Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn hiệu trưởng sử dụng phương pháp quản lý trong chỉ đạo đội ngũ giáo viên chủ...

Tài liệu Skkn hiệu trưởng sử dụng phương pháp quản lý trong chỉ đạo đội ngũ giáo viên chủ nhiệm.

.DOC
39
795
130

Mô tả:

SÔÛ GIAÙO SÔÛ GIAÙO DUÏC&ÑAØO TAÏO ÑOÀNG NAI TRÖÔØNG THPT ÑIEÅU CAÛI HIỆU TRƯỞNG SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ TRONG CHỈ ĐẠO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM Người thực hiện: Trần Xuân Trúc Lĩnh vực: Quản lý Giáo dục Tháng 5 năm 2012 1 SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I.THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: Trần Xuân Trúc 2. Ngày tháng năm sinh: 16 / 10/1976 3. Nam, nữ: nam 4. Địa chỉ: Túc Trưng, Định Quán, Đồng Nai 5. Điện thoại: 0976702404 6. Fax 7. Chức vụ: Hiệu Trưởng 8. Đơn vị công tác: Trường THPT Điểu Cải II.TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO Học vị ( trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: cử nhân Năm nhận bằng: 2000 Chuyên ngành đào tạo: ngữ văn III.KINH NGHIỆM KHOA HỌC Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: quản lý giáo dục Số năm kinh nghiệm: 5 năm Các sáng kiến trong vòng 5 năm ngần đây: 4 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Để công tác quản lý đạt hiệu quả đáp ứng được yêu cầu sự phát triển của xã hội, thì phải sử dụng các phương pháp hữu hiệu. Bởi vì các phương pháp quản lý là một trong những nhân tố quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý. Trong quản lý yếu tố chủ thể quản lý giữ vai trò quyết định. Người quản lý giỏi phải thường xuyên học tập nâng cao nghiệp vụ lãnh đạo quản lý. Trong một giai đoạn lịch sử nhất định, ở mỗi quốc gia đều có chính sách đào tạo cán bộ quản lý khác nhau phù hợp với yêu cầu quản lý xã hội. Để quản lý công tác giáo dục và đào tạo đạt chất lượng cao và có hiệu quả thật sự cần phải sử dụng phương pháp quản lý phù hợp với đối tượng giáo dục và các tình huống thực tiễn trong quản lý giáo dục và đào tạo. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, vấn đề đạo đức được đề cao hơn bao giờ hết. Đạo đức mới khuyến khích con người vươn tới cái thiện, đạt tới hạnh phúc đích thực ngay từ trong đời sống thực tiễn. Nó định hướng qúa trình tu dưỡng rèn luyện con người trong lao động chung sống với nhau. Vì vậy người thầy giáo lên lớp không chỉ truyền thụ những kiến thức cơ bản về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội mà thông qua dạy chữ để dạy người. Đây chính là chức năng, nhiệm vụ trực tiếp của giáo viên chủ nhiệm. Cuộc sống hôm nay, khi sự nghiệp công nhiệp, hiện đại hóa đất nước đang được đẩy mạnh, nhân tố con người có ý nghĩa quyết định thì tiềm năng, trí tuệ cùng với sức mạnh tinh thần và đạo đức con người càng được đề cao và phát huy mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực xã hội. Việc nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục toàn diện cho học sinh là cả một quá trình lâu dài, phức tạp đòi hỏi phải hết sức công phu, kiên trì, liên tục bởi bên cạnh những ảnh hưởng tiến bộ của cơ chế thị trường, của hội nhập vẫn còn các mặt trái gây tác động không nhỏ tới đời sống xã hội. Thực tế có một bộ phận học sinh đã, đang bị phần tử xấu lôi kéo vào các tệ nạn xã hội, hoặc thiếu sự giáo dục thường xuyên nên đã bắt chước hành vi của người khác theo cảm tính chủ quan. Chính vì lẽ đó, mỗi cán bộ quản lý trong ngành giáo dục nói chung và cán bộ quản lý trường THPT Điểu Cải nói riêng phải cần quan tâm nghiên cứu đề tài: “Hiệu Trưởng sử dụng các phương pháp quản lý trong chỉ đạo đội ngũ giáo viên chủ nhiệm ở trường THPT Điểu Cải”. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Mục đích nghiên cứu phân tích thực trạng việc hiệu trưởng sử dụng các phương pháp quản lý trong chỉ đạo đội ngũ giáo viên chủ nhiệm trong hai năm học 2009 - 2010, 2011 - 2012 đồng thời tìm ra những giải pháp sử dụng có hiệu quả các phương pháp sử dụng của hiệu trưởng trong chỉ đạo công tác chủ nhiệm thời gian tới tại trường THPT Điểu Cải. 3 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: - Tìm hiểu cơ sỏ lý luận của đề tài - Phân tích thực trạng việc sử dụng các phương pháp quản lý của hiệu trưởng trong chỉ đạo đội ngũ giáo viên chủ nhiệm ở trường THPT Điểu Cải. - Đề xuất các giải pháp cải tiến và rút ra các bài học kinh nghiệm trong việc sử dụng các phương pháp quản lý trong chỉ đạo đội ngũ giáo viên chủ nhiệm. 4. PHẠM VI ĐỀ TÀI: Phương pháp quản lý là cả một vấn đề quản lý rất rộng lớn và trong phạm vi thời gian cho phép bản thân tôi xin chỉ trình bày một bộ phận của công tác quản lý nhà trường đó là: “Hiệu Trưởng sử dụng các phương pháp quản lý trong chỉ đạo đội ngũ giáo viên chủ nhiệm ở trường THPT Điểu Cải”. 5. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: - Phương pháp phân tích tài liệu: Được sử dụng để tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản làm cơ sở cho đề tài nghiên cứu. - Phương pháp quan sát kết hợp nghiên cứu sản phẩm. 4 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI. Hiện nay có nhiều khái niệm về công tác quản lý của các nhà khoa học quản lý ở trong và ngoài nước. Mỗi khái niệm tiếp cận ở một góc độ khác nhau. Để tìm hiểu một cách cụ thể khái niệm các phương pháp quản lý, cần đề cập một số vấn đề sau đây: Lê Nin cho rằng: phương pháp quản lý là công cụ, là phương tiện của chủ thể quản lý, thông qua phương tiện này để tác động, liên kết với đối tượng và khách thể quản lý. Điều này nói lên tính chủ quan của phương pháp quản lý, bởi vì nếu xem phương pháp quản lý là công cụ, thì công cụ này là sản phẩm chủ quan của con người. Tuy nhiên công cụ bao giờ cũng tác động cũng là cái tác động vào đối tượng, khách thể, vì thế khi sử dụng công cụ để đảm bảo tính hiệu quả, bản thân nó phải chịu sự chi phối khách quan của môi trường và các điều kiện quản lý. Trong giáo trình khoa học quản lý, các nhà khoa học Nga đã phân tích và cho rằng: phương pháp quản lý là tổng thể những phương pháp tiến hành hoạt động quản lý bằng cách sử dụng những phương tiện kỹ thuật, hành chính, những biện pháp kinh tế, tâm lý giáo dục khác nhau. Khái niệm này được đề cập đến các công cụ chủ yếu của phương pháp quản lý. Công cụ của phương pháp quản lý bao gồm: Các mệnh lệnh hành chính, các công cụ đòn bẩy kích thích lợi ích vật chất, các yếu tố tâm lý giáo dục và các điều kiện vật chất kỹ thuật kinh tế - xã hội phụ vụ cho quá trình quản lý. Như vậy, với khái niệm này mở ra cho nhà quản lý khả năng to lớn khi lựa chọn các công cụ để sử dụng các phương pháp quản lý. Khi giải quyết công việc nhanh chóng trong một tình huống cấp bách, người quản lý thường dùng công cụ hành chính. Khi muốn định hướng đối tượng quản lý vào những công việc mà không thể dùng mệnh lệnh hành chính bắt buộc họ thì người ta sử dụng công cụ đòn bẩy kinh tế. Còn khi muốn đối tượng quản lý có một tâm trạng ổn định, thoải mái thì người ta dùng phương pháp tâm lý giáo dục để thuyết phục. Giáo viên chủ nhiệm có nhiệm vụ rất quan trọng trong giáo dục nhân cách của người học sinh. Thông qua các hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường hình thành và phát triển các mối quan hệ lành mạnh trong tập thể tạo ra được các tình cảm bạn bè thân thiết, tình thầy trò, lòng nhân ái, yêu quê hương tổ quốc. Xây dựng bầu không khí tâm lý đoàn kết, nhất trí trong công việc. Có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong giáo dục đạo đức học sinh và là tiền đề thuận lợi để giáo viên chủ nhiệm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện các em. Với tầm quan trọng ở trên nên công tác chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm là nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong việc quản lý của người hiệu trưởng. Làm thế 5 nào để nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp? Chỉ có con đường đổi mới sử dụng các phương pháp quản lý hiện nay. Đây chính là vấn đề cần thiết của nhà trường trong việc giáo dục toàn diện học sinh. Dù khái niệm phương pháp quản lý được thể hiện dưới góc độ khác nhau nhưng giữa chúng đều có chung đặc điểm, đó là: tính mục đích, tính nguyên tắc, tính biến đổi và sự nhạy cảm của phương pháp quản lý. Từ sự phân tích trên, ta có thể rút ra một khái niệm tương đối tổng quát, đó là: phương pháp quản lý là tổng thể cách thức tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý trên cơ sở mục tiêu, các nguyên tắc quản lý và môi trường nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý. * Vai trò của phương pháp quản lý trong hoạt động thực tiễn quản lý hiện nay ở nước ta. Các phương pháp quản lý giữ vai trò đặc biệt trong hệ thống quản lý, bởi vì các phương pháp quản lý là một trong nội dung cơ bản của quá trình quản lý. Các nguyên tắc nhiệm vụ của quản lý cũng chỉ được thực hiện thông qua các phương pháp quản lý. Các phương pháp quản lý có hiệu quả sẽ tạo điều kiện để khơi dậy những động lực, kích thích tính năng động sáng tạo của con người và tiền năng của hệ thống quản lý cũng như các cơ hội. Phương pháp quản lý là mối quan hệ qua lại lẫn nhau giữa hệ thống quản lý và hệ thống bị quản lý, tức là mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý được thể hiện một cách cụ thề, sinh động với tất cả sự phong phú, phức tạp của đời sống vật chất tinh thần. Vì vậy, các phương pháp quản lý mang tính đa dạng và phong phú, đó là vấn đề cần đặc biệt lưu ý trong quản lý vì nó là bộ phận năng động nhất của cả hệ thống quản lý. Phương pháp quản lý thường xuyên thay đổi trong từng tình huống cụ thể, tùy thuộc vào đặc điểm của đối tượng, năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý. Sử dụng phương pháp quản lý vừa là khoa học vừa là tính nghệ thuật. Tính khoa học đòi hỏi phải nắm vững đối tượng với những đặc điểm vốn có của nó, để tác động trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan phù hợp với đối tượng. Tính khoa học biểu hiện ở chỗ biết lựa chọn và kết hợp các phương pháp trong thực tiễn để sử dụng tốt tiềm năng và cơ hội, đạt mục tiêu quản lý đề ra. Phương pháp quản lý có vai trò quyết định đến hiệu quả quản lý, hiệu quả quản lý cao hay thấp phụ thuộc vào việc sử dụng phương pháp quản lý có hiệu quả hay không. Với ý nghĩa đó, hiệu quả của phương pháp quản lý sẽ là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá tính đúng đắn và tính hữu ích trong việc sử dụng các phương pháp quản lý. Hiệu quả sử dụng các phương pháp quản lý càng cao có ý nghĩa là chi phí càng thấp mà kết quả thu được càng lớn Từ những đánh giá phân tích trên, chúng ta có thể rút ra vai trò của các phương pháp quản lý như sau: 6 - Thứ nhất: Khi sử dụng các phương pháp quản lý sẽ tạo ra hiệu quả quản lý ngày càng tăng lên. Điều này được thể hiện dưới đây: + Khi sử dụng các phương pháp quản lý có tính khoa học và nghệ thuật, phù hợp với điều kiện, đặc điểm mục tiêu, nguyên tắc, có tính năng động, sáng tạo thì sẽ khai thác triệt để khả năng của mọi đối tượng quản lý. + Khi sử dụng các phương pháp quản lý sẽ thực hiện được hiệu quả của mục tiêu và nguyên tắc quản lý một cách cụ thể. Bởi vì, bản thân mục tiêu và nguyên tắc quản lý chưa thể hiện được hiệu quả vì nó chỉ mới ở trong nhận thức của con người. Muốn biến nhận thức đó thành hành động cụ thể nhằm tạo hiệu quả thì phải sử dụng các phương pháp quản lý. + Sử dụng các phương pháp quản lý thúc đẩy quá trình thực hiện yêu cầu, nội dung mà chủ thể quản lý đã đề ra, nó thể hiện tính lựa chọn, tính năng động và tính thực tiễn sâu sắc, tức là sử dụng phương pháp như thế nào ? Tác động đến ai ? phạm vi sử dụng đến đâu ? nhằm mục đích gì ? mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội như thế nào ? - Thứ hai: Sử dụng các phương pháp quản lý sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp để khắc phục những yếu kém, trì trệ, bảo thủ của cả chủ thể và đối tượng quản lý. Thông qua nó sẽ đánh giá chính xác hơn khả năng, trình độ tiếp nhận mệnh lệnh từ chủ thể quản lý theo phương pháp tác động có mục đích, có định hướng. Điều này thể hiện qua các khía cạnh sau: + Bản thân mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm của nó. Ví dụ : phương pháp tổ chức hành chính có nhiều ưu điểm, song cũng có hạn chế, nó chưa gắn lợi ích vất chất với đối tượng quản lý. Nhưng khi sử dụng phương pháp tổ chức hành chính kết hợp với phương pháp kinh tế, phương pháp tâm lý giáo dục thì sẽ khắc phục được tình trạng căng thẳng về tính bắt buộc của nó và kích thích được lợi ích vật chất khi thực hiện mệnh lệnh quản lý. + Các phương pháp quản lý về mặt lý thuyết tưởng chừng như trừu tượng nhưng khi sử dụng tổng hợp thì nó lại trở thành sức mạnh giúp cho chủ thể quản lý vượt qua những khó khăn, cản trở, nhất là những trường hợp có sự biến động mà chưa lường hết được. - Thứ ba: Sử dụng các phương pháp quản lý sẽ tạo ra phản ứng dây chuyền về động lực, tức là động lực được phát huy, nhân tố con người được sử dụng, đánh giá đúng mức, được tôn trọng về nhân cách và tình cảm nội tâm của đối tượng quản lý. Từ đó họ phấn chấn hơn, hăng hái hơn trong việc thực hiện kế hoạch đã đề ra. Điều này bắt nguồn từ các điều sau đây: + Khi được chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý bằng mệnh lệnh có tính đặc thù, họ sẽ thấy mình được tôn trọng, trọng dụng. Điều này tạo sức mạnh cho đối tượng quản lý. + Động lực trong việc sử dụng các phương pháp quản lý có vai trò tác động đến đối tượng quản lý, làm cho đối tượng quản lý dần dần thay đổi, đáp ứng nhu 7 cầu, mục tiêu đề ra. Ngay bản thân chủ thể quản lý, do tác động đến đối tượng quản lý cũng nâng cao trình độ, kinh nghiệm và nghệ thuật quản lý, thể hiện được vị trí người lãnh đạo quản lý. - Thứ tư : Thông qua sử dụng các phương pháp quản lý có tác động lớn đến việc tăng cường, phát triển mối quan hệ giữa chủ thể với đối tượng và khách thể quản lý. Đó là những mối quan hệ xã hội nảy sinh trong quá trình lao động sản xuất. Đối với các cơ quan quản lý ở tầm vĩ mô thông qua sử dụng các phương pháp quản lý sẽ có vai trò điều chỉnh các hoạt động của nền kinh tế xã hội. + Khi sử dụng các phương pháp quản lý thì cả chủ thể và đối tượng quản lý đều thấy vai trò và trách nhiệm của mình. + Tạo ra thông tin ngược chiều, thông tin phản hồi làm cho quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý ngày càng thêm chặt chẽ, thể hiện tổng hòa các mối quan hệ xã hội nói chung và tổng hòa quan hệ quản lý nói riêng. - Thứ năm: Sử dụng các phương pháp quản lý chính là sử dụng các công cụ quản lý có hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, quyền hạn của các chủ thể và đối tượng quản lý. + Sức mạnh của chủ thể quản lý trước hết thể hiện qua việc sử dụng các phương pháp quản lý. Đây là sức mạnh tổng hợp, thể hiện nội lực bên trong của con người trong hoạt động quản lý. Nó không thể hiện tính bắt buộc và nặng nề như công cụ pháp luật, nhưng nó biến nỗ lực của mỗi cá nhân thành nỗ lực chung và luôn bồi đắp bởi sự hài hòa, sâu rộng về các mặt của chủ thể quản lý và đối tượng quản lý trong quá trình sử dụng các phương pháp quản lý. Do đó nó đạt được hiệu lực, hiệu quả cao nếu sử dụng đúng nội dung trong điều kiện hoàn cảnh nhất định. Tất nhiên, nếu áp dụng sai thì vai trò của nó sẽ gây hậu quả ngược lại, bởi vì đây là công cụ quản lý mang tính nhạy cảm rất lớn. * Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình sử dụng các phương pháp quản lý. Phương pháp quản lý là công cụ, là “ cầu nối” giữa chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý và khách thể quản lý. Do tính đa dạng và phức tạp của chủ thể, đối tượng và khách thể quản lý nên việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp quản lý cũng có sự khác nhau. Đối tượng quản lý luôn vận động và thay đổi, điều này buộc các nhà quản lý cũng phải luôn luôn hoàn thiện các phương pháp quản lý và thay đổi cách vận động sao cho phù hợp với sự thay đổi đó. Thực tế cho thấy có những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc sử dụng các phương pháp quản lý sau: - Thứ nhất : Trình độ, năng lực, phẩm chất của chủ thể quản lý. Để sử dụng các phương pháp quản lý hiệu quả, nhân tố ảnh hưởng có tính quyết định là chủ thể quản lý. Bởi vì, chủ thể quản lý phải có năng lực tư duy, vận dụng lý luận vào thực tiễn trên cơ sở nắm vững các quy luật khách quan thì mới có 8 thể sử dụng có hiệu quả các phương pháp quản lý. Nhân tố chủ thể quản lý được hiểu dưới các khía cạnh sau: + Chủ thể quản lý tác động theo chức năng, nhiệm vụ, và quyền uy của mình để thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Do đó, đòi hỏi chủ thể quản lý phải luôn luôn đổi mới nhận thức và phương pháp tác động nhằm mang lại hiệu quả cao hơn. + Chủ thể quản lý phải có một trình độ nhất định để chi phối và thu phục đối tượng quản lý theo mệnh lệnh ban hành. + Nhân tố chủ thể quản lý có tính hai mặt, vừa đảm bảo tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm khi đưa ra quyết định, vừa mang tính liên đới đến đối tượng quản lý, đòi hỏi việc sử dụng các phương pháp quản lý như thế nào cho phù hợp. - Thứ hai : Trình độ nhận thức của đối tượng quản lý. Mục tiêu chủ yếu của chủ thể quản lý chính là đối tượng quản lý trong quá trình sử dụng các phương pháp quản lý. Vì vậy, đối tượng quản lý là nhân tố ảnh hưởng lớn đến quá trình sử dụng các phương pháp quản lý. Khi chủ thể quản lý ra các mệnh lệnh quản lý, nếu đối tượng quản lý không tiếp nhận, không cảm thụ thì cản trở đến quá trình tác động của chủ thể quản lý, dẫn đến mục tiêu và nguyên tắc quản lý không đạt được. Khi đối tượng quản lý yếu kém về kiến thức và phẩm chất thì hiệu quả sử dụng các phương pháp quản lý bị hạn chế. Thực tế chỉ ra rằng, ở đâu đối tượng quản lý có khả năng trình độ kiến thức, phẩm chất và đạo đức thì việc sử dụng các phương pháp quản lý sẽ thuận lợi mang lại hiệu quả cao. - Thứ ba: Cơ chế chính sách pháp luật. Đây là một hệ thống nhân tố tác động đến quá trình sử dụng các phương pháp quản lý, người quản lý và người lao động luôn chịu sự tác động của các nhân tố nên trong và bên ngoài. Chính điều này làm thay đổi ý thức và phương hướng tác động của chủ thể đối với đối tượng quản lý. Cụ thể như khi chủ thể và đối tượng quản lý đang hoạt động trong môi trường cơ chế, chính sách pháp luật đồng bộ, thông thoáng thì sẽ kích thích họ làm việc với động lực cao hơn và ngược lại, khi mà chính sách pháp luật còn bất hợp lý sẽ làm cho động lực giảm sút. Điều này thể hiện rất rõ ở nước ta khi chuyển đổi cơ chế quản lý mới, do chính sách pháp luật chưa chuyển đổi kịp nên hiệu quả sử dụng các phương pháp quản lý còn thấp. Có thể nói đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sử dụng các phương pháp quản lý. Trong thực tế các phương pháp hành chính, kinh tế, giáo dục chính là cụ thể hóa và vận động hệ thống chính sách pháp luật của nhà nước đối với con người trong hoạt động quản lý. - Thứ tư: Nhân tố về môi trường tổ chức, tâm lý giáo dục và môi trường xã hội. Nhân tố về môi trường tổ chức, tâm lý giáo dục và môi trường xã hội ảnh hưởng đến quá trình sử dụng các phương pháp quản lý. Bởi vì, khi đối tượng quản lý có được môi trường tổ chức, tâm lý giáo dục và môi trường xã hội thuận lợi sẽ làm cho họ vững vàng trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt là trong quá trình tiếp 9 nhận sự tác động của chủ thể quản lý một cách có hiệu quả. Nếu môi trường này không thuận lợi thì họ không thể yên tâm làm việc, dẫn đến sự tác động của chủ thể quản lý sẽ bị hạn chế, thiếu hiệu quả như mong muốn. * Một số quan điểm cần quán triệt trong qúa trình sử dụng các phương pháp quản lý. + Quan điểm 1 : Trong qúa trình sử dụng các phương pháp quản lý phải đặc biệt hiệu quả, hiệu lực của phương pháp quản lý. Làm cho qúa trình sử dụng các phương pháp quản lý ngày càng đi vào chiều sâu, chiều rộng trong thực tiễn quản lý. Quan điểm này cần quán triệt các vấn đề sau: - Hiệu quả của việc sử dụng các phương pháp quản lý phải thể hiện bằng hiện thực chứ không phải trừu tượng, chung chung, đó là: Thông qua việc sử dụng các phương pháp quản lý, trình độ khoa học và nghệ thuật quản lý của chủ thể quản lý được tăng lên, hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế ngày càng phát triển, thu nhập, đời sống vật chất tinh thần của người lao động được nâng cao, thực hiện đúng chính sách pháp luật của Đảng và nhà nước. - Hiệu quả của việc sử dụng các phương pháp quản lý phải thể hiện ở sức cạnh tranh trong hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng tăng lên, hiệu lực quản lý của các đơn vị hành chính sự nghiệp phải được thể hiện thông qua việc thực hiện các mệnh lệnh hành chính một cách nghiêm minh, khắc phục tình trạng trên nói dưới không nghe và ngược lại. + Quan điểm 2 : Sử dụng các phương pháp quản lý phải khơi dậy được tính năng động sáng tạo của đối tượng quản lý, tạo điều kiện để biến nỗ lực cá nhân thành nỗ lực của một tổ chức, tạo sự cộng hưởng để thực hiện tốt mục tiêu, nguyên tắc đã đề ra, tạo ra nếp nghĩ cách làm mới cho chủ thể và cả đối tượng quản lý, kích thích chủ thể quản lý vì lợi ích thiết thực mà làm việc có hiệu quả hơn, về quan điểm này cần quán triệt các vấn đề sau: Phương pháp tổ chức hành chính là phương pháp tổ chức rất nhạy cảm, đồng thời nó cũng mang tính bắt buộc đối tượng quản lý phải thực hiện nếu chủ thể quản lý sử dụng phương pháp đúng đắn, khắc phục tình trạng tùy tiện, không chấp hành các mệnh lệnh hành chính của cấp trên. Trường hợp đối tượng quản lý có thể không đồng tình và không thống nhất khi tiếp nhận mệnh lệnh quản lý. Nhưng nếu mệnh lệnh đó đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn và vì lợi ích chung của tổ chức thì buộc đối tượng quản lý thực hiện nhằm tạo ra tính thống nhất trong bộ máy quản lý. Mặt khác phải quán triệt trong khi sử dụng phương pháp hành chính, tổ chức là phải gắn quyền hạn và trách nhiệm của chủ thể quản lý khi ban hành các mệnh lệnh hành chính, nếu sai thì phải chịu trách nhiệm về hậu quả gây ra. + Quan điểm 3 : Sử dụng các phương pháp quản lý cần phải nghiên cứu khoa học tâm lý về đối tượng quản lý. Bởi vì bản chất con người tổng hòa các mối quan hệ 10 xã hội, trong thực tiễn nó diễn ra rất phức tạp và có tính trừu tượng. Do đó đòi hỏi chủ thể quản lý phải quán triệt các mặt sau: - Cần phải phân biệt cá tính và hoàn cảnh riêng riêng biệt của từng người để có sự điều chỉnh phù hợp với từng đối tượng, lựa chọn đúng đắn phương pháp quản lý cho từng người, từng tổ chức, tránh tình trạng áp dụng chung chung. - Chủ thể quản lý phải có những quy định cụ thể để điều chỉnh hành vi của đối tượng quản lý. - Chủ thể quản lý cần quán triệt phương châm “dụng nhân như dụng mộc”, do đó đòi hỏi phải sử dụng các phương pháp quản lý mang tính khoa học và nghệ thuật cho đúng người, đúng việc để mang lại hiệu quả cao. + Quan điểm 4 : Phải thể hiện sử dụng đồng bộ cả ba phương pháp quản lý trong quá trình quản lý. Bởi vì nếu sử dụng riêng rẽ từng phương pháp quản lý mà không mang tính đồng bộ, tổng hợp thì hiệu quả mang lại sẽ thấp. Như chúng ta đã biết cả ba phương pháp đều có ưu nhược điểm nhất định, cho nên sử dụng tổng hợp cả ba phương pháp sẽ góp phần hạn chế được nhược điểm và phát huy ưu điểm của từng phương pháp. - Như chúng ta đã biết, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, do đó khi giải quyết một vấn đề nào đó thì phải giải quyết tổng hòa các mối quan hệ mới đảm bảo tính hiệu quả. Đồng thời cần phải nhận thức rằng ba phương pháp quản lý nói trên là quá trình hoạt động của con người, cụ thể là : Khi con người mới bắt tay vào làm việc thì phải thông qua bố trí, sắp xếp nơi ở, điều kiện làm việc tức là thông qua phương pháp tổ chức hành chính. Để con người nâng cao được hiệ quả hoạt động thì phải có chính sách khuyến khích vật chất tức là thông qua phương pháp kinh tế, nhưng để ngăn chặn những tư tưởng chạy theo lợi ích tối đa, bất chấp đạo lý, nhân tâm, thì phải sử dụng phương pháp tâm lý, giáo dục. Do vậy, quan điểm sử dụng hài hòa tổng hợp ba phương pháp là vấn đề đặc biệt quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý. + Quan điểm 5 : Sử dụng các phương pháp quản lý phải có sự kế thừa, chọn lọc để sử dụng những nhân tố, những tinh hoa, chắt chiu những kiến thức và tư duy mới cho phù hợp với cơ chế thị trường và khoa học về quản lý. - Khi áp dụng phương pháp quản lý mới đòi hỏi nhà quản lý phải nghiên cứu, chọn lọc những ý tưởng mới của những phương pháp đã áp dụng trước đó, khắc phục tư tưởng mỗi lần sử dụng phương pháp mới trong một tổ chức thì bỏ hết các yếu tố tinh hoa của các phương pháp trước nó hoặc không nghiên cứu xem xét những phương pháp đã áp dụng để kế thừa những mặt tốt. - Con người dưới góc độ sử dụng các phương pháp quản lý cũng có những ưu điểm và nhược điểm. Vấn đề là biết khai thác, phát hiện cái mới trên cơ sở kế thừa những tinh hoa, những ý tưởng đẹp làm cho quá trình sử dụng các phương pháp 11 quản lý thời gian sau sẽ mang tính khoa học, nghệ thuật và hiệu quả hơn thời gian trước. * Sự cần thiết khách quan phải sử dụng có hiệu quả các phương pháp quản lý. Hiệu quả sử dụng các phương pháp quản lý là mối quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được so với chi phí đã bỏ ra. Các phương pháp quản lý dựa trên cơ sở các mục tiêu, các nguyên tắc và các quy luật khách quan trong quản lý. Do đó dù muốn hay không muốn, các tổ chức đều phải thực hiện có hiệu quả các phương pháp quản lý. Chỉ có thể sử dụng các phương pháp quản lý mới thực sự mang lại hiệu quả. Thực tế cho thấy, đây là vấn đề hết sức cần thiết. Các tổ chức nói chung, các doanh nghiệp nói riêng muốn nâng cao hiệu quả, tăng lợi nhuận thì phải đổi mới việc sử dụng các phương pháp quản lý, coi đây là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Bởi vì các phương pháp quản lý là những công cụ mang tính khoa học, được đúc kết từ thực tiễn, nó có đối tượng và phương pháp nghiên cứu cụ thể. Nhà kinh tế học Samuelson đã nói: “Chỉ sợ không có phương pháp quản lý có hiệu quả và không coi nó là vấn đề tất yếu khách quan mà thôi…Bởi vì, cả về phương diện lý thuyết và thực tiễn, phương pháp quản lý luôn luôn là vấn đề cấp bách và quan trọng đối với mọi tổ chức kinh tế xã hội”. Song đáng tiếc hiện nay nhiều tổ chức kinh tế xã hội chưa coi phương pháp quản lý là vấn đề cần thiết khách quan, mà còn có tư tưởng coi nhẹ nó và thực hiện hiệu quả thấp. Để nâng cao hiệu quả các phương pháp quản lý đòi hỏi trí tuệ và bản lĩnh chủ thể quản lý ngày càng nâng cao. Với một trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nhất định thì ở những thời kỳ nhất định chỉ có thể có những phương pháp quản lý nhất định. Làm thế nào để các phương pháp đó được các chủ thể quản lý vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt và thực tế để mang lại hiệu quả quản lý cao nhất là vấn đề cấp bách đã và đang đặt ra. Bởi vì hiệu quả phương pháp quản lý bao giờ cũng là sự đòi hỏi trong quá trình thực hiện. * Phương pháp hành chính: Để giảm bớt mức độ quan liêu hóa của phương pháp tổ chức hành chính, người quản lý khi xác lập cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý phải tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, có quan tâm đến điều kiện cụ thể của các thành viên trong tổ chức. Phương pháp tổ chức hành chính hướng tác động vào yêu cầu chung của tổ chức đến mỗi thành viên với các biện pháp : - Một là, thiết lập cơ cấu tổ chức với vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cho mỗi cấp, mỗi khâu, mỗi nhóm, mỗi thành viên, nhờ đó mà quyền lực thông suốt và hiệu lực từ trên xuống dưới. - Hai là, điều chỉnh các hoạt động của tổ chức phải nhịp nhàng, đồng bộ, nhất quán và đúng hướng thông qua các điều luật, nội quy, quy chế, điều lệ. - Ba là, đánh giá các kết quả quản lý nghiêm túc, chính xác, công bằng tạo cơ sở cho việc thưởng phạt nghiêm minh đối với các thành viên trong tổ chức. 12 Muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả của phương pháp tổ chức hành chính, chủ thể quản lý phải chuyên môn hóa các chức năng, nhiệm vụ tạo điều kiện tích lũy kinh nghiệm, nâng cao hiệu quả công việc. Hệ thống quyền lực của tổ chức phải được phân công ủy quyền rõ ràng, có hiệu lực, hiệu quả. Mỗi người cán bộ quản lý phải chuyển hóa được quyền lực của tổ chức sao cho thành quyền uy thực sự, được mọi thành viên trong tổ chức phục tùng tự giác. * Phương pháp kinh tế: Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý thông qua lợi ích kinh tế. Phương pháp kinh tế phải thông qua việc lựa chọn và sử dụng các công cụ đòn bẩy kinh tế như giá cả, lãi suất, tiền lương, tiền thưởng, lợi nhuận để tác động đến điều kiện hoạt động của con người. Thông qua các chính sách và đòn bẩy kinh tế người ta tự tính toán thiệt hơn để tự quyết định hành động của mình, mỗi người phát huy tài năng sức lực của mình, tự chủ lấy công việc của mình không có sự can thiệp trực tiếp của tổ chức. Phương pháp kinh tế là lấy lợi ích vật chất làm động lực thúc đẩy con người hành động. Lợi ích đó thể hiện qua thu nhập của mỗi người, lấy lại từ thành quả chung, phù hợp với mức độ đóng góp của mỗi người. Nếu người quản lý quá coi trọng lợi ích chung, coi nhẹ lợi ích cá nhân của mỗi người sẽ triệt tiêu động lực của họ. Ngoài tiền lương, tiền thưởng, thì trợ cấp cũng là lợi ích bổ sung cho thu nhập của con người. Trợ cấp không liên quan đến công việc, nhưng có ý nghĩa củng cố thêm mục tiêu của tổ chức, giúp thu hút và động viên các thành viên làm việc tốt hơn cho tổ chức. Khi thu nhập thực tế của con người chưa cao, nhu cầu vật chất của mọi người mới chỉ được đáp ứng ở mức thấp, thì con người khi thực hiện công việc đó, đều rất quan tâm đến lợi ích và thu nhập. Vì vậy người quản lý ở mọi tổ chức phải hết sức coi trọng và vận dụng phương pháp kinh tế. So với các phương pháp quản lý khác, phương pháp kinh tế có ưu điểm là đặt mỗi người vào điều kiện tự mình được quyết định làm việc như thế nào là lợi nhất cho mình và cho tổ chức mình. Tuy vậy phương pháp kinh tế cũng có những hạn chế vốn có của nó. Nếu lạm dụng phương pháp kinh tế dễ dẫn tới chỗ chỉ nghĩ tới lợi ích vật chất, thậm chí lệ thuộc vào vật chất, tiền của mà quên tinh thần, đạo lý, có thể dẫn tới những hành vi phạm pháp. Động lực từ lợi ích cá nhân của mỗi người nếu không định hướng và kiểm soát sẽ dẫn người ta đến chỗ làm ăn phi pháp, phi đạo lý. * Phương pháp tâm lý – giáo dục: Phương pháp tâm lý – giáo dục là sự tác động tới đối tượng quản lý thông qua hệ tâm lý, tư tưởng, tình cảm. Phương pháp tâm lý – giáo dục dựa vào uy tín 13 của người quản lý để lôi cuốn mọi người trong tổ chức hăng hái, tích cực tham gia công việc. Phương pháp tâm lý – giáo dục vận dụng các định luật, nguyên tắc tâm lý và giáo dục, nhờ đó người quản lý nắm được tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, mong muốn, tình cảm, đạo đức, lý tưởng của mỗi người và có biện pháp tạo lập trong mỗi con người niềm say mê, phấn khởi, ý thức có trách nhiệm, tinh thần sáng tạo đối với công việc. Trong giới hạn của các biện pháp tổ chức hành chính và kinh tế, nếu người quản lý biết vận dụng khéo léo phương pháp tâm lý – giáo dục sẽ thúc đẩy con người làm việc đạt hiệu quả cao hơn nữa. Động cơ làm việc của mỗi người là mong muốn được thực hiện công việc theo một các nhất định. Sự mong muốn này được thúc đẩy bởi nhu cầu bên trong của mỗi người kết hợp với sự tác động bên ngoài của người quản lý. Từ nhu cầu bên trong đến động cơ làm việc của con người, hình thành một quá trình tâm lý với các bước: nhu cầu, chuẩn mực, mục đích, kế hoạch, năng lực và động cơ. Người quản lý phải biết điều chỉnh được các bước hình thành động cơ làm việc của mỗi người. Những yếu tố tạo động lực còn nảy sinh từ nội dung công việc, các nhà tâm lý học cho rằng, một công việc tạo động lực thúc đẩy con người làm việc hàm chứa các yếu tố: Sự thành đạt, sự công nhận, khả năng thăng tiến chức, sự thách thức, tinh thần trách nhiệm và khả năng phát triển. Động cơ làm việc là lĩnh vực tâm lý, tinh thần của mỗi người, chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố chủ quan khác nhau, ít bộc lộ ra ngoài nên khó nhận biết. Người quản lý có thể hiểu được động cơ làm việc của mỗi người từ nhiều góc độ khác nhau. Tốt nhất là làm việc gần gũi với họ, tìm hiểu và làm rõ điều gì đã thúc đẩy họ làm việc. Động cơ làm việc của con người là trong tổ chức còn chịu ảnh hưởng từ uy tính, phong cách, đạo đức, tác phong công tác và sinh hoạt của bản thân người quản lý. Uy tín của người quản lý là sự công nhận tự nguyện vai trò chủ đạo của người quản lý trong toàn tổ chức. Nó thể hiện sự tôn trọng, quan tâm, lòng bao dung, khả năng thu hút mọi người đến với mình. Đó là phẩm chất cần có và phải giữ gìn của mỗi người quản lý. Phương pháp tâm lý – giáo dục không thể thiếu trong quản lý mọi tổ chức, nhất là các tổ chức xã hội. Để khắc phục, người quản lý phải biết kết hợp với các phương pháp tâm lý – giáo dục và phương pháp kinh tế. 14 Chương II PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VIỆC HIỆU TRƯỞNG SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ TRONG CHỈ ĐẠO GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TẠI TRƯỜNG THPT ĐIỂU CẢI I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH TRƯỜNG THPT ĐIỂU CẢI 1)Vài nét về lịch sử trường : Trường THPT Điểu Cải toạ lạc tại xã Túc Trưng - Định Quán - Đồng Nai . Trường được thành lập theo quyết định số 1693/QĐ/UBT của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai ngày 19/10/1982 với tổng diện tích 9.063 m 2. Trường THPT Điểu Cải nguyên là cơ sở hai của trường THPT Tân Phú ( nay là trường THPT Tân Phú Huyện Định Quán). Năm học 1983 – 1984, cơ sở 2 trường THPT Tân Phú được tách ra thành một trường mới, đặt tại quê hương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Điểu Cải (Người dân tộc chơro) và trường được mang tên THPT Điểu Cải. Năm học đầu tiên trường chỉ có 5 lớp, 177 học sinh, 11 cán bộ giáo viên,công nhân viên Trường THPT Điểu Cải nằm ở địa bàn xa xôi, khó khăn, có nhiều đồng bào dân tộc thuộc huyện miền núi. Cơ sở phục vụ cho công tác dạy- học được mượn tại khu tin lành . Từ năm 1995- 1996 trường đã được Uỷ Ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đầu tư xây dựng khang trang với 3 dãy lầu. a) Khối hành chính quản trị: gồm 01 lầu, 01 trệt ; có 01 phòng hội đồng, 01phòng Hiệu Trưởng, 02 phòng phó Hiệu trưởng; 01 phòng văn thư, 01phòng tài vụ, 01phòng công đoàn; khu nhà vệ sinh giáo viên ở phía cuối. Tầng trệt gồm 02 phòng thí nghiệm thực hành lý, sinh , 01 phòng truyền thống, 01 phòng thuyền thống , 01 phòng đoàn TN, b) Khối phục vụ học tập: Là dãy kế tiếp 01 trệt 02 lầu, có 12 phòng gồm ( 01Hội trường, 02thư viện (01 phòng đọc), 02phòng kho thiết bị, 02 phòng máy chiếu dạy bằng công nghệ thông tin, 02phòng máy tính, 01 phòng thí nghiệm hoá, 02 phòng học) c) Khối học tập: Dãy tiếp theo gồm 01 trệt 02 lầu gồm 21 phòng học, khu vệ sinh kèm theo vào cuối 3 tầng lầu. Với số lượng học sinh hàng năm đều tăng theo thông kê sau: Năm học 1996 – 1997 trường có 15 lớp với 668 học sinh Năm học 1997- 1998 trường có 17 lớp với 741 học sinh Năm học 1998- 1999 trường có 19 lớp với 875 học sinh Năm học 1999- 2000 trường có 24 lớp với 1.165 học sinh Năm học 2000- 2001 trường có 30 lớp với 1.383 học sinh Năm học 2005- 2006 trường có 38 lớp với 1.695 học sinh …….. 15 Năm học 2010 - 2011 trường có 39 lớp với 1705 học sinh Năm học 2011- 2012 trường có 38 lớp với 1593 học sinh Hàng năm số lượng học sinh tốt nghiệp THCS của 5 xã trên địa bàn bình quân khoảng 800 học sinh, song trường chỉ xét tuyển khoảng 585- 610 học sinh theo chi tiêu phân bổ của sở GD. Vì trường thiếu phòng học cho nên không thể đáp ứng được .Cho nên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến số học sinh còn lại phải đi học xa các trường dân lập cách xa khoảng 15 km trở lên.Tính từ thời điểm trường có từ 21 lớp trở lên đến nay đều học 2 ca. Hiện nay tăng thêm một số môn học khác như giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp, phụ đạo cho học sinh thì phòng học lại không đáp ứng đủ. Tình hình diễn biến các tệ nạn xã hội tác động không nhỏ đến đạo đức học sinh. 2) Về đội ngũ Tổng số CB, GV, CNV hiện nay là 96 người được chia ra như sau. Tổng Nữ Đảng Trình độ chuyên môn Trình độ lí luận Tuổi nghề số Viên nghiệp vụ chính trị Thạc Đại Cao Trung Cao Trung Sơ Trên dưới Sĩ học Đẳng cấp cấp cấp cấp 5 5 năm năm CBQL 3 1 3 01 2 0 0 1 0 0 2 01 Giáo 84 35 18 5 84 0 0 0 0 0 64 20 Viên Nhân 6 4 0 0 1 1 1 0 0 0 5 1 Viên a. Thuận lợi - Về cán bộ quản lý : Có 03 đồng chí 02 nam, 01nữ ( Ban giám hiệu tuổi đời còn trẻ) phẩm chất đạo đức tốt, năng lực chuyên môn vững vàng, nhiệt tình tận tụy trong công tác, làm việc có khoa học, biết phát huy tính dân chủ, sáng tạo của tập thể sư phạm nhằm tạo bầu không khí sư phạm thoải mái, hăng say trong công tác cho nên chất lượng dạy - học nề nếp kỷ cương học sinh được ngày được nâng lên . - Về đội ngũ giáo viên, công nhân viên: Đa số là trẻ, nhiệt tình trong công tác, có phẩm chất đạo đức tốt, lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, có lối sống lành mạnh, đoàn kết trong nội bộ, có ý chí phấn đấu vươn lên. 16 Hiện trường có 05 thạc sỹ, trong đó có 5 giáo viên đang học đến cuối năm 2012 sẽ vượt chỉ tiêu 10% giáo viên có trình độ thạc sĩ đây là một lợi thế rất lớn của nhà trường để từng bước nâng cao chất lượng. Đó cũng chính xuất phát từ tầm nhìn lớn của Hiệu Trưởng đã tạo mọi điều kết tốt nhất cho giáo viên phấn đấu để nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề, nguồn nhân lực có chất lượng cao trở thành phong trào thi đua trong mỗi giáo viên tự phấn đấu. Chi bộ nhà trường có 21 đảng viên đều là những tấm gương sáng, có bản lĩnh chính trị vững vàng luôn đi đầu trong mọi phong trào, thực sự là hạt nhân lãnh đạo mọi hoạt động của nhà trường. 3/ Về tổ chức đoàn thể. Gồm Tổ chức công đoàn, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Thanh niên việt Nam. * Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh: Năm học 1996 – 1997 có 15 chi đoàn với 215 Đoàn viên Năm học 1997- 1998 có 17 chi đoàn với 388 Đoàn viên Năm học 1998- 1999 có 19 chi đoàn với 575 Đoàn viên Năm học 1999- 2000 có 24 chi đoàn với 662 Đoàn viên Năm học 2000- 2001 có 30 chi đoàn với 784 Đoàn viên Năm học 2005- 2006 có 38 chi đoàn với 1.055 Đoàn viên …….. Năm học 2010- 2011 có 40 chi đoàn với 1442 đoàn viên / 1676 Tổng số học sinh. Năm học 2011- 2012có 39 chi đoàn ( 1 chi đoàn GV) với tổng số: 1482 đoàn viên / 1953 Tổng số học sinh Hoạt động nhịp nhàng và có hiệu quả, tiêu biểu đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh với bộ máy tổ chức luôn được kiện toàn. Ban chấp hành gồm 15 đ/c, Tổng số chi đoàn 39 trong đó 01 chi đoàn giáo viên giữ vai trò nòng cốt.Từ năm 2002 đến nay luôn đạt danh hiệu đoàn cơ sở vững mạnh và là ngọn cờ đầu của huyện đoàn Định Quán. Trong nhiều năm liền đoàn trường được Huyện Đoàn- Tỉnh Đoàn tặng bằng khen, giấy khen và các phần thưởng cao quý khác.Từ những thành quả đã đạt được cho thấy đoàn trường có vai trò hết sức to lớn trong công tác giáo dục đạo đức cách mạng, giáo dục truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc cho ĐVTN góp phần xây dựng nề nếp kỷ cương, tình thương trách nhiệm trong nhà trường luôn được giữ vững ổn định và phát triển bền vững. b. Khó khăn Diện tích khuôn viên trường chật hẹp chỉ có 90.063 m 2 / 1593 HS( thiếu ½ tổng diện tích).Sân chơi bãi tập hết sức khiêm tốn, nên trong hoạt động phong trào, ngoài giờ lên lớp luôn gặp không ít khó khăn. Đội ngũ giáo viên đa số là trẻ, tuổi đời từ 22 đến 35 chiếm khoảng 70 % nên kinh nghiệm chưa nhiều trong giảng dạy và giáo dục đạo đức cho học sinh. Đời 17 sống của giáo viên còn gặp nhiều khó khăn nên phần nào cũng ảnh hưởng không nhỏ đến công tác giảng dạy . Đa số học sinh của trường đều sống ở nông thôn, kinh tế gia đình có nhiều khó khăn và đặc biệt việc đầu tư cho con em học tập của các bậc phụ huynh chưa được quan tâm đúng mức, nhận thức chưa sâu việc phối kết hợp với nhà trường để giáo dục đạo đức cho học sinh. 4. Tình hình đạo đức học sinh: - Cuối học kỳ I năm học 2011-2012 so với năm học trước có nhiều tiến bộ. 4.1. Veà Haïnh kieåm: Khối Tổng số HS Xếp loại Tốt Khá TB Yếu Kém 10 626 434 105 44 43 11 481 350 75 37 19 12 486 361 89 24 12 Tổng 1593 1145 269 105 74 Tỷ lệ 71,9% 16,9% 6.6% 4.6% 0 + Xếp loại tốt: So cùng kỳ năm trước tăng 1,5 % + Xếp loại khá: So cùng kỳ năm trước tăngg 1.5%; + Xếp loại TB: So cùng kỳ năm trước không tăng 1.9%; + Xếp loại yếu: So cùng kỳ năm trước giảm 1.1%; Qua thống kê cho thấy. Tính đến cuối học kỳ I hạnh kiểm học sinh loại yếu và trung bình khối 10,11 mặc dù có giảm so với năm học trước nhưng vẫn còn cao. Điều này phản ánh độ tuổi phát triển tâm sinh lý học sinh khối 10,11 vẫn còn có những suy nghĩ, hiểu biết hành động nông nổi. Nên các biện pháp giáo dục của nhà trường, của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm và đoàn TN thật sử hiểu về tâm lý, khoa học và công tác phối hợp giáo dục với gia đình, phải kịp thời, nhịp nhàng nhằm tìm ra biện pháp khắc phục: Học sinh sa sút về đạo đức biểu hiện như sau: - Nhiễm phim ảnh bạo lực, gaem - Tập tành hút thuốc, uống rượu bia - Vấn đề gây xôn xao, dư luận trong xã hội về bạo lực học đường - Ỷ lại gia đình khá giả, mang tư tưởng ăn chơi hưởng thụ - Hỗn xược với cha mẹ và người thân - Tham gia các trò chơi vô bổ gây lãng phí thời gian và tiền bạc ( trò chơi điện tử) - Vi phạm trật tự an toàn giao thông - Gây gỗ đánh nhau trong và ngoài trường. - Vắng học không lý do Kết quả trong học kỳ I năm học 2011-2012 hội đồng kỷ luật nhà trường phải tiến hành kỷ luật tới 6 vụ việc học sinh vi phạm nội quy nhà trường như đánh nhau, phá hoại tài sản nhà trường.. 18 Bởi thế việc giáo dục đạo đức học sinh chỉ có hiệu quả khi giáo viên chủ nhiệm làm việc tích cực khoa học và có sự phối hợp nhà trường, gia đình, ban ĐDCMHS được hiệu trưởng chú trọng, quan tâm chỉ đạo kịp thời. Đến cuối năm học 2011-2012 kết quả bảng thống kê cho thấy đã mang lại kết quả tiến bộ. 5. Đội ngũ giáo viên, đặc biệt là GV chủ nhiệm( GVCN); Đội ngũ giáo viên có kinh nghiệm chỉ chiếm một số ít, còn lại đa số GVCN trẻ tuổi đời, tuổi nghề. Nên việc xử lý học sinh vi phạm còn gặp nhiều lúng túng chưa có nhiều kinh nghiệm. Công tác phối hợp với gia đình phụ huynh học sinh chưa kịp thời, chặt chẽ, hoặc chưa hiểu sâu vai trò, hiệu quả của sự phối hợp. Nắm bắt tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh chưa sâu sắc, thiếu sự động viên chia sẻ thực sự đối với học sinh có hiện tượng hư hỏng cần được sự cảm hóa học sinh. GV bộ môn thì có tư tưởng học sinh sai phạm là trách nhiệm của của GVCN và nhà trường cho nên vào lớp chỉ biết giảng dạy thiếu thời gian giáo dục tư tưởng, phẩm chất cho học sinh.Đối vời GVCN thì tiết sinh hoạt lớp hàng tuần chủ yếu là xử và phạt thiếu đi vai trò giáo dục tư tưởng uốn nắn động viên học sinh và phối hợp với phụ huynh học sinh để cùng nhau giáo dục học sinh. Trong năm học 2011-2012 nhà trường thực hiện giải pháp phân loại đối tượng học sinh để đầu tư dạy phụ đạo cho học sinh yếu, vì thiếu phòng học nên nhà trường không thể tổ chức học hai buổi đại trà cho tất cả học sinh. Cho nên trong công tác giảng dạy và chủ nhiệm các lớp yếu giáo viên gặp không ít khó khăn thách thức.Từ tình hình đó Hiệu trưởng phải tìm các giải pháp trong quản lý công tác chủ nhiệm để có hiệu quả. II. THỰC TRẠNG HIỆU TRƯỞNG SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ TRONG CHỈ ĐẠO GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM Ở TRƯỜNG THPT ĐIỂU CẢI. 1.Sử dụng phương pháp tổ chức hành chính: Vào đầu năm học Hiệu trưởng nhà trường căn cứ khả năng của đội ngũ giáo viên mà phân công làm công tác chủ nhiệm trong năm học mới từ khối 10 đến khối 12. Tuy nhiên, như đã nói ở trên trường THPT Điểu Cải với đội ngũ Giáo viên đa số là trẻ, kinh nghiệm làm công tác chủ nghiệm chưa nhiều. Bởi vậy việc phân công giáo viên làm chủ nhiệm đòi hỏi người hiệu trưởng phải hết sức cân nhắc, thận trọng đặt đúng người và thực tế đòi hỏi các giáo viên làm chủ nhiệm phải có kinh nghiệm đối với một số lớp yếu, phải là các giáo viên nhiệt tình, có khả năng giáo dục, kiên trì, chịu khó. Bên cạnh đó, hiệu trưởng nhà trường căn cứ kết quả công tác chủ nhiệm của năm trước cũng như tâm tư nguyện vọng của phụ huynh và tình hình thực tế của nhà trường mà phân công giáo viên làm công tác chủ nhiệm. Khi đã hình thành danh sách giáo viên chủ nhiệm lớp, hiệu trưởng tổ chức học tập quán triệt chức năng và nhiệm vụ người giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông, biên chế tổ 19 chức công tác chủ nhiệm trong trường. Tổ trưởng tổ chủ nhiệm là đồng chí hiệu trưởng. Mỗi khối lớp có một nhóm trưởng nhóm chủ nhiệm (trong số GVCN có uy tín và năng lực). Thông qua báo cáo của nhóm trưởng nhóm chủ nhiệm, nhà trường nắm được tình hình đạo đức của học sinh nói chung và những học sinh cá biệt nói riêng, tình hình thực hiện các chủ trương, biện pháp giáo dục học sinh của tập thể giáo viên, nhờ vậy nhà trường nắm được tình hình dạy và học của giáo viên và học sinh.Thanh tra được các lượng thông tin cũng như nắm được tình hình chuyên cần, chăm chỉ, chất lượng học tập của học sinh. Hiệu trưởng trực tiếp chỉ đạo tổ giáo viên chủ nhiệm: Có kế hoạch sinh hoạt giữa hiệu trưởng và tập thể giáo viên chủ nhiệm định kỳ hàng tháng và thống nhất được các chủ trương, biện pháp lớn của nhà trường về công tác giáo dục của nhà trường. Các giáo viên chủ nhiệm lớp có trách nhiệm báo cáo cụ thể kết quả giáo dục học sinh về các mặt cho Ban giám hiệu nhà trường. Từ giáo dục đạo đức, văn hóa, lao động và rèn luyện thân thể theo kế hoạch định kỳ hàng tháng mà hiệu trưởng đã định trong kế hoạch. Mặt này có ưu điểm là nhà trường có biện pháp kịp thời cùng với giáo viên chủ nhiệm, gắn kết hợp chặt chẽ trong việc giáo dục toàn diện cho học sinh. Bên cạnh đó vẫn còn một số điểm cần khắc phục. Việc phân công làm chủ nhiệm lớp vẫn còn tình trạng cảm tính, thiếu nghiên cứu cặn kẽ có khoa học đối với đội ngũ giáo viên. Chưa thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, việc phân công mới dự kiến trong lãnh đạo nhà trường mà không có thực hiện bàn bạc trong liên tịch. Bởi công việc phân công giáo viên cốt cán có năng lực phẩm chất tốt làm giáo viên chủ nhiệm các lớp yếu chưa phải là phương án tối ưu . Sinh họat định kỳ về công tác chủ nhiệm đôi lúc như cái máy, gò bó, rập khuôn. Không phát huy tính năng động sáng tạo của giáo viên chủ nhiệm, chưa thấy hết các tình huống phức tạp của công tác giáo dục tòan diện học sinh. Cụ thể là thiếu các biện pháp linh họat, chưa minh họa các tình huống giáo dục cá biệt rồi sử dụng các phương pháp để giải quyết tình huống xảy ra. Công tác kế thừa bàn giao còn hình thức, không thể hiện sự liên tục của công tác giáo dục học sinh. Cụ thể giáo viên : Nguyễn văn A làm chủ nhiệm lớp 10B1, năm học mới nhà trường phân công giáo viên Nguyễn Văn B làm chủ nhiệm lớp 11B1 thì việc bàn giao của hai giáo viên chỉ thể hiện hình thức, qua loa, đại khái, chưa thể hiện được tính liên tục, kế thừa của sự nghiệp giáo dục. Nhà trường vẫn chưa phân lọai các đối tượng cho thật hợp lý, khoa học trước khi phân công giáo viên chủ nhiệm các khối lớp đầu cấp, chỉ căn cứ danh sách phân bố đều chất lượng cho các lớp chứ không chú ý đến các mặt khác cụ thể như địa bàn, cùng trường cũ, lớp cũ do đó giáo viên chủ nhiệm lớp hầu như phải làm mới hòan tòan. * Một số giải pháp chủ yếu đổi mới phương pháp tổ chức hành chính. - Trước tiên cần sửa đổi bổ sung hoàn chỉnh quy chế hoạt động của nhà trường cụ thể là quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường. Có như vậy 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng