Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn giúp học sinh xác định nhanh và chính xác các thao tác lập luận trong văn b...

Tài liệu Skkn giúp học sinh xác định nhanh và chính xác các thao tác lập luận trong văn bản nghị luận

.PDF
42
1558
66

Mô tả:

1. Tên sáng kiến: GIÚP HỌC SINH XÁC ĐỊNH NHANH VÀ CHÍNH XÁC CÁC THAO TÁC LẬP LUẬN TRONG VĂN BẢN NGHỊ LUẬN 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giảng dạy phân môn Làm văn trong nhà trường THPT. 3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ tháng 8/ 2015 đến tháng 01/ 2016. 4. Tác giả: Họ và tên: NGUYỄN THỊ LỆ Năm sinh: 1986 Nơi thường trú: Yên Phong – Ý Yên – Nam Định. Trình độ chuyên môn: Cử nhân văn học. Chức vụ công tác: Giáo viên. Nơi làm việc: Trường THPT Mỹ Tho, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Điện thoại: 01686 136 664 Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100% 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Trường THPT Mỹ Tho, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Điện thoại: 0350 3825970 1 MỤC LỤC BÁO CÁO SÁNG KIẾN I. HOÀN CẢNH NẢY SINH SÁNG KIẾN……………………………………. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP………………………………………………………… 1. MÔ TẢ GIẢI PHÁP TRƯỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN………………. Trang 1 2 2 1.1. Khái niệm thao tác lập luận trong chương trình Ngữ văn chưa rõ ràng….. 1.2. Quan điểm giảng dạy của giáo viên chưa đổi mới…….....……………… 1.3. Học sinh chưa hứng thú với môn học …………………………………… 3 4 4 2. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI CÓ SÁNG KIẾN 2.1. Một số khái niệm trong văn nghị luận…………………………………….. 2.1.1. Khái niệm văn nghị luận …………………………………………………….. 2.1.2. Khái niệm lập luận trong văn nghị luận……………………………….. 2.2. Các thao tác lập luận trong văn nghị luận ………………………………. 5 5 5 6 2.3. Cách xác định các thao tác lập luận trong văn nghị luận………………. 2.3.1. Bước 1: Ghi nhớ mục đích lập luận của từng thao tác………………… 8 8 2.3.2. Bước 2: Xác định mục đích nghị luận của văn bản……………………. 2.3.3. Bước 3: Tìm hiểu đối tượng tiếp nhận…………………………………. 9 9 2.3.4. Bước 4: Xác định dấu hiệu nhận biết của từng thao tác……………….. 2.3.4.1. Dấu hiệu nhận biết thao tác lập luận giải thích………………………. 2.3.4.2. Dấu hiệu nhận biết thao tác lập luận phân tích……………………….. 11 11 13 2.3.4.3. Dấu hiệu nhận biết thao tác lập luận chứng minh…………………….. 2.3.4.4. Dấu hiệu nhận biết thao tác lập luận bình luận………………………… 2.3.4.5. Dấu hiệu nhận biết thao tác lập luận so sánh…………………………… 15 17 18 2.3.4.6. Dấu hiệu nhận biết thao tác lập luận bác bỏ……………………………. 2.3.5. Một số nhầm lẫn thường gặp của học sinh. Nguyên nhân và cách sửa chữa………………………………………………………………………………. 2.3.5.1. Nhầm giữa thao tác lập luận so sánh với phân tích và giải thích………………………………………………………………………………..……… 2.3.5.2. Nhầm giữa thao tác lập luận phân tích với giải thích………………… 2.3.5.3. Nhầm thao tác lập luận chứng minh với phân tích……………………. 2.4. Thực nghiệm sư phạm…………………………………………………….. 2.4.1. Mục đích thực nghiệm……………………………………………………….. 19 19 19 21 23 24 24 2.4.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm……………….…………….. 24 2.4.3. Bài tập thực nghiệm…………………………………………………………... 2.4.4. Bài kiểm tra thực nghiệm……………………………………….…………… 2.4.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm……………………………………………… III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI………………………………… 25 30 32 33 IV. CAM KẾT KHÔNG SAO CHÉP HOẶC VI PHẠM BẢN QUYỀN…… CÁC PHỤ LỤC…………………………………………………………………. 35 36 2 BÁO CÁO SÁNG KIẾN I. HOÀN CẢNH NẢY SINH SÁNG KIẾN Nền giáo dục Việt Nam đang trên đà đổi mới. Trọng tâm của vấn đề đổi mới giáo dục là đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh (HS). Đây là một hướng đi đúng đắn, nâng cao vai trò của giáo dục trong nhà trường. Là một môn học công cụ quan trọng, Ngữ văn có vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát triển năng lực cho HS. Bên cạnh đó, môn học này còn góp phần hình thành những phẩm chất tốt đẹp cho con người sau khi tham gia vào quá trình học tập. Vì vậy đổi mới môn Ngữ văn là vô cùng cần thiết. Để đáp ứng với yêu cầu dạy học môn Ngữ văn theo hướng hình thành và phát triển năng lực, cần chú ý đến việc dạy học môn Ngữ văn theo hướng tích hợp, tức là tổ chức phối hợp các phân môn Văn học, Tiếng Việt và Làm văn trong các bài học, giúp HS từng bước nâng cao năng lực sử dụng tiếng Việt trong việc tiếp nhận và tạo lập các loại văn bản. Trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục đã có những đổi mới rõ rệt trong cấu trúc đề thi môn Ngữ văn. Năm 2008, đề thi có thêm phần nghị luận xã hội. Từ năm học 2013 – 2014, đề thi Ngữ văn bao gồm hai phần chính: phần đọc – hiểu văn bản và phần làm văn. Với cấu trúc đề thi như thế, tránh cho HS việc học tủ, học vẹt, đồng thời đánh giá được năng lực của các em một cách khách quan, trung thực. Để làm tốt phần đọc – hiểu trong đề thi, đòi hỏi HS phải nắm chắc kiến thức bộ môn. Một trong những phân môn quan trọng trong chương trình Ngữ văn là phân môn Làm văn. HS đã được rèn luyện kiến thức làm văn từ những năm THCS. Những khái niệm như phương thức biểu đạt, thao tác lập luận, hay phương pháp lập luận, ... không phải là mới nhưng hình như HS không để ý tới. Vì vậy, rất nhiều HS tỏ ra hoang mang khi bắt gặp câu hỏi trong đề thi minh họa THPT Quốc gia (được Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố vào tháng 3/ 2015). Câu hỏi như sau: Trong đoạn (1), tác giả chủ yếu sử dụng thao tác lập luận nào? (1) Cái thú tự học cũng giống cái thú đi chơi bộ ấy. Tự học cũng là một cuộc du lịch, du lịch bằng trí óc, một cuộc du lịch say mê gấp trăm lần du lịch bằng chân, vì nó là du lịch trong không gian lẫn thời gian. Những sự hiểu biết của loài người là một thế giới mênh mông. Kể làm sao hết được những vật hữu hình và vô hình mà ta sẽ thấy trong cuộc du lịch bằng sách vở ? […] 3 (Trích Tự học - một nhu cầu thời đại - Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2003 HS thường xuyên hỏi tôi: cô chỉ cho chúng em cách thức làm thế nào phân biệt các thao tác lập luận? Căn cứ vào đâu để xác định thao tác lập luận chính trong một văn bản? Chúng em hay nhầm giữa giải thích và bình luận, chứng minh và phân tích, hay phân tích và giải thích, … Tôi nhận thấy không chỉ học sinh, mà cả giáo viên cũng lúng túng trong việc xác định chính xác các thao tác lập luận trong một văn bản. Câu hỏi làm thế nào để xác định nhanh và chính xác các thao tác lập luận trong văn bản nghị luận thường trực trong tôi kể từ đó. Để giúp HS giải quyết những thắc mắc, nhầm lẫn khi ôn tập kiến thức về các thao tác lập luận trong văn bản nghị luận, tôi quyết định bỏ thời gian, công sức và trí tuệ của mình để nghiên cứu vấn đề này. Hơn nữa, việc hiểu và vận dụng thành thạo các thao tác lập luận còn giúp các em tự tin hơn trong cuộc sống, mạnh dạn bày tỏ quan điểm của mình. Đây là phẩm chất rất cần thiết của con người hiện đại. Vì những lẽ trên thôi thúc tôi nghiên cứu để tạo ra sáng kiến này, với mong muốn giúp HS xác định nhanh và chính xác nhất các thao tác lập luận trong văn bản nghị luận. Tôi tin rằng với những công sức và trí tuệ tôi đã bỏ ra để nghiên cứu, tìm tòi, sáng kiến này sẽ trở thành một tài liệu hữu dụng cho đồng nghiệp và học trò trong quá trình ôn tập, kiểm tra môn học Ngữ văn. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP. 1. MÔ TẢ GIẢI PHÁP TRƯỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN. Như trên tôi đã nói, HS đã được học và rèn luyện về kiến thức phân môn Làm văn từ những năm THCS. Có lẽ vì trước đây, đề thi không bao giờ hỏi riêng về kiến thức này, nên HS không để ý, hoặc chỉ học chiếu lệ. Nhiều giáo viên dạy học Ngữ văn cũng chỉ chú trọng đến làm văn nghị luận xã hội và nghị luận văn học. Vì vậy, mặc dù những thao tác như phân tích, chứng minh, so sánh, bình luận, giải thích, bác bỏ học sinh thường xuyên vận dụng để làm rõ một vấn đề nào đó, không chỉ trong văn chương mà cả trong cuộc sống, nhưng các em vẫn không hiểu bản chất. Vấn đề về các thao tác lập luận trong văn nghị luận chỉ thực sự được quan tâm và nghiên cứu từ khi Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực. Cho nên khi bắt tay vào nghiên cứu để tạo ra sáng kiến này, tôi gặp không ít những khó khăn. 4 1.1. Khái niệm thao tác lập luận trong chương trình Ngữ văn chưa rõ ràng. Các thao tác lập luận trong văn nghị luận là kiến thức trọng tâm của phần Làm văn chương trình Ngữ văn lớp 11 hiện hành. Khi bắt tay vào nghiên cứu vấn đề này, tôi nhận thấy quan điểm về các thao tác lập luận của các tác giả sách giáo khoa THCS và THPT, ban cơ bản và nâng cao chưa có sự thống nhất. Theo chuẩn kiến thức kĩ năng(1) môn Ngữ văn lớp 11 cơ bản và nâng cao, các thao tác lập luận cơ bản là: giải thích, chứng minh, phân tích, so sánh, bình luận, bác bỏ. Trong đó, lớp 11, học sinh được học bốn thao tác lập luận là phân tích, so sánh, bình luận, bác bỏ. Nhưng ở THCS sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập 2, trang 67 gọi hai thao tác lập luận giải thích và chứng minh là phương pháp lập luận. Cụ thể phần ghi nhớ có ghi “Bài văn nghị luận nào cũng có đối tượng (hay đề tài) nghị luận, các luận điểm, luận cứ và lập luận. Các phương pháp lập luận chính thường gặp là: chứng minh, giải thích. Vậy giải thích và chứng minh là phương pháp lập luận hay thao tác lập luận? Trong Ngữ văn 10, tập 2, trang 134 phần ghi nhớ viết: “Phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, so sánh là những thao tác thường gặp trong hoạt động nghị luận”. Sách giáo viên Ngữ văn 12, tập 1, trang 176 nhận xét “Học sinh đã được học và luyện tập tới 6 thao tác lập luận: phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận, giải thích, chứng minh.” Ngữ văn 10 tập 2, nâng cao, trang 147 lại cho rằng chứng minh, giải thích, diễn dịch, quy nạp là các thao tác nghị luận. Thực tế trên cho thấy, quan điểm về các thao tác lập luận và phương pháp lập luận chưa rõ ràng. Tuy nhiên, trong các đề thi THPT Quốc gia thường xuyên xuất hiện câu hỏi để kiểm tra kiến thức này. Vì vậy, giáo viên cần có sự nhất quán trong giảng dạy, tránh để tâm lí hoang mang cho học sinh. Trên cơ sở nghiên cứu sách giáo khoa và các tài liệu liên quan, dựa theo chuẩn kiến thức kĩ năng chương trình giáo dục phổ thông cấp THPT môn Ngữ văn, sáng kiến của tôi giúp HS phân biệt 6 thao tác lập luận cơ bản: chứng minh, giải thích, phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận. Trong 6 thao tác lập luận trên, học sinh thường xuyên nhầm lẫn giữa các thao tác, nhất là thao tác giải thích, bình luận, phân tích. Có học sinh cho rằng: bình luận chẳng qua là sự kết hợp của hai kiểu lập luận giải thích và chứng minh. Sáng kiến của tôi giúp các em hiểu rõ vấn đề, tránh nhầm lẫn trong khi làm bài. ( 1) Chương trình giáo dục phổ thông cấp THPT môn Ngữ văn, NXB Giáo dục, 2006, tr. 35 và 76 5 1.2. Quan điểm giảng dạy của giáo viên chưa đổi mới. Một thực tế không thể phủ nhận là giáo viên ở ta quen với phương pháp dạy học cũ, chỉ dựa vào giảng, bình, diễn giảng. Dạy văn hầu như chỉ có một đường là “giảng”, “bình”, “luận”, “phân tích”. Dạy Tiếng Việt và Làm văn thì nặng về dạy lí thuyết, ít thực hành. Cho nên những kiến thức làm văn nhất là thao tác lập luận trong văn nghị luận, giáo viên còn mơ hồ, trong khi không có tài liệu nào ghi chép đầy đủ về những kiến thức này, cũng không có những buổi tập huấn cho giáo viên để hàm thụ thêm kiến thức. Do đó, giáo viên phải tự mày mò nghiên cứu và rút kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy và học hỏi từ đồng nghiệp. Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy nhiều giáo viên cho rằng: một thao tác lập luận được coi là chính trong văn bản khi thao tác đó được sử dụng với tần số nhiều hơn, nghĩa là đoạn văn sử dụng thao tác đó dài hơn. Đó là quan điểm sai lầm. Tôi hoàn toàn nhất trí với các tác giả viết Sách giáo viên Ngữ văn 11, tập 1, Nxb Giáo dục, ở trang 130 nhận xét: “Vị trí hay vai trò của từng thao tác trong sự kết hợp được quyết định bởi mục đích nghị luận”, “Chỉ khi đã hiểu được mục đích nghị luận, xuất phát từ mục đích nghị luận, người nghe (người đọc) mới có thể nhận ra chính xác thao tác lập luậ n nào là chủ yếu, thao tác lập luận nào là bổ trợ …”. Sáng kiến của tôi sẽ từng bước lí giải những quan điểm sai lầm đó. 1.3. Học sinh chưa hứng thú với môn học Ngữ văn. HS hiện nay tỏ rõ thái độ coi thường môn học Ngữ văn, không hứng thú với môn học vì nhiều lẽ. Xét về xã hội, thời đại chúng ta đang sống là thời đại khoa học công nghệ, dễ hiểu là đại đa số HS chỉ muốn học các ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật, kinh tế…ít có HS hứng thú học văn, bởi phần đông HS nghĩ rằng năng lực văn là năng lực tự nhiên của con người xã hội, không học vẫn biết đọc, biết nói; học văn không thiết thực. Văn có kém một chút, ra đời vẫn không sao, vẫn nói và viết được, còn không học ngoại ngữ, không học khoa học, kĩ thuật thì coi như mù kiến thức, chịu lép vế. Có thể đó là lí do làm cho đa số HS không cố gắng học ngữ văn. Rõ ràng tâm lí cá nhân, môi trường học tập, nếp sống, quan niệm sống của đông đảo dân cư đã có nhiều thay đổi. Tuy nhiên ở đây còn có vấn đề thuộc phương pháp dạy học ngữ văn, cách thức kiểm tra đánh giá học sinh. Nền giáo dục của chúng ta đang có những bước chuyển mình, đổi mới hướng vào phát triển năng lực phẩm chất của học sinh. Đó là hướng đi đúng đắn, 6 nhưng không phải ngày một ngày hai là có thể thay đổi được. HS vẫn còn học thụ động, thiếu sáng tạo, không hứng thú, say mê. Vì vậy chúng tôi rất vất vả trong việc giảng dạy bởi những quan điểm thiên lệch không chỉ của HS mà của cả những bậc làm cha làm mẹ, và đâu đó vẫn tồn tại quan điểm coi trọng, xem nhẹ môn học trong một số giáo viên. Vượt qua tất cả những khó khăn trên tôi nỗ lực tạo ra sáng kiến này, trước hết là để củng cố kiến thức cho bản thân, sau đó giúp HS nhận diện được các thao tác lập luận trong một văn bản nghị luận một cách dễ dàng, nâng cao hiệu quả ôn tập và kiểm tra. 2. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI CÓ SÁNG KIẾN. Muốn làm tốt bài tập xác định thao tác lập luận trong văn bản nghị luận, trước hết HS cần hiểu rõ bản chất của vấn đề lập luận trong văn nghị luận. Cụ thể, HS phải nắm chắc một số các khái niệm cơ bản về văn nghị luận. 2.1. Một số khái niệm trong văn nghị luận. 2.1.1. Khái niệm văn nghị luận. Văn nghị luận là một thể loại văn học đặc biệt, HS được làm quen từ THCS. Dựa vào mục đích giao tiếp, phương thức biểu đạt của từng văn bản, mà sách giáo khoa chương trình Ngữ văn THCS hiện hành phân thành 6 kiểu loại văn bản: tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận và điều hành. Trong đó, đặc trưng của văn nghị luận là dùng lí lẽ, phán đoán, chứng cứ để bàn luận một vấn đề nào đó (chính trị, xã hội, văn học nghệ thuật, đạo đức…). Xét theo nội dung luận bàn, văn nghị luận phân làm hai thể: văn chính luận (bàn về các vấn đề chính trị, xã hội, triết học, đạo đức), văn phê bình văn học (bàn về các vấn đề văn học nghệ thuật). Mục đích của văn nghị luận là: nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó. Muốn vậy, người viết phải biết trình bày ý kiến của mình và đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục, nghĩa là phải biết lập luận. Vậy thế nào là lập luận? 2.1.2. Khái niệm lập luận trong văn nghị luận: “Lập luận là đưa ra luận cứ (lí lẽ và bằng chứng) nhằm dẫn dắt người nghe, người đọc đến một kết luận hay chấp nhận một kết luận mà kết luận đó là tư tưởng (hay quan điểm, ý kiến) của người viết (2)” Muốn việc nghị luận đạt chất lượng cao hơn, có hiệu quả thuyết phục lớn hơn, khi tiến hành quá trình lập luận, đòi hỏi người viết phải tuân thủ những thao tác, tức là những ( 2) Ngữ văn 10, tập 2, NXB Giáo dục, 2006, trang 111 7 việc làm đã được đúc kết thành quy trình chặt chẽ. Chứng minh, phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận, giải thích là những thao tác lập luận cơ bản. 2.2. Các thao tác lập luận trong văn nghị luận. Như trên đã nói, chứng minh, phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận, giải thích là những thao tác lập luận cơ bản trong một bài văn nghị luận. Các thao tác này phân biệt với nhau là bởi chúng hướng tới các mục đích khác nhau. Sau đây là bảng hệ thống, giúp HS phân biệt 6 thao tác lập luận, theo mục đích và cách thức lập luận. Đây là những kiến thức rất cơ bản mà HS đã được học trong chương trình Ngữ văn các cấp. Thao tác Mục đích lập luận Cách thức lập luận lập luận 1. thích Giải Là làm cho người đọc hiểu Thường giải thích bằng các cách: nêu định rõ các tư tưởng, đạo lí, nghĩa, kể ra các biểu hiện, so sánh, đối chiếu phẩm chất, quan hệ, … cần với các hiện tượng khác, chỉ ra các mặt lợi được giải thích nhằm nâng hại, nguyên nhân, hậu quả, cách đề phòng cao nhận thức, trí tuệ, bồi hoặc noi theo, … của hiện tượng hoặc vấn đề dưỡng tư tưởng, tình cảm được giải thích cho con người. 2. Chứng Dùng những lí lẽ, bằng Muốn chứng minh có 2 cách lập luận: nêu minh chứng chân thực đã được dẫn chứng xác thực, nêu lí lẽ thừa nhận để chứng tỏ luận điểm mới (cần được chứng minh) là đáng tin cậy 3. tích Phân Làm rõ đặc điểm về nội - Cần chia tách đối tượng thành các yếu tố dung và hình thức, cấu trúc theo những tiêu chí, quan hệ nhất định. và các mối quan hệ bên - Phân tích căn cứ vào các mối quan hệ cụ trong, bên ngoài của đối thể: quan hệ nội bộ của đối tượng; quan hệ tượng (sự vật, hiện tượng) nguyên nhân – kết quả, kết quả - nguyên nhân, quan hệ giữa đối tượng với các đối tượng liên quan; phân tích theo sự đánh giá chủ quan của người lập luận. - Phân tích cần đi sâu vào từng yếu tố, từng 8 khía cạnh, song cần đặc biệt lưu ý đến quan hệ giữa chúng với nhau trong một chỉnh thể toàn vẹn, thống nhất. 4. So sánh Làm rõ đối tượng đang Khi so sánh phải đặt đối tượng vào cùng bình nghiên cứu trong tương diện, đánh giá trên cùng một tiêu chí mới thấy quan với đối tượng khác. được sự giống và khác nhau giữa chúng, đồng thời phải nêu rõ ý kiến, quan điểm của người nói (người viết) 5. Bác bỏ Là dùng lí lẽ và chứng cứ Có thể bác bỏ một luận điểm, luận cứ hoặc để gạt bỏ những quan điểm, cách lập luận bằng cách nêu tác hại, chỉ ra ý kiến sai lệch hoặc thiếu nguyên nhân hoặc phân tích khía cạnh sai chính xác, … từ đó nêu ý lệch, thiếu chính xác,…của luận điểm, luận kiến đúng của mình để cứ, lập luận ấy. thuyết phục người nghe Khi bác bỏ cần tỏ thái độ khách quan đúng (người đọc). 6. luận mực. Bình Là đánh giá, bàn luận. - Trình bày rõ ràng trung thực, nhưng ngắn Nhằm đề xuất và thuyết gọn hiện tượng (vấn đề) được bình luận phục người đọc (người - Đề xuất và chứng tỏ được ý kiến nhận định, nghe) tán đồng với nhận đánh giá của mình là xác đáng. xét, đánh giá, bàn luận của - Có những lời bàn sâu rộng về chủ đề bình mình về một hiện tượng luận. (vấn đề) trong đời sống hoặc trong văn học. Bảng hệ thống cung cấp cho HS những lí thuyết cơ bản, giúp HS bước đầu hiểu về các thao tác lập luận trong văn nghị luận. Tuy nhiên nếu chỉ nắm lí thuyết mà không thường xuyên luyện tập, HS khó có thể xác định được chính xác các thao tác được sử dụng trong mỗi văn bản. Bởi vì trong một bài văn nghị luận luôn có sự kết hợp các thao tác lập luận. Vai trò, vị trí của từng thao tác lập luận được quyết định bởi mục đích nghị luận. Vậy làm thế nào HS có thể phân định một cách rạch ròi các thao tác lập luận, và vai trò của từng thao tác trong văn bản nghị luận? 9 Qua quá trình nghiên cứu và giảng dạy, tôi tự rút ra những bước làm cụ thể, mà theo tôi là rất có lợi cho HS trong quá trình làm bài tập dạng này. Trước một văn bản nghị luận, HS hãy tư duy theo các bước tôi định sẵn sau đây, chắc chắn các em sẽ có được câu trả lời nhanh và chính xác nhất. 2.3. Cách xác định nhanh và chính xác các thao tác lập luận trong văn bản nghị luận. 2.3.1. Bước 1: Ghi nhớ mục đích lập luận của từng thao tác. Đây là yêu cầu cần thiết, bắt buộc HS phải nắm được trước khi xác định thao tác lập luận trong văn bản. Các thao tác lập luận phân biệt với nhau là bởi chúng hướng tới các mục đích khác nhau. Mỗi thao tác có một mục đích riêng. Trong bảng hệ thống tôi đã trình bày mục đích lập luận của từng thao tác. Để HS dễ nhớ nhất, tôi nhấn mạnh vào các từ ngữ đặc trưng, và trình bày theo bảng sau: Thao tác lập luận Mục đích của từng thao tác. Giải thích Giảng giải, cắt nghĩa cho người ta hiểu Chứng minh Để cho người ta tin So sánh Giúp người ta nhận rõ giá trị của sự vật (hiện tượng, tư tưởng, …) này bằng cách chỉ ra sự giống nhau và khác nhau giữa nó với một sự vật (hiện tượng, tư tưởng, …) khác. Phân tích Đi sâu vào từng yếu tố, từng khía cạnh giúp người ta hiểu một cách cặn kẽ, thấu đáo. Bác bỏ Mục đích phủ nhận, làm sáng tỏ sự thật, sáng tỏ chân lí, bảo vệ cái đúng. Bình luận Nhằm đề xuất và thuyết phục người ta nghe theo sự đánh giá, bàn bạc của người nói (người viết) về một hiện tượng hoặc vấn đề nào đó. 10 2.3.2. Bước 2: Xác định mục đích nghị luận của văn bản. Sau khi đã nắm chắc mục đích của từng thao tác, HS sẽ tiến hành xác định mục đích nghị luận của văn bản. *Mục đích của bước 2: giúp HS xác định được thao tác lập luận chính trong một văn bản. Nghĩa là văn bản nghị luận có thể vận dụng nhiều thao tác lập luận khác nhau để làm rõ vấn đề, song chỉ có một thao tác chính được xác định dựa trên mục đích nghị luận cơ bản của văn bản đó. Vì mỗi văn bản nghị luận bao giờ cũng thực hiện một mục đích nghị luận nhất định. Ví dụ: Cho văn bản nghị luận sau: “Chớ tự kiêu tự đại. Tự kiêu tự đại là khờ dại. Vì mình hay, còn nhiều người hay hơn mình. Mình giỏi còn nhiều người giỏi hơn mình. Tự kiêu tự đại tức là thoái bộ. Sông to bể rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng của nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ. Người mà tự kiêu tự mãn thì cũng như cái chén, cái đĩa cạn.” (Hồ Chí Minh, “Cần kiệm liêm chính”) Văn bản trên sử dụng hai thao tác lập luận là phân tích và so sánh, bởi: - Đối tượng phân tích là thái độ tự kiêu tự đại của con người. Hồ Chí Minh đã phân tích bằng cách chia tách ra hai lí do khiến người ta trở nên tự kiêu tự đại: tự kiêu tự đại là khờ dại và tự kiêu tự đại tức là thoái bộ. - So sánh người tự kiêu tự đại cũng như cái chén nhỏ, cái đĩa cạn hay sông to bể rộng. Tuy nhiên, mục đích nghị luận của văn bản trên: là muốn cho người đọc hiểu một cách cặn kẽ về thái độ “tự kiêu tự đại” của con người, đó là một thói xấu, đáng phê phán, không nên có. Do đó thao tác lập luận chính là phân tích, không phải so sánh. 2.3.3. Bước 3: Tìm hiểu đối tượng tiếp nhận. Thực chất của bước làm này là chúng ta phải xác định được văn bản nghị luận đó đang bàn bạc với ai? Họ là những người như thế nào (xét về thái độ, trình độ hiểu biết đối với vấn đề nghị luận)? Họ đang mong chờ gì ở cuộc bàn bạc này? Dựa vào đối tượng tham gia bàn luận, chúng ta có thể phân loại được các nhóm thao tác sau: 11 Thao tác lập luận Nhóm 1: Đặc điểm đối tượng tiếp nhận. Giải Viết cho người chưa có hiểu biết gì về vấn đề nghị luận. Người thích viết giúp họ đi từ chỗ chưa biết đến biết, từ chỗ chưa hiểu đến hiểu. (Nghĩa là mọi đối tượng đều có thể tham gia bàn luận) Nhóm 2 Bình Viết cho người đã hiểu rất kĩ, rất quan tâm về vấn đề bàn luận. luận Điều họ mong mỏi ở người viết là có thêm ý kiến nào mới mẻ về vấn đề đó không. Nhóm 3: Phân tích Viết cho người đã hiểu phần nào về vấn đề, có quan điểm riêng Bác bỏ nhưng chưa hiểu kĩ, chưa hiểu sâu, chưa có quan điểm chính xác So sánh về vấn đề đó. - Phân tích: Người tiếp nhận khao khát được hiểu kĩ và sâu về vấn đề. - So sánh: họ mong muốn thấy rõ được giá trị của sự vật (hiện tượng, …) trong mối tương quan với sự vật (hiện tượng, …) khác. - Bác bỏ: Người tiếp nhận chưa có quan điểm rõ ràng, thậm chí sai lệch, họ mong muốn hiểu rõ các mặt sai – trái, hay – dở của một vấn đề để có quan điểm đúng đắn. Nhóm 4: Chứng Văn bản hướng tới những người chưa rõ, chưa tin. Yêu cầu minh người viết phải có nhiều dẫn chứng và lí lẽ xác thực. *Mục đích của bước 3: Bước làm này, giúp HS phân loại được các nhóm thao tác, hạn chế sự nhầm lẫn, giảm bớt những khó khăn trong quá trình tìm ra thao tác lập luận chính của văn bản. Quá trình tìm hiểu đối tượng tiếp nhận của văn bản, giúp HS phân biệt rõ hai thao tác lập luận là giải thích và bình luận. Ví dụ 1: “Ứng xử là thái độ, hành vi, lời nói thích hợp trong quan hệ giao tiếp giữa người với người, giữa người với thiên nhiên. Thuật ngữ văn hóa đặt trước ứng xử có nghĩa là tô đậm chiều cao phẩm chất, chiều rộng quan hệ của người ứng xử. Có con người là có cách ứng xử giữa họ với nhau, giữa họ với môi trường sống. Nhưng văn hóa ứng xử được hình thành từ khi văn minh phát triển ở một cấp độ nào đó nhằm diễn đạt cách ứng xử con người đối với thiên nhiên, đối với xã hội và đối với chính mình…” 12 (Trích Văn hóa ứng xử, Nói thêm những điều cần nói, Hồ Sĩ Vịnh, Tạp chí Văn học nghệ thuật, số 332, tháng 2/2012). Vấn đề nghị luận trong văn bản trên là văn hóa ứng xử. Một người không biết gì về khái niệm này, khi đọc văn bản cũng hiểu được thế nào là văn hóa ứng xử. Do đó thao tác lập luận của văn bản là giải thích. Ví dụ 2: “Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị. Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Bất cứ người An Nam nào vứt bỏ tiếng nói của mình, thì cũng đương nhiên khước từ niềm hi vọng giải phóng giống nòi, (…) Vì thế đối với người An Nam chúng ta, chối từ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa v ới từ chối sự tự do của mình (…)” (Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức – Nguyễn An Ninh) Vấn đề nghị luận của văn bản trên là bàn về vai trò, ý nghĩa của tiếng nói đối với nền độc lập của một quốc gia dân tộc. Vậy nên, người lắng nghe tác giả bàn luận cũng phải là người hiểu rất rõ về vấn đề này, nếu không họ sẽ chẳng hiểu gì. Do đó, thao tác lập luận chính ở đây không phải là giải thích. Tác giả lại là người hiểu rất sâu sắc vấn đề, còn đưa ra những ý kiến riêng nhằm tranh luận và thuyết phục người đọc. Vậy thao tác chính của văn bản trên là bình luận. 2.3.4. Bước 4: Xác định dấu hiệu nhận biết của từng thao tác. Đây là bước làm quan trọng nhất giúp HS nhận diện từng thao tác lập luận. Thực tế cho thấy, HS hay nhầm lẫn các thao tác, đặc biệt là thao tác giải thích, bình luận, phân tích và chứng minh. Vì vậy các em cần nhận ra những dấu hiệu riêng để phân biệt các thao tác này. Sau đây tôi sẽ chỉ ra những dấu hiệu nhận biết cơ bản của từng thao tác. Sau đó phân tích nguyên nhân của sự nhầm lẫn và cách khắc phục cho HS. 2.3.4.1. Dấu hiệu nhận biết thao tác lập luận giải thích. Trong một bài văn nghị luận, để giải thích một vấn đề, người ta thường vận dụng các phương pháp sau: - Phương pháp nêu định nghĩa (thường xuất hiện các kiểu câu có quan hệ từ “là”) - Kể ra các biểu hiện của vấn đề. 13 - So sánh, đối chiếu với các hiện tượng khác. - Chỉ ra các mặt lợi hại, nguyên nhân, hậu quả, cách đề phòng hoặc noi theo, … của hiện tượng hoặc vấn đề được giải thích. *Để dễ nhận biết, học sinh có thể hình dung, văn bản sử dụng thao tác lập luận giải thích thường trả lời cho các câu hỏi sau: Là gì? Thế nào? Tại sao?(Vì sao) Ví dụ 1: “Văn hóa – đó có phải là sự phát triển nội tại bên trong một con người hay không? Tất nhiên rồi. Đó có phải là cách ứng xử của anh ta với người khác không? Nhất đị nh là phải. Đó có phải là khả năng hiểu người khác không? Tôi cho là thế. Đó có phải là khả năng làm cho người khác hiểu mình không? Tôi cho là như vậy. Văn hóa nghĩa là tất cả những cái đó. Một người không thể hiểu được quan điểm của người khác tức là tro ng chừng mực nào đó anh ta có hạn chế về trí tuệ và văn hóa” (Gi. Nê-ru) (3) Văn bản trên chính là câu trả lời cho câu hỏi: Văn hóa là gì? Tác giả giải thích bằng cách nêu định nghĩa về văn hóa. Cách nêu định nghĩa cũng rất độc đáo, bằng việc đặt ra các câu hỏi rồi tự trả lời, vì thế người đọc rất dễ hiểu. Ví dụ 2: “Hằng ngày chúng ta thường có dịp tiếp xúc với đời sống bên ngoài, trước mắt chúng ta, loài người còn đầy rẫy những cảnh khổ. Từ một ông lão già nua răng long tóc bạc, lẽ ra phải được sống trong sự chăm sóc đùm bọc của con cháu, thế mà ông lão ấy phải sống kiếp đời hành khất sống bằng của bố thí của kẻ qua đường, đến một đứa trẻ thơ, quá bé bỏng mà lại sống bằng cách đi nhặt từng mẩu bánh của người khác ăn dở, thay vì được cha mẹ nuôi nấng, dạy dỗ... Những hình ảnh ấy và thảm trạng ấy khiến cho mọi người xót thương, và tìm cách giúp đỡ. Đó chính là lòng nhân đạo.” (Theo Lâm Ngữ Đường, Tinh hoa xử thế) Vấn đề cần giải thích ở đây là lòng nhân đạo. Văn bản trên giải thích bằng cách chỉ ra các biểu hiện của lòng nhân đạo. Đó là sự xót thương và tìm cách giúp đỡ những con người khốn khổ trong cuộc sống. Lòng nhân đạo đã được định nghĩa một cách cụ thể qua những biểu hiện đó. ( 3) Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục, 2012, trang 21. 14 Ví dụ 3: “... Vậy khiêm tốn là gì? Khiêm tốn là tính nhã nhặn, biết sống một cách nhún nhường, luôn luôn hướng về phía tiến bộ, tự khép mình vào những khuôn thước của cuộc đời, bao giờ cũng không ngừng học hỏi. Hoài bão lớn nhất của con người là tiến mãi không ngừng, nhưng không nhằm mục đích tự khoe khoang, tự đề cao cá nhân mình trước người khác. Tại sao con người lại phải khiêm tốn như thế? Đó là vì cuộc đời là một cuộc đấu tranh bất tận, mà tài nghệ của mỗi cá nhân tuy là quan trọng, nhưng thật ra chỉ là những giọt nước bé nhỏ giữa đại dương bao la. Sự hiểu biết của mỗi cá nhân không thể đem so sánh với mọi người cùng chung sống với mình. Vì thế, dù tài năng đến đâu cũng luôn luôn phải học thêm, học mãi mãi. (Theo Lâm Ngữ Đường, Tinh hoa xử thế) Văn bản vừa định nghĩa thế nào là khiêm tốn, vừa chỉ ra nguyên nhân vì sao con người phải khiêm tốn. Đó cũng là một phương pháp giải thích trong văn nghị luận. Ví dụ 4: “Người dốt nát không phải là người không được dạy dỗ, mà họ là người không hiểu biết về chính bản thân mình. Còn người được dạy dỗ là những người xuẩn ngốc khi họ luôn phải dựa vào sách vở, dựa vào kiến thức và dựa vào những người đã truyền đạt kiến thức cho mình. Những hiểu biết chỉ xuất hiện thực sự qua sự tự biết mình. Sự tự biết mình là một ý thức về toàn bộ quá trình diễn biến tâm lí của chính bản thân mình. Do đó giáo dục chính là sự am hiểu về chính bản thân mình, bởi vì trong mỗi chúng ta luôn tụ hợp toàn bộ quá trình tồn tại”. (Lược dẫn theo J. Krishnamurti, Bạn làm gì với đời mình?)(4) Văn bản trên đối chiếu hai đối tượng trái ngược trong cuộc sống là: người dốt nát và người được dạy dỗ. Từ việc đánh giá về hai đối tượng này, tác giả cắt nghĩa thế nào là giáo dục: “Do đó giáo dục chính là sự am hiểu về chính bản thân mình, bởi vì trong mỗi chúng ta luôn tụ hợp toàn bộ quá trình tồn tại”. Như vậy, đoạn văn đã sử dụng thao tác lập luận giải thích bằng cách đối chiếu hai đối tượng. 2.3.4.2. Dấu hiệu nhận biết thao tác lập luận phân tích. Văn bản nghị luận sử dụng thao tác lập luận phân tích thường có các biểu hiện cơ bản sau: (4) Thiết kế bài giảng Ngữ văn 11 nâng cao, tập 2, NXB Hà Nội, trang 298. 15 Thứ nhất: Chia nhỏ đối tượng phân tích (ý kiến, quan niệm) ra từng yếu tố theo các tiêu chí, quan hệ nhất định để tìm hiểu sâu hơn. Việc phân tích này dựa trên các mối quan hệ: + Phân tích căn cứ vào quan hệ nội bộ của đối tượng. + Phân tích theo các mối quan hệ nguyên nhân – kết quả, quan hệ kết quả - nguyên nhân + Phân tích theo quan hệ giữa đối tượng với các đối tượng liên quan. + Phân tích theo sự đánh giá chủ quan của người lập luận. Thứ hai: Phân tích luôn kết hợp chặt chẽ với tổng hợp. Để nhận diện được thao tác lập luận phân tích, HS lần lượt xác định các vấn đề sau: 1- Xác định được đối tượng phân tích là gì?(Đối tượng thường được nêu ở những câu văn mở đầu đoạn, có khi được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong đoạn) 2- Đối tượng được phân tích theo các mối quan hệ nào? 3- Xác định nội dung khái quát tổng hợp vấn đề. Ví dụ: “Từ giữa thế kỉ XX, dân số thế giới tăng với nhịp độ chưa từng thấy. Năm 1950, dân số thế giới là 2.5 tỉ người và đến năm 1980, sau 30 năm đã lên tới 4,4, tỉ người, năm 1987 là 5 tỉ. Nếu cứ theo tốc độ gia tăng của những nă m 80 của thế kỉ này (XX) thì đến giữa thế kỉ XXI (năm 2050), dân số thế giới sẽ đạt con số gần 9 tỉ người. Dân số ngày càng tăng đã ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống của mỗi cá nhân, mỗi dân tộc cũng như toàn thể cộng đồng. Những ảnh hưởng đó là: không có đủ lương thực, thực phẩm cung cấp cho bữa ăn hàng ngày, từ đó dẫn đến cảnh đói nghèo, tình trạng thiếu dinh dưỡng dẫn đến sự suy thoái sức khỏe, giống nòi không những không phát triển mà còn dễ dàng bị thoái hóa. Dân số tăng trong khi việc làm, cơ sở sản x uất có hạn dẫn đến thiếu việc làm, thất nghiệp ngày càng tăng, dân số tăng càng nhanh thì chất lượng cuộc sống của cộng đồng, của gia đình và cá nhân sẽ giảm sút .” (Sách giáo khoa Ngữ văn 11 tập 1, Nxb Giáo dục, 2007, tr.27) - Đối tượng phân tích trong văn bản trên là sự bùng nổ của dân số thế giới, được nêu ở câu văn mở đầu đoạn, và cũng được nhắc lại nhiều lần trong đoạn. - Cách thức phân tích: + Phân tích theo quan hệ nguyên nhân – kết quả: dân số tăng → ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống của con người. 16 + Phân tích theo quan hệ nội bộ của đối tượng: các ảnh hưởng xấu của việc gia tăng dân số đến con người. - Phân tích kết hợp chặt chẽ với tổng hợp: Dân số tăng → ảnh hưởng đến nhiều mặt cuộc sống của con người → dân số tăng càng nhanh thì chất lượng cuộc sống của cộng đồng, của gia đình và cá nhân sẽ giảm sút. 2.3.4.3. Dấu hiệu nhận biết thao tác lập luận chứng minh. Có 2 dấu hiệu cơ bản sau để xác định văn bản sử dụng thao tác lập luận chứng minh: Thứ nhất: văn bản sử dụng lí lẽ và dẫn chứng thực tế. Thứ hai: văn bản sử dụng lí lẽ và phân tích lí lẽ. Để nhận diện thao tác này, HS phải: 1- Xác định những câu văn mang luận điểm (thường ở những câu văn mở đầu) 2- Chỉ ra lí lẽ và dẫn chứng được sử dụng để làm rõ đối tượng. Ví dụ 1: “Đã bao lần bạn vấp ngã mà không hề nhớ. Lần đầu tiên chập chững bước đi, bạn đã bị ngã. Lần đầu tiên tập bơi, bạn uống nước và suýt chết đuối phải không? Lần đầu tiên chơi bóng bàn, bạn có đánh trúng bóng không? Không sao đâu vì ... Oan Đi-xnây từng bị toà báo sa thải vì thiếu ý tưởng. Ông cũng nếm mùi phá sản nhiều lần trước khi sáng tạo nên Đi-xnây-len. Lúc còn học phổ thông, Lu-i Pa-xtơ chỉ là một học sinh trung bình. Về môn Hoá, ông đứng hạng 15 trong số 22 học sinh của lớp. Lép Tôn-xtôi, tác giả của bộ tiểu thuyết nổi tiếng Chiến tranh và hoà bình, bị đình chỉ học đại học vì "vừa không có năng lực, vừa thiếu ý chí học tập". Hen-ri Pho thất bại và cháy túi tới năm lần trước khi thành công. Ca sĩ ô-pê-ra nổi tiếng En-ri-cô Ca-ru-xô bị thầy giáo cho là thiếu chất giọng và không thể nào hát được. Vậy xin bạn chớ lo sợ thất bại. Điều đáng sợ hơn là bạn đã bỏ qua nhiều cơ hội chỉ vì không cố gắng hết mình.” (Đừng sợ vấp ngã, Theo Trái tim có điều kì diệu) - Nhan đề của bài văn thể hiện luận điểm chính: Đừng sợ vấp ngã. - Những lí lẽ triển khai vấn đề: + Đã bao lần bạn vấp ngã mà không hề nhớ... 17 + Vậy xin bạn chớ lo sợ thất bại. Điều đáng sợ hơn là bạn đã bỏ qua nhiều cơ hội chỉ vì không cố gắng hết mình. - Để chứng minh cho luận điểm “Đừng sợ vấp ngã”, người viết còn đưa ra những dẫn chứng xác thực. Toàn là những tên tuổi lừng lẫy mà không ai không biết. Nghĩa là những sự thực dẫn ra mặc nhiên đều được thừa nhận. Điều này quyết định đến độ thuyết phục của luận điểm và cùng với lí lẽ chặt chẽ tạo nên một lập luận chứng minh hoàn chỉnh. Như vậy với văn bản Đừng sợ thất bại, người viết đã sử dụng lí lẽ và đưa ra dẫn chứng. Ví dụ 2: “Bạn ơi, nếu bạn muốn sống một đời mà không phạm chút sai lầm nào, làm gì được nấy, thì đó hoặc là bạn ảo tưởng, hoặc là bạn hèn nhát trước cuộc đời. Một người mà lúc nào cũng sợ thất bại, làm gì cũng sợ sai lầm là một người sợ hãi thực tế, trốn tránh thực tế, và suốt đời không bao giờ có thể tự lập được. Bạn sợ sặc nước thì bạn không biết bơi; bạn sợ nói sai thì bạn không nói được ngoại ngữ! Một người mà không chịu mất gì thì sẽ không được gì. Sai lầm cũng có hai mặt. Tuy nó đem lại tổn thất, nhưng nó cũng đem đến bài học cho đời. Khi tiến bước vào tương lai, bạn làm sao tránh được sai lầm? Nếu bạn sợ sai thì bạn chẳng dám làm gì. Người khác bảo bạn sai chưa chắc bạn đã sai, vì tiêu chuẩn đúng sai khác nhau. Lúc đó bạn chớ ngừng tay, mà cứ tiếp tục làm, dù cho có gặp trắc trở. Thất bại là mẹ của thành công. Tất nhiên bạn không phải là người liều lĩnh, mù quáng, cố ý mà phạm sai lầm. Chẳng ai thích sai lầm cả. Có người phạm sai lầm thì chán nản. Có kẻ sai lầm rồi thì tiếp tục sai lầm thêm. Nhưng có người biết suy nghĩ, rút kinh nghiệm, tìm con đường khác để tiến lên. Những người sáng suốt dám làm, không sợ sai lầm, mới là người làm chủ số phận của mình.” (Không sợ sai lầm, Theo Hồng Diễm) Vấn đề chứng minh là: không sợ sai lầm. Để chứng minh cho luận điểm, bài viết đã triển khai những luận điểm nhỏ. Các câu mang luận điểm là: - Bạn ơi, nếu bạn muốn sống một đời mà không phạm chút sai lầm nào, làm gì được nấy, thì đó hoặc là bạn ảo tưởng, hoặc là bạn hèn nhát trước cuộc đời. 18 - Sai lầm cũng có hai mặt. Tuy nó đem lại tổn thất, nhưng nó cũng đem đến bài học cho đời. - Thất bại là mẹ của thành công. - Những người sáng suốt dám làm, không sợ sai lầm, mới là người làm chủ số phận của mình. Để chứng minh luận điểm, người viết còn đưa ra những lí lẽ: - Không chịu mất thì cũng chẳng được gì: Một người mà lúc nào cũng sợ thất bại, làm gì cũng sợ sai lầm là một người sợ hãi thực tế, trốn tránh thực tế, và suốt đời không bao giờ có thể tự lập được. Bạn sợ sặc nước thì bạn không biết bơi; bạn sợ nói sai thì bạn không nói được ngoại ngữ! - Khó tránh được sai lầm trên con đường bước vào tương lai: Nếu bạn sợ sai thì bạn chẳng dám làm gì. Người khác bảo bạn sai chưa chắc bạn đã sai, vì tiêu chuẩn đúng sai khác nhau. Lúc đó bạn chớ ngừng tay, mà cứ tiếp tục làm, dù cho có gặp trắc trở. - Không liều lĩnh, mù quáng, cố ý mà phạm sai lầm mà phải biết suy nghĩ, rút kinh nghiệm: Tất nhiên bạn không phải là người liều lĩnh, mù quáng, cố ý mà phạm sai lầm. Chẳng ai thích sai lầm cả. Có người phạm sai lầm thì chán nản. Có kẻ sai lầm rồi tiếp tục sai lầm thêm. Nhưng có người biết suy nghĩ, rút kinh nghiệm, tìm con đường khác để tiến lên. Như vậy bài viết Không sợ sai lầm, người viết sử dụng lí lẽ và phân tích lí lẽ. 2.3.4.4. Dấu hiệu nhận biết thao tác lập luận bình luận. Một văn bản bình luận phải đề xuất được ý kiến (tức là bày tỏ suy nghĩ, thái độ về vấn đề nghị luận) và bảo vệ quan điểm riêng của mình về vấn đề đó. Có thể tiến hành theo các cách sau: + Đứng hẳn về một phía, ủng hộ phía mình cho là đúng và bác bỏ phía mà mình chắc chắn là sai. + Kết hợp những phần đúng và loại bỏ phần còn hạn chế mỗi phía, để đi tới một sự đánh giá mình tin là công bằng, hợp lí. + Đưa ra cách đánh giá của riêng mình sau k hi đã phân tích các quan điểm, ý kiến khác nhau về đề tài bình luận. *Dấu hiệu nhận biết thao tác lập luận bình luận là: văn bản phải bộc lộ được thái độ, suy nghĩ hay đề xuất của tác giả đối với vấn đề nghị luận. Thái độ có thể được thể hiện trực tiếp qua những từ ngữ biểu cảm: ôi, thương thay, hại thay, đáng sợ lắm thay, … 19 Ví dụ: “Thấy người bị tai nạn xe cộ quằn quại trên vũng máu, ngoảnh mặt, đi thẳng. Thấy trẻ em lang thang cầm tập vé số trong tay mời chào khản giọng, đã chẳng ai mua thì chớ, có kẻ còn nhẫn tâm giật cướp cả nắm vé số rồi vù xe biến thẳng. Cả một đám thanh niên sức dài vai rộng ngồi ngả ngốn cà phê, một chú bé đánh giầy xong ngửa tay xin tiền công, tiền đâu chẳng thấy, một gã co chân phóng thẳng vào ngực chú bé, quát “Cút!”. Rồi cả bọn cười hô hố. Thấy nhà hàng xóm cháy, dửng dưng bình chân như vại … Rồi từ những hành động riêng lẻ ấy, quen dần thành thói “ăn bẩn” có tổ chức như ăn bớt tiền cứu trợ bão lụt, biển thủ tiền dành cho các gia đình chính sách, rút ruột công trình để gây ra bao thảm họa … Tất cả đều từ thói vô cảm mà ra. Vô cảm với mồ hôi, nước mắt của người lao động còng lưng đóng thuế. Vô cảm trước nỗi thống khổ của đồng loại. Và thói vô cảm bao giờ cũng đồng hành với thói ích kỉ, ích kỉ một cách tối tăm mù quáng. Đến một chừng mực nào đó thì thói ích kỉ trở thành một tội ác. Đáng sợ lắm thay!” (Hoài Giang) (5) Đoạn văn bàn về sự vô cảm của con người trong xã hội ngày nay. Tác giả nêu ra hiện tượng một cách trung thực, sau đó đưa ra ý kiến đánh giá của mình: kịch liệt phê phán thái độ dửng dưng của con người đối với con người. 2.3.4.5. Dấu hiệu nhận biết thao tác lập luận so sánh. - Khi văn bản nghị luận có sự xuất hiện của hai hay nhiều đối tượng, được đặt trong mối quan hệ so sánh với nhau theo một tiêu chí nhất định nào đó, văn bản đó đã sử dụng thao tác lập luận so sánh. Có 2 cách so sánh: so sánh nhằm nhận ra sự giống nhau, so sánh nhằm nhận ra sự khác nhau. So sánh luôn đi đôi với nhận xét, đánh giá. - Để nhận diện dấu hiệu này, học sinh hãy xác định: 1- Những đối tượng được so sánh với nhau trong văn bản là gì? Theo tiêu chí 2- Mục đích của sự so sánh? nào? Ví dụ: “… Nhưng khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ những trang sách của nhà văn Nam Cao, thì người ta mới nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cùng ở một nước thuộc địa: bị giày đạp, bị cào xé, ( 5) Thiết kế bài giảng Ngữ văn 11 nâng cao, tập 2, Nxb Hà Nội, 2008, trang 227 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng