ra những con người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo và có năng lực giải quyết những vấn đề thực tế góp phần xây dựng đất nước giầu mạnh về kinh tế, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” Trước những năm 90, những đổi mới về mục tiêu chương trình, SGK bậc THPT ở Việt Nam đã được tiến hành theo định hướng của cải cách giáo dục. Trên thực tế, những đổi mới phương pháp giảng dạy. Song thực tế cho thấy việc đổi mới phương pháp giảng dạy diễn ra chậm chạp, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công cuộc cải cách một cách đáng kể. Bức tranh thực tế phổ biến của dạy học các môn học ở Việt nam hiện nay là. +) Phổ biến trong cách dạy hiện nay là phương pháp truyền thống, phương pháp thuyết trình, liệt kê kiến thức, thậm chí có nới có tình trạng trình thày đọc, trò ghi, thầy nói nhiều mà không kiểm soát công việc của người học trò. +) Giáo viên không quan tâm đến việc tạo động cơ học tập, gây hứng thú cho học sinh và không thực hiện các hình thức khen thưởng, động viên học sinh +) Học sinh học các bộ môn nói chung đều rơi vào tình trạng “ nhàm chán”, không chịu học, thậm chí nhiều em không quan tâm đến nội dung bài học, ít chịu trách nhiệm với bài học của mình. +) Dạy chay còn phổ biến, đó là do còn thiếu các trang thiết bị và đồ dùng thí nghiệm, do giáo viên còn ngại, không chịu soạn giáo án điện tử, không làm thí nghiệm minh họa cho bài giảng, học không đi đôi với hành. +) Học sinh tiếp thu bài một cách thụ động bởi các em quen nếp suy nghĩ là học tập là cái thầy trang bị cho mình, thi cử có làm được bài hay không là do người dạy, thành hay bại tùy thuộc vào những yếu tố ngoài sự kiểm soát của mình, như thầy giỏi đến mức nào, nguồn tư liệu, trí thông minh…..Có thể nói cách dạy và học ở bức tranh trên không những không phát huy được trí tuệ của học sinh mà còn tổn hại đến tư duy, trí lực của học sinh làm cho học sinh mất đi khả năng tự học, tự đọc, ất đi niềm hứng khởi khi học tập và nghiên cứu bộ môn và như vậy việc dạy và học sẽ trở thành gánh nặng cho thầy và trò. Vì vậy tiếp tục đổi mới và đổi mới phương pháp giảng dạy là vấn đề quan trọng nhất trong cải cách giáo dục hiện nay ở Việt nam- đòi hỏi các trường THPT các nhà quản lý giáo dục Việt nam phải tiếp tục quan tâm giải quyết. Trường THPT Chuyên Hưng Yên là một trường trung học nằm trong hệ thống giáo dục trung học của toàn quốc, trường dẫn đầu khối THPT trong toàn tỉnh, nhiệm vụ của nhà trường là phát hiện đào tạo và bồi dưỡng học sinh giỏi cấp tỉnh tham gia các kì thi Chọn học sinh Giỏi Quốc gia hằng năm. Vấn đề luôn được đặt ra cho nhà trường là làm thế nào để số lượng và chất lượng học sinh đạt giải Quốc gia hằng năm tăng lên và phấn đấu có học sinh nhà trường tham dự thi Olympic Quốc tế. Để đạt được điều này, vấn đề đổi mới và tiếp tục đổi mới phương pháp giảng dạy ở nhà trường là vấn đề quan trọng và cần thiết hơn bao giừo hết. Bởi có đổi mới phương pháp giảng dạy mới thu hút được các em học sinh giỏi thi vào trường, khi đã vào trường rồi các em mới say mê học tập, làm quen với nghiên cứu khoa học, tự đọc, tự nghiên cứu, làm chủ việc lĩnh hội và tiếp thu kiến thức và các em sẽ đạt kết quả cao trong các kì thi Quốc gia cũng như thi vào các trường Đại học và Cao đẳng hằng năm. Có thể khẳng định, đổi mới phương pháp giảng dạy là nhiệm vụ sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của nhà trường nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng học sinh giỏi quốc gia. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VIỆC ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY Ở TRƯỜNG THPT CHUYÊN HƯNG YÊN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NAY 2.1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của trường THPT Chuyên tỉnh Hưng Yên. 2.1.1. Sự ra đời và phát triển của nhà trường. Sau hơn 28 năm sát nhập với Hải Dương thành Hải Hưng, ngày 1 tháng 1 năm 1997 tỉnh Hưng Yên chính thức được tái lập trở lại theo Quyết định của Thủ tướng chính phủ được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua. Ngay từ ngày đầu tái lập,Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên đã bắt tay vào xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội và quốc phòng an ninh.Mặc dù còn nhiều khó khăn của một tỉnh mới tái lập song Tỉnh ủy,Ủy ban nhân dân và Hội đông nhân dân Tỉnh Hưng Yên đã quan tâm chú ý đến sự nghiệp giáo dục đào tạo trong đó có giáo dục –đào tạo mũi nhọn.Một trong những việc làm thể hiện sự quan tâm ấy là ra Quyết định thành lập trường Phổ thông Năng khiếu Tỉnh (nay là trường THPT Chuyên Tỉnh Hưng Yên).Và trường THPT Chuyên tỉnh Hưng Yên ra đời theo Quyết định số 495 QĐ/UB của Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên ký ngày 23 tháng 5 năm 1997 với nhiệm vụ : “phát hiện,khơi nguồn, đào tạo và bồi dưỡng những học sinh giỏi của tỉnh Hưng Yên tham dự các kỳ thi chọn sinh học giỏi Quốc gia, Quốc tế và thi vào các trường Đại học cao đẳng trong cả nước”. Ngày mới thành lập, trường chưa có địa điểm phải học nhờ mấy phòng học của trường THPT Thị xã Hưng Yên và mấy gian nhà cấp bốn xây vội trên một khuôn viên chật hẹp. Những ngày đầu với chúng tôi thật vô
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng