- 1 -
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MÔN TẬP ĐỌC LỚP 4
Giáo viên thực hiện: Nguyễn Phương Lan
- 2 -
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Từ ngày cắp sách đến trường, các em đã được làm quen với những con chữ thân
thương: o, a, ă, â... rồi vần oa, vần ương để đến cuối lớp một các em có thể đọc trơn từ,
tiếng, câu, đoạn, để các em có thể say mê dần với những đoạn, những bài, những câu
chuyện văn học đầy bổ ích và lý thú.
Phân môn Tập đọc rèn cho các em các kỹ năng đọc, nghe và nói. Tuy vậy, khi
học hết lớp 3, các em vẫn chỉ dừng lại ở yêu cầu đọc hay là cao nhất. Khi lên lớp bốn
việc luyện đọc bắt đầu chú ý đến yêu cầu biểu cảm, câu hỏi tìm hiểu bài, chú trọng khai
thác hàm ý về nghệ thuật và biểu hiện nhiều hơn. Phân môn Tập đọc lớp Bốn đã chú
trọng đến yêu cầu rèn luyện đọc diễn cảm (thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng đọc
phù hợp với sự việc, hình ảnh, cảm xúc trong bài). Biết đọc diễn cảm văn bản sẽ giúp
các em có khả năng cảm thụ văn bản tốt hơn, từ đó càng thêm yêu thích môn học Tiếng
Việt môn học đem đến biết bao vẻ đẹp, niềm vui và hứng thú.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp bốn là
việc làm khó , mất nhiều thời gian và công sức. Để đọc diễn cảm được một văn bản
nghệ thuật yêu cầu học sinh phải:
- Đọc đúng: phát âm đúng, ngắt nghỉ đúng.
- Đọc hay: thể hiện được ngữ điệu từng câu, từng đoạn.
- Đọc diễn cảm: ngắt giọng biểu cảm, nhấn giọng hoặc kéo dài giọng, đọc
đúng giọng của nhân vật nhằm thể hiện tình cảm, thái độ của tác giả cũng như bản
thân.
Như vậy, đọc diễn cảm là hình thức đọc cao nhất mà người đọc phải thổi đựơc
cái hồn của tác phẩm vào từng câu, từng chữ. Vậy làm thế nào để rèn đọc diễn cảm cho
học sinh lớp 4, cần sử dụng những hình thức, biện pháp nào để luyện đọc tốt trong các
giờ lên lớp,…đó là lý do thúc đẩy tôi nghiên cứu đề tài này
2. Mục đích nghiên cứu.
Thông qua đề tài này, bản thân tôi hi vọng tìm ra được những biện pháp hữu
hiệu nhằm thực hiện việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp bốn trường Tiểu
- 3 -
học Nghĩa Đô, nâng cao chất lượng dạy và học môn Tập đọc, thực hiện mục tiêu đổi
mới dạy và học có hiệu quả.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3. 1. Đối tượng nghiên cứu:
Trong đề tài này, đối tượng nghiên cứu là “ Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc
diễn cảm cho học sinh lớp bốn”
3.2. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài được nghiên cứu và hoàn thành trên chương trình phân môn Tập đọc của
môn Tiếng Việt 4.
Do thời gian có hạn nên phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ dừng lại ở việc điều tra
việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm ở lớp 4A, trường Tiểu học Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy
(thời gian từ 15/ 9/ 2007 đến 20/ 3/ 2008).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
4.1. Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
4.2. Phân tích lý thuyết và những số liệu thu thập được trong quá trình khảo sát
thực trạng ở khối lớp bốn của trường Tiểu học Nghĩa Đô.
4.3. Đề xuất được những biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng dạy và
học môn Tập đọc nói chung, việc rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp bốn
trường Tiểu học Nghĩa Đô nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Kết hợp nhiều phương pháp và nhóm phương pháp nghiên cứu:
5.1. Một số phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
5.2. Một số phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
5.2.1.Phương pháp quan sát.
5.2.2. Phương pháp điều tra.
5.2.3. Phương pháp chuyên gia.
5.3. Một số phương pháp dạy học tích cực.
5.3.1 – Trò chơi học tập.
5.3.2 - Hoạt động nhóm.
- 4 -
5.3.3 - Đóng vai.
5.3.4 – Vấn đáp.
5.3.5 – Phát hiện và giải quyết vấn đề.
5.3.6 – Quan sát
Nội Dung
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
1.1. Mục tiêu của phân môn Tập đọc.
1.1.1. Mục tiêu chung.
Phân môn Tập đọc rèn cho học sinh các kỹ năng đọc, nghe, nói. Thông qua hệ
thống bài học theo chủ điểm và những câu hỏi tìm hiểu bài, phân môn Tập đọc cung
cấp cho học sinh hiểu biết về thiên nhiên, xã hội , con người cung cấp vốn từ, Tăng
cường khả năng diễn đạt, trang bị một số hiểu biết ban đầu về tác phẩm văn học ( Như
đề tài, cốt truyện, nhân vật, ...)
Và góp phần rèn luyện nhân cách cho học sinh.
1.1.2.Mục tiêu phân môn Tập đọc lớp 4.
Cũng như các lớp dưới, phân môn Tập đọc lớp 4 bên cạnh việc thực hiện mục tiêu
chung còn thực hiện một số các mục tiêu:
1.1.2.1. Củng cố nâng cao kỹ năng đọc cho học sinh:
Thông qua 62 bài tập đọc (SGK TV 4 – hai tập) thuộc các loại hình văn bản
nghệ thuật, báo chí, khoa học, trong đó có 54 bài văn xuôi, một vở kịch, 17 bài thơ,
phân môn Tập đọc lớp 4 tiếp tục củng cố, nâng cao kỹ năng đọc trơn, đọc thầm, đã
được phát triển từ các lớp dưới, đồng thời rèn luyện thêm về kĩ năng diễn cảm. Nâng
cao kĩ năng đọc hiểu văn bản cụ thể là:
+ Nhận biết đựợc đề tài, cấu trúc của bài.
+ Biết cách tóm tắt bài, làm quen với thao tác đọc lướt để nắm ý.
- 5 -
+ Phát hiện được giá trị của một số biện pháp nghệ thuật trong các văn bản văn
chương.
1.1.2.2. Mở rộng vốn hiểu biết, bồi dưỡng tư tưởng tình cảm, nhân cách cho
học sinh.
Nội dung các bài Tập đọc trong sách Tiếng Việt 4 phản ánh một số vấn đề cơ
bản về đạo đức, phẩm cách, sở thích, thú vui lành mạnh... của con người thông qua
ngôn ngữ văn học, những hình tượng giàu chất thẩm mĩ và nhân văn do đó có tác dụng
sâu sắc giáo dục tư tưởng, tình cảm và trau rồi nhân cách cho học sinh. Hệ thống chủ
điểm của các bài Tập đọc vừa mang tính khái quát, vừa mang tính hình tượng, góp
phần cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội, con người trong
nước và trên thế giới. Qua các bài tập đọc, học sinh còn được cung cấp thêm về vốn từ
ngữ, vốn diễn đạt những hiểu biết về tác phẩm văn học, từ đó nâng cao trình độ văn
hoá nói chung và trình độ Tiếng Việt nói riêng.
1.1.2.3.Một số mục tiêu cụ thể của môn phân môn Tập đọc lớp 4
- Biết cách đọc các loại văn bản hành chính, khoa học, báo chí, văn học, phù
hợp với thể loại và nội dung văn bản, thể hiện đựoc tình cảm, thái độ của tác giả, giọng
điệu của nhân vật.
- Đọc thầm có có tốc độ nhanh hơn lớp 3.
- Biết cách xác định ý nghĩa, chia đoạn văn bản, nhận ra mối quan hệ giữa các
nhân vật, sự kiện, tình tiết trong bài, biết nhận xét về một số hình ảnh, nhân vật trong
các bài tập đọc có giá trị văn chương.
- Biết cách sử dụng từ điển học sinh, có thói quen ghi chép các thông tin đã học,
thuộc lòng một số bài văn, bài thơ.
1.2. Mục tiêu của việc rèn kỹ năng đọc diễn cảm
1.2.1. Về kiến thức:
- Nắm được cách rèn kỹ năng đọc diễn cảm.
- Có phương pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm.
1.2.2. Về kỹ năng:
- 6 -
- Thực hiện được việc rèn kỹ năng đọc diễn cảm đúng nội dung và phương
pháp.
- Có kĩ năng đọc diễn cảm tốt, truyền tải đựơc nội dung và tình cảm của bài đọc.
1.2.3. Về thái độ.
- Có ý thức rèn kỹ năng đọc diễn cảm.
1.3. ý nghĩa của một số biện pháp rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh
lớp 4.
Trong những năm qua, ngành giáo dục Thủ đô đã phát động và thu được những
kết quả tốt đẹp từ phong trào Đổi mới phương pháp dạy học. Những phương pháp dạy
học tích cực được giáo viên ứng dụng đem lại hiệu quả cao cho các giờ dạy và học.
Tìm hiểu, nghiên cứu một số biện pháp rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4
trường Tiểu học Nghĩa Đô là việc làm thể hiện sự đổi mới trong công tác giảng dạy
góp phần làm cho phong trào đổi mới phương pháp dạy học ngày càng rộng rãi thường
xuyên, có hiệu quả.
Làm tốt công tác rèn học sinh kỹ năng đọc diễn cảm nhằm nâng cao chất lượng
dạy và học môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập đọc nói riêng, bồi dưỡng cho
học sinh khả năng cảm thụ văn học, yêu môn văn – môn học làm người.
Chương 2: Cơ sở thực tiễn
2.1. Đặc điểm chung của trường Tiểu học Nghĩa Đô
Trường Tiểu học Nghĩa Đô chúng tôi là một trường nằm trong phường Nghĩa
Đô, trường có đội ngũ giáo viên 100% đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn, luôn luôn
nhiệt tình và tìm tòi trong công tác giảng dạy.
Trong những năm gần đây với chủ trương chung về việc đổi mới phương pháp
dạy học, cán bộ giáo viên tiếp thu và vận dụng nhanh chóng đạt hiệu quả. Đặc biệt
trong việc tổ chức dạy học theo hướng “tiếp cận học sinh”, lấy học sinh làm trung tâm,
đã được mọi giáo viên nghiên cứu và tổ chức thực hiện trong giờ lên lớp, chính vì thế
kết quả dạy học ngày càng được nâng cao.
- 7 -
2.2.Tiến hành khảo sát chất lượng Lớp 4
2.2.1. Yêu cầu về đọc diễn cảm.
- Để đọc được một văn bản nghệ thuật yêu cầu bản thân người đọc trước tiên
phải đọc đúng( trôi chảy, lưu loát, phát âm đúng, ngắt nghỉ đúng), đọc hay (thể hiện
được ngữ điệu của từng câu, từngđoạn).
- Đọc diễn cảm yêu cầu người đọc thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng phù hợp
với sự việc, hình ảnh, cảm xúc, tính cách nhân vật trong bài.
- Với học sinh lớp 4, yêu cầu bước đầu làm chủ được giọng đọc sao cho đúng
ngữ điệu, tốc độ, cao độ, trường độ và âm sắc nhằm diễn tả đúng nội dung đọc.
2.2.2. Kết quả khảo sát đầu tháng 9 năm 2007.
2.2.2.1. Đọc đúng:
Đa số học sinh lớp 3 lên lớp 4 của lớp có khả năng đọc đúng tốt. Tuy nhiên còn
một số học sinh phát âm còn chưa chính xác hai phụ âm đầu 1 – n hoặc nhầm lẫn giữa
dấu ngã và dấu sắc, đặc biệt là một số em phát âm còn sai.
2.2.2.2. Đọc hay:
Một số học sinh sau khi học xong lớp 3 đã có kỹ năng đọc hay tương đối tốt.
Đây là lực lượng nòng cốt trong việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm. Số học sinh đọc đúng
nhiều nhưng số học sinh đọc hay chưa nhiều và vẫn còn nhiều học sinh đọc chưa đúng.
2.2.3.3. Kết quả điều tra khảo sát đầu tháng 9.
Thông qua kiểm tra đọc, kết quả thu đựơc như sau:
Sĩ số
HS đọc lẫn âm vần
Hs đọc ngọng
HS ngắt, nghỉ hơi tuỳ tiện
24
2
2
2
Qua thực tế, tôi nhận thấy chất lượng phân môn Tập đọc của khối lớp 3 tương
đối tốt, đây là tiền đề thuận lợi cho việc phát triển rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm ở
lớp 4.
Tuy nhiên, tình hình thực tế của mỗi lớp một khác nên việc rèn đọc diễn cảm ở
mỗi lớp không thể cứng nhắc giống nhau nên cần xác định mục tiêu cụ thể của từng
giai đoạn rèn đọc diễn cảm cho phù hợp.
- 8 -
Chương 3: Giải pháp
3.1. Đọc mẫu
Trong từng giai đoạn, việc làm mẫu có thể diễn ra lúc này hay lúc khác. song
theo tôi làm mẫu là một trong những biện pháp dạy học có tác dụng tốt cho học sinh
Tiểu học nói chung và cho học sinh lớp bốn nói riêng. Chúng ta ai cũng biết rằng:
“Trong giảng dạy Tập đọc, nếu giáo viên chỉ đọc mẫu thôi cũng đã dạy cho học sinh
được rất nhiều”. Quả đúng như vậy, muốn cho học sinh đọc tốt thì trước hết giáo viên
phải biết cách đọc đúng và đọc tốt, bởi vì họ là những người thầy đầu tiên đặt nền
móng và trang bị cho trẻ em ý thức về chuẩn ngôn ngữ và chuẩn văn hoá của lời nói.
Xét về tầm quan trọng đó, ngay từ khi còn học trường sư phạm tôI đã ý thức quan tâm
đến cách phát âm của mình, tự quan sát, tự đánh giá “xét nét” hơn đến cách nói , cách
đọc của mình để dạy học có hiệu quả. để sử dụng biện pháp này có hiệu quả trong
luyện đọc, tôI đã xác định rõ mục đích, tác dụng của việc đọc mẫu.
- Đọc toàn bài: Tôi thường tiến hành sau khi luyện đọc củng cố, trước khi tìm
hiểu bài và luyện đọc diễn cảm để vừa chốt lại hoạt động trước vừa định hướng tiếp
cho các hoạt động tiếp sau vì thế hiệu quả sư phạm sẽ cao hơn.
- Đọc câu, đoạn: thường nhằm để minh hoạ, hướng dẫn, gợi ý hoặc để “tạo tình
huống” giúp hs nhận xét giải thích, tự tìm ra cách đọc.
Ví dụ: Phát hiện cách đọc của thầy , cô đã ngừng , nghỉ (ngắt nhịp) ở chỗ nào,
nhấn giọng hay cao giọng, kéo dài giọng ở từ nào,… Vì sao khi đọc câu thơ có dấu
chấm hỏi:
“Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ, nên thành tre ơi ?”
Trong bài thơ Tre Việt Nam ( Tiếng Việt 4- tập 1- trang 41), cô chỉ cần nhấn
giọng ở các từ “luỹ”, “thành” mà không cần đọc cao giọng ở tiếng cuối câu hỏi?
- 9 -
- Đọc từ, cụm từ: thường nhằm luyện sửa phát âm sai và rèn đọc đúng cho học
sinh, phân biệt cách đọc dễ lẫn (do đặc điểm phương ngữ) dẫn đến viết sai chính tả
khiến người khác hiểu sai nghĩa khi nghe đọc… Do vậy, cũng như khi đọc ”câu, đoạn”
tôi thường đọc “từ, cụm từ” để hướng dẫn trong quá trình luyện đọc. Ví dụ trong bài
Thắng biển ( tiếng Việt lớp 4 – tập 2- trang 70) tôi thường hướng dẫn học sinh đọc
đúng các từ sau: lan rộng, nuốt tươi, vật lộn, giận dữ… hoặc luyện đọc cụm từ: lên cơn
loạn óc, rút soạt dao ra, lăm lăm chực đâm trong bài Khuất phục tên cướp biển.
3.2. Các biện pháp luyện đọc:
3.2.1. Đọc thành tiếng
3.2.1.1. Đọc đúng.
Việc củng cố kĩ năng đọc đúng cho học sinh là hết sức quan trong. để đọc diễn
cảm được, trước tiên học sinh phải đọc đúng. Củng cố kĩ năng đọc đúng cho học sinh
và hướng dẫn rèn đọc đúng cho số học sinh còn phát âm sai các phụ âm đầu 1 – n hoặc
nhầm lẫn giữa dấu ngã và dấu sắc ( như khảo sát thực trạng) là nhiệm vụ của mỗi giáo
viên phụ trách lớp cần xác định rõ.
- Đối với những học sinh còn phát âm sai các phụ âm đầu 1 – n hoặc nhầm
lẫn giữa dấu ngã và dấu sắc.
Những học sinh này đọc sai nên cũng thường viết sai. để sửa lỗi sai cho những
học sinh này cần:
+Xác định nguyên nhân sai:
Qua trao đổi cùng đồng nghiệp trong các buỏi sinh hoạt chuyên môn, tôi nhận
thấy nguyên nhân của hiện tượng phát âm sai này là do ảnh hưởng của tiếng địa
phương.
+ Cách sửa
Mặc dù các em đã được giáo viên các lớp 1,2,3 tận tình uốn nắn nhưng lên lớp 4
các em vẫn phát âm sai thì sửa phát âm cho những học sinh này là rất khó, đòi hỏi mỗi
giáo viên phải kiên trì, rèn cho các em không chỉ trong giờ tập đọc mà cần uốn nắn
ngay khi nghe các em đó phát âm sai, nhắc nhở nhẹ nhàng, hướng dẫn cách đặt lưỡi,
- 10 -
cách phát âm chuẩn, tránh chế giễu để các em mặc cảm. thấy học sinh tiến bộ phải
động viên kịp thời.
- Đối với những học sinh sai ở lỗi ngắt nhịp.
Những học sinh này phát âm không sai nhưng ngắt nhịp tuỳ tiện nên kết quả đọc
lên nghe sai ý nghĩa.
- Nguyên nhân:
+ Thói quen đọc nhát gừng: ngắt nhịp tuỳ tiện sau khi đọc một vài từ ngữ.
+ Nắm chưa chắc cấu tạo của từ, câu.
- Cách sửa:
+ Yêu cầu các học sinh này luyện đọc nhiều, nếu cần giáo viên chủ nhiệm hoặc
cán sự bộ môn sẽ ngắt nhịp mẫu để học sinh đó luyện đọc theo.
+ Củng cố kiến thức môn luyện từ và câu để các em học sinh đó nắm được cấu
tạo của từ, của câu. Hướng dẫn cách ngắt nhịp lôgic để học sinh nắm được cách ngắt
nhịp cơ bản.
Ví dụ: Em Nguyễn Văn Quân còn mắc lỗi đọc nhát gừng nên khi đọc câu: “Mọi
người đều sững sờ vì lời thú tội của Chôm.” em đã ngắt giọng như sau:
“ Mọi người
đều sững/ sờ vì lời thú tội của Chôm.”
+ Cách sửa:
- Cho học sinh nhận xét để phát hiện ra lỗi sai của em Văn Quân.
- Yêu cầu học sinh phát hiện ra lỗi sai đó giải thích vì sao sai? ( Sững sờ là một
từ nên khi đọc không được tách đôi). Để em Văn Quân hiểu rõ hơn, cần giúp em nhận
thấy:
- “Sững sờ” là một từ láy thể hiện trạng thái quá bất ngờ xen lẫn lo lắng của mọi
người khi nghe Chôm tâu với vua nên khi đọc phải đọc liền hai tiếng và nhấn giọng
vào từ này để thể hiện ý đồ của tác giả.
- Nếu tách riêng sững / sờ thì cả hai tiếng này đều không mang nét nghĩa chung.
- Yêu cầu em Văn Quân đọc lại câu văn cho đúng nhịp:“ Mọi người đều sững
sờ / vì lời thú tội của Chôm.”Sau nhiều lần kiên trì sửa, em Văn Quân đã có nhiều tiến
bộ, bỏ dần thói quen đọc, nói nhát gừng và tự tin hơn mỗi khi đọc bài.
- 11 -
Khi dạy luyện đọc đúng cho học sinh, cần hết sức chú ý tới trình tự luyện đọc
đúng. Cần giúp học sinh biết cách ngắt hơi cho phù hợp với các dấu câu : nghỉ ít ở dấu
phẩy, nghỉ lâu hơn ở các dấu chấm và đọc đúng các ngữ điệu câu: lên giọng ở các câu
hỏi, hạ giọng cuối câu kể, thay đổi giọng đọc cho phù hợp với tình cảm cần diễn đạt
trong câu cảm… Và một điều quan trọng trong quá trình luyện đọc là giáo viên cần “
biết nghe học sinh đọc” để có cách dạy thích hợp với từng học sinh khi đọc cá nhân. Ví
dụ: với học sinh đọc kém do chưa đạt “chuẩn” ở lớp dưới, tôi đã kiên trì giúp đỡ và
phụ đạo thêm, không “bỏ qua” cũng không “nôn nóng” đòi hỏi ráo riết phải đọc đúng
ngay tại lớp, hay với những hs chưa đạt yêu cầu do còn thiếu ý thức hoặc do còn ảnh
hưởng của thói quen “ê a, liến thoắng…” tôi đã chỉ rõ những hạn chế và tìm cách giúp
đỡ học sinh khắc phục.
3.2.1.2. Đọc nhanh.
Đọc nhanh còn gọi là đọc lưu loát, trôi chảy. Khi đọc cho người khác nghe,
người đọc phải để cho người nghe kịp hiểu. Vì vậy học sinh cần hiểu đọc nhanh không
có nghĩa là đọc liến thoắng. Để làm được điều đó cần hướng dẫn học sinh cách làm chủ
tốc độ đã định. Đơn vị luyện đọc nhanh là cụm từ, câu, đoạn, bài. Giáo viên phải biết
theo dõi tốc độ đọc của học sinh. Ngoài ra, biện pháp đọc tiếp nối trên lớp, đọc nhưng
có sự kiểm tra của thầy, nhận xét của bạn cũng góp phần điều chỉnh tốc độ.
Tốc độ còn phụ thuộc vào độ khó của bài đọc và thể loại văn bản. Những bài có
nội dung khó hiểu hay cần diễn tả đặc điểm giọng của nhân vật cần đọc chậm hơn
những bài có nội dung đơn giản. Ví dụ trong bài: Khuất phục tên cướp biển ( Tiếng
Việt 4- tập 2- trang 68), cần hướng dẫn học sinh đọc giọng quát lớn, cục cằn, hung dữ
của tên cướp biển, còn câu trả lời, câu nói của bác sĩ Ly thì điềm tĩnh, đầy sức thuyết
phục.
Tốc độ còn phụ thuộc vào thể loại. đối với thể loại thơ cần đọc chậm hơn thể
loại văn xuôi.
Khi đọc nhanh, học sinh thường hay bị đọc nhịu, đọc vấp. Vì vậy giáo viên cần
hướng dẫn học sinh cách ngắt, nghỉ cho đúng và chỗ nào cần đọc nhanh, chỗ nào cần
đọc giọng kể bình thường.
- 12 -
Ví dụ: Khi dạy bài Thắng biển( Tiếng Việt 4- tập 2- trang 76), tôi hướng dẫn
học sinh đọc toàn bài với giọng hối hả, gấp gáp, căng thẳng nhưng câu cuối bài đọc với
giọng tự hào.
3.3.Đọc thầm.
Đọc thầm là hình thức đọc không phát ra âm thanh mà chuyển trực tiếp kí tự
sang nghĩa để hiểu một văn bản. Vì vậy, khi nói về dạy đọc hiểu cần phải nói đến việc
tổ chức dạy đọc thầm.
Sự thực thì đọc thầm có ưu thế hơn hẳn đọc thành tiếng ở chỗ nó đọc nhanh hơn đọc
thành tiếng từ 1,5 đến 2 lần. Nó có ưu thế hơn hẳn để tiếp nhận thông hiểu nội dung
văn bản vì khi đọc người ta không chú ý đến việc phát âm mà chỉ tập trung để hiểu nội
dung mà mình đọc. Vì thế để phát huy những lợi thế của việc đọc thầm trong việc
luyện đọc và học thuộc lòng tốt, tôi đã áp dụng các biện pháp sau:
- Chuẩn bị tư thế.
- Tổ chức quá trình đọc thầm cho học sinh.
Điều quan trọng là giáo viên phải giao kèm nhiệm vụ nhằm định hướng đọc
hiểu.
Ví dụ: khi dạy bài Những hạt thóc giống (Tiếng Việt 4- tập 1- trang 4), tôi yêu
cầu học sinh đọc thầm toàn bài và cho biết: Nhà vua chọn người như thế nào để truyền
ngôi? Hoặc khi dạy bài Ông Trạng thả diều (Tiếng Việt 4- tập 1- trang 154), tôi cũng
yêu cầu học sinh đọc thầm toàn bài và cho biết: Ông Trạng thả diều là ai?
Đọc thầm giúp học sinh tập trung suy nghĩ, do dó thường được luyện tập nhiều
ở các bước tìm hiểu bài. và khi đã hiểu được nội dung bài thì các em sẽ biết cách đọc
diễn cảm.
3.4.Đọc diễn cảm.
Đọc diễn cảm là khả năng làm chủ được ngữ điệu, làm chủ được các thông số
âm thanh như: tốc độ, tần số, chỗ ngừng đọc, cường độ, cao độ của giọng… để diễn đạt
đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài đọc, đồng thời thể hiện sợ
thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm. Khác với các lớp 2, 3 ở lớp 4 việc
đọc diễn cảm là một yêu cầu trong các bài Tập đọc. Nhưng đọc diễn cảm không phải
- 13 -
đọc tuỳ theo ý thích chủ quan của người đọc, không phảI đọc thiếu tự nhiên, cũng
không phải là đọc có tính chất “kịch”. Đọc diễn cảm được quy định bởi cảm xúc của
bài đọc, cho nên tác phẩm quy định ngữ điệu cho người đọc chứ không phải người đọc
tự đặt ra ngữ điệu cho bài đọc. Đây là điều hết sức quan trọng mà học sinh mới tập đọc
diễn cảm phải hiểu rõ. Vì vậy, muốn dậy học sinh đọc diễn cảm trước hết phải làm cho
các em hoà nhập với bài văn, bài thơ. Khi các em đã có cảm xúc thì chính các em sẽ
bật ra các ngữ điệu thích hợp trên cơ sở hướng dẫn của thầy, cô giáo.
Ví dụ: Khi dạy bài Dòng sông mặc áo ( Tiếng Việt 4- tập 2- trang 118), giáo
viên giúp học sinh nhận ra thể loại thơ lục bát, tiếp đó học sinh tìm hiểu được nội dung
bài thơ. Tác giả đã dùng những từ chỉ màu sắc để tả cáI rất “điệu” của dòng sông vì
dòng sông luôn thay đổi màu sắc giống như con người đổi màu áo. Tác giả đã vẽ nên
một dòng sông thật quyến rũ lòng người:
- Nắng lên: áo lụa đào thướt tha
- Trưa: áo xanh như là mới may.
- Chiều tối: màu áo hây hây ráng vàng.
- Tối: áo nhung tím thêu trăm ngàn sao lên.
- Đêm khuya: sông mặc áo đen.
- Sáng ra: lại mặc áo hoa.
Giáo viên cho học sinh tìm hiểu tiếp tác giả sử dụng cách nói “dòng sông mặc
áo” làm cho dòng sông trở nên gần gũi, giống con người, làm nổi bật sự thay đổi mầu
sắc của dòng sông theo thời gian, màu nắng, cỏ cây… Vì thế khi đọc bài cần đọc giọng
dịu dàng, thiết tha, tình cảm.
Với những bài khó, giáo viên cần cùng nhau thảo luận, tìm ra biện pháp rèn đọc
diễn cảm phù hợp với nội dung, trình độ của lớp.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Người ăn xin” của nhà văn Nga Tuốc – ghê – nhép, GV
trong khối cùng trăn trở vì đây là một văn bản nghệ thuật rất hay và giàu tính nhân văn.
Làm thế nào để chuyển tải nội dung của bài đọc, tính cách của từng nhân vật? Đọc như
thế nào? Đoạn nào cần chọn để rèn đọc diễn cảm tiêu biểu? Hướng dẫn đọc ra sao? Sử
dụng đồ dùng dạy học như thế nào để rèn đọc diễn cảm cho hiệu quả? Vô số những câu
- 14 -
hỏi nêu ra. Cùng nhau thảo luận để tìm ra đáp án không chỉ tạo ra không khí sôi nổi
cho giờ sinh hoạt chuyên môn mà còn là lúc để giao lưu, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm
lẫn nhau. Sau khi trao đổi, khối cùng nhau thống nhất:
* Bài này chia làm ba đoạn:
- Đoạn 1
+ Đọc với giọng kể tả, chậm rãi.
+ Nhấn giọng vào các từ ngữ gợi tả hình ảnh ông lão ăn xin nghèo khổ, rách
rưới: lọm khọm, đỏ đọc, giàn giụa, tả tơi, thảm hại, xấu xí nhằm thể hiện sự ngậm ngùi,
xót thương.
+ Đọc đúng ngữ điệu của các câu cảm
- Đoạn 2 và đoạn 3
+ Nhấn giọng vào những từ ngữ gợi tả, gợi cảm nhằm thể hiện sự đồng cảm của
hai tâm hồn: một già, một trẻ. Họ cho và nhận từ nhau một thứ quý nhất trong đời:
Tình người.
+ Đọc phân biệt được lời của hai nhân vật.
* Đoạn chọn luyện đọc diễn cảm tiêu biểu: “ Tôi chẳng biết làm cách nào ... tôi cũng
vừa nhận được chút gì từ ông lão.”
Cuối cùng, để đọc tốt thì học sinh cần phải luyện đọc cá nhân. trong nhiều bài, lấy
thế văn đối thoại làm ví dụ giáo viên có thể cho học sinh đọc phân vai để làm sống lại
những nhân vật của tác phẩm, để đọc phân biệt lời tác giả và lời nhân vật, phân biệt lời
các nhân vật khác nhau. Trong đọc diễn cảm, còn có thể hướng dẫn học sinh sử dụng
các yếu tố ngoài lời: điệu bộ, ánh mắt, cử chỉ… để chứng minh phụ hoạ thêm cho
giọng đọc, nhưng không lạm dụng mà căn cứ vào từng tình huống và điều kiện cụ thể
(căn cứ vào từng bài, căn cứ vào từng khả năng của từng học sinh).
Ví dụ: với bài ở Vương quốc Tương Lai (Tiếng Việt 4- tập 1- trang 70), khi đọc
phân vai các em có thể kết hợp điệu bộ, ánh mắt, cử chỉ…
3.5.Các hình thức và giải pháp khác.
- 15 -
Một số hình thức khác cũng góp phần tích cực cho việc rèn đọc tốt cho học sinh
đó là tôI có thể kết hợp tổ chức cho học sinh thi đọc hoặc tham gia các trò chơi luyện
đọc, dùng tranh vẽ và khai thác tranh hợp lí với mục đích xây dựng không khí học tập
sôi nổi, sinh động gây sự chú ý, tập trung cao độ trong học tập, lúc đó kết quả học tập
sẽ cao hơn.
Giáo án thử nghiệm
Kế hoạch dạy học
Môn: Tiếng Việt (Tập đọc)
Lớp 4
Tên bài dạy: Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
I. Mục đích, yêu cầu:
1. Đọc lưu loát toàn bài; đọc đúng nhịp thơ. Biết đọc diễn cảm bài thơ với giọng
đọc vui, hóm hỉnh, thể hiện tinh thần dũng cảm, lạc quan của các chiến sĩ lái xe.
2. Hiểu ý nghĩa bài thơ: Qua hình ảnh thơ độc đáo là những chiếc xe không kính
vì bom giật bom rung, tác giả ca ngợi tinh thần dũng cảm, lạc quan của các chiến sĩ lái
xe trong những năm tháng chống Mĩ cứu nước.
3. Học thuộc lòng bài thơ.
II. Chuẩn bị:
Tranh ảnh minh hoạ bài đọc trong SGK.
III. Các hoạt động Dạy - Học chủ yếu:
Thời
gian
4'
Nội dung các hoạt động dạy và học
Phương pháp, hình thức tổ
chức các hoạt động tương ứng
I. Kiểm tra bài cũ.
- Một bạn cho cô biết hôm trước học bài gì? Gv hỏi, hs trả lời
(Khuất phục tên cướp biển.)
- Cô mời 1 bạn đọc lại bài khuất phục tên cướp - Học sinh đọc.
biển, các bạn khác theo dõi bạn đọc.
- 16 -
34’
- Truyện này giúp em hiểu điều gì ? ( Ca ngợi
hành động dũng cảm của bác sĩ Ly trong cuộc
đối đầu với tên cướp biển hung hãn? - Ca ngợi
sức mạnh chính nghĩa chiến thắng sự hung ác,
bạc ngược.)
2. Dạy bài mới
2.1. Giới thiệu bài mới:
- Giáo viên treo tranh, bức tranh vẽ cảnh gì?
( Những đoàn xe nối nhau ra chiến trường trên
đường Trường Sơn đầy bom đạn )
- Đây là hình ảnh minh họa cho bài thơ: Bài thơ
về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm
Tiến Duật mà chúng ta sẽ học ngày hôm nay.
Bài thơ sẽ giúp các em hình dung rõ hơn những
khó khăn, nguy hiểm trên đường ra trận và tinh
thần chiến đấu dũng cảm, lạc quan của các
chiến sĩ lái xe.
- Hôm nay chúng ta học bài: Bài thơ về tiểu đội
xe không kính. Vậy bạn nào cho cô biết "tiểu
đội" nghĩa là gì?- ("Tiểu đội": đơn vị nhỏ nhất
trong quân đội, thường gồm từ 6 đến 12 người.)
2.2. Dạy bài mới
2.2.1. Luyện đọc, đọc đúng, học sinh luyện đọc
cá nhân.
- Cô mời 1 bạn đọc bài, cả lớp theo dõi, đọc
thầm.
- Bài thơ gồm mấy khổ thơ?
- Cô mời 4 bạn đọc nối tiếp nhau 4 khổ thơ
- Giáo viên nhận xét, sửa lỗi: Khi đọc bài các
em cần chú ý, đọc đúng các từ sau: bom giật,
bom rung; buồng lái, bom rơi.
GV: Để đọc đúng, đọc hay bài thơ các em cần
nghỉ hơi đúng, dấu hiệu nghỉ hơi chính là các
dấu phẩy ở mỗi dòng thơ. Tuy nhiên ở một số
dòng thơ không có dấu phẩy chúng ta vẫn phải
ngắt nghỉ hơi cho đúng nghĩa câu thơ.
VD: Không có kính/ không phải vì xe không có
kính
Nhìn thấy gió/ vào xoa mắt đắng
Thấy con đường/ chạy thẳng vào tim
Mưa ngừng, gió lùa/ mau khô thôi.
Gv hỏi, hs trả lời
- Học sinh nhật xét câu trả lời
của bạn.
- Giáo viên nhận xét, đánh giá.
- Học sinh lắng nghe.
- Giáo viên viết tên bài lên bảng
- HS viết tên bài vào vở
HS trả lời
- Học sinh đọc. Dưới lớp theo
dõi, đọc thầm
- Có 4 khổ thơ.
- 4 học sinh đọc nối tiếp
- Học sinh lắng nghe, quan sát.
- 1,2 học sinh đọc lại các từ trên
- 1,2 HS đọc các câu thơ trên
(có ngắt nghỉ hơi) - Nhận xét
bạn đọc.
- Giáo viên nhân xét, yêu cầu
học sinh vạch nhịp vào các câu
thơ trên trong SGK.
- 4 bạn đọc nối tiếp 4 khổ thơ.
- 17 -
- Giáo viên nhận xét.
- Cô mời 1 bạn đọc lại cả bài
thơ thật đúng.
- GV: Các em vừa được luyện đọc và cô thấy
lớp mình đọc rất tốt. Nhưng đọc tốt thôi chưa
đủ, chúng ta cần hải nắm được nội dung, ý
nghĩa của bài thơ.
2.2.2. Tìm hiểu bài:
- Đầu tiên chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu 3 khổ
thơ đầu.
- Cô mời 1 bạn đọc lại 3 khổ thơ đầu; các bạn
khác đọc thầm.
- Qua 3 khổ thơ đầu, bạn nào có thể nói cho cô
và các bạn biết những hình ảnh nào trong bài
thơ nói lên tinh thần dũng cảm và lòng hăng
hái của các chiến sĩ lái xe?
- Bom giật, bom rung, kính vỡ.
- Ung dung buồng lái ta ngôi; Nhìn đất, nhìn
trời, nhìn thẳng.
Không có kính ừ thí ướt áo.
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời.
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa.
- Nhận xét câu trả lời của bạn?
Con nhắc lại câu trả lời của bạn.
Bom giật, bom rung, kính vỡ → nguy hiểm, ác
liệt của chiến trường.
Ung dung, nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng →
Tinh thần chiến đầu lạc quan, dũng cảm, bất
chấp khó khăn.
Mưa tuôn, mưa xối,… → Quyết tâm hoàn
thành nhiệm vụ.
- Vậy hình ảnh những chiếc xe không kính vẫn
băng băng nối nhau ra mặt trận gợi cho em
những cảm nghĩ gì?- (Các chú bộ đội lái xe rất
dũng cảm, lạc quan yêu đời, coi thường khó khăn,
bất chấp bom đạn của kẻ thù.)
( Qua hình ảnh độc đáo của những chiếc xe
không kính, tác giả ca ngợi tinh thần chiến đấu
dũng cảm, lạc quan của các chiến sĩ lái xe.)
- Như vậy, khi đọc 3 khổ thơ đầu chúng ta cần
chú ý nhấn giọng ở những từ ngữ nào? - Nhấn
giọng: Bom giật, bom rung; nhìn đất, nhìn trời
nhìn thẳng, ừ thì ướt áo, mưa tuôn, mưa xối.
- Gv nhận xét chung
- 1Học sinh đọc. Lớp đọc thầm.
- HS nhận xét, nhắc lại
- Giáo viên viết bảng:
-- Nhận xét trả lời của bạn. Học
sinh nhận xét.
- Giáo viên nhận xét: Yêu cầu
học sinh gạch chân các từ cần
nhấn giọng vào SGK.
- HS gạch chân từ vào SGK.
- 18 -
- Chúng ta tìm hiểu nội dung, cách đọc 3 khổ
thơ đầu, bây giờ cô mời 1 bạn đọc lại 3 khổ thơ
đầu. Một bạn khác đọc lại
- Nhận xét bạn đọc
- Giáo viên nhận xét, bây giờ chúng ta sẽ cùng
nhau tìm hiểu khổ thơ 4.
- Từ ngữ: Họp thành tiểu đội, gặp bè bạn, bắt
tay nhau.
+ Gặp bè bạn suốt dọc đường bắt tay nhau qua
cửa kính vỡ.
- Giáo viên nhận xét: Những từ ngữ đó gợi cho
chúng ta cảm giác thân ái, vui vẻ giữa những
chiến sĩ lái xe cái bắt tay qua cửa kính vữo rồi
cũng như lời chào của những chiếc xe không
kính.
- Vậy khi đọc khổ 4 ta phải nhấn giọng từ nào?
(- Họp thành, gặp bạn bè bắt tay nhau.)
Sau khi tìm hiểu bài, bạn nào có thể nói cho cô
ý nghĩa của bài thơ là gì? (- Ca ngợi tinh thần
dũng cảm, lạc quan của các chiến sĩ lái xe
trong những năm tháng chống Mĩ cứu nước.)
2.2.3. Hướng dẫn đọc diễm cảm và HTL bài
thơ:
- Các em đã được luyện đọc, đọc đúng, ngắt
nghỉ hơi, nhấn giọng. Vậy để đọc bài thơ cho
hay chúng ta nên đọc bài thơ với giọng đọc thế
nào? (Giọng đọc vui, hóm hỉnh)
- Nhận xét bạn đọc, giọng đọc của bạn?
GV:Như vậy khổ 1 chúng ta sẽ đọc với giọng
kể, bình tĩnh, tự tin.
- Cô mời 1 bạn đọc diễn cảm khổ 2
- Vậy khổ 3 chúng ta sẽ đọc diễn cảm thế nào;
cô mời 1 bạn đọc cho cả lớp nghe/
- Bạn đọc đã nhấn giọng tốt chưa, giọng đọc
thế nào?
- Cô mời 1 bạn đọc diễn cảm thật tốt khổ 4.
- Học sinh đọc.
- Học sinh nhật xét.
- 1 bạn đọc lại khổ thơ 4.
- Học sinh đọc lại khổ thơ 4
- Giáo viên nhận xét:
- Nhận xét bạn trả lời; Nhắc lại
(giáo viên ghi bảng).
- Học sinh nhận xét, nhắc lại.
- Học sinh đọc diễn cảm khổ 1
- Học sinh nhận xét.
Giáo viên nhận xét
- Học sinh đọc khổ 2
- Học sinh nhận xét.
-1 Học sinh đọc khổ 3
- Học sinh nhận xét.
- Học sinh đọc khổ 4
- Giáo viên nhận xét:
Các em vừa luyện đọc diễn cảm, bây giờ các - Học sinh nhẩm học thuộc
em hãy nhẩm học thuộc lòng khổ thơ mình lòng.
thích nhất trong 2 phút.
- Mời 4 bạn đọc 4 khổ
- 4 học sinh đọc 4 khổ.
(Tại sao con thích)
- Giáo viên nhận xét
- 19 -
2’
- Mời 1 bạn đọc thuộc lòng cả bài.
- Học sinh đọc.
- Giáo viên nhận xét.
3. Củng cố, dặn dò:
- Nhắc lại tên bài? - Bài thơ về tiểu đội xe GV hỏi , Hs trả lời
không kính.
- Bài thơ có ý nghĩa gì? - Ca ngợi tinh thần
dũng cảm, lạc quan của các chiến sĩ lái xe.
- Giáo viên nhận xét tiết học.
Nhận xét tiết học.
- Dặn dò học sinh và nhà tiếp tục HTL chuẩn
bị bài sau.
Trình bày bảng:
Thứ
ngày
tháng
năm
Tập đọc
Bài thơ về tiểu đội xe không kính
- Phạm Tiến Duật –
ý nghĩa: Ca ngợi tinh thần chiến đấu dũng cảm, lạc quan của các chiến sĩ lái xe.
I. Luyện đọc
1. Đọc đúng:
II. Tìm hiểu bài.
1. Từ ngữ:
- Từ ngữ: Bom giật, bom rung
- Bom giật, bom rung, kính vỡ
buồng lái, bom rơi
Ung dung, nhìn đất, nhìn trời,
nhìn thẳng. Mưa tuôi, mưa xối.
- Họp thành tiểu đội
gặp bè bạn, bắt tay nhau.
2. Đọc diễn cảm
- Giọng đọc: vui, hóm hỉnh
- Nhấn giọng
Kết Quả
Qua thực tế áp dụng những kinh nghiệm trên, cho đến bây giờ chất lượng môn
tập đọc của lớp tôi đã tăng một cách rõ rệt so với đầu năm. Kết quả cụ thể như sau:
Năm học 2007-2008 này, tôi được phân công giảng dạy lớp 4A có 24 học sinh
- 20 -
Thời gian
Số hs đọc
Số hs đọc
Số hs đọc
Số hs đọc
Số hs đọc ngắt,
đúng
diễn cảm
lẫn âm, vần
ngọng
nghỉ hơi tuỳ tiện
Đầu năm
13
5
2
2
2
Cuối kì I
15
7
1
1
0
Giữa kì II
16
7
0
1
0
Điển hình có em Hiếu, em Giang, em Văn Quân,… đầu năm các em còn ngọng,
hay bị nhầm lẫn l/n, ngắt nghỉ tuỳ tiện,… điểm đọc thấp. Đến cuối kì 1 các em đã đạt
điểm trên trung bình. Đến giữa kì 2 các em đã đạt điểm khá.
Đặc biệt lớp tôi có em Hải Nguyệt đạt giải nhất khối trong cuộc thi đọc diễn
cảm do Nhà trường tổ chức vào cuối Học kì 1.
Kết Luận
Qua quá trình nghiên cứu, giảng dạy và kết quả chất lượng ở trên, bước đầu tôi rút ra
được một số kết luận như sau:
- Dạy tốt môn tập đọc có nhiều thủ pháp riêng, nó được áp dụng với từng giáo
viên rất linh hoạt. Nhưng trước hết phải chuẩn bị cho từng học sinh một tâm thế thoải
mái trong giờ học. Học sinh và giáo viên học- dạy tốt môn tập đọc là góp phần giữ gìn
sự trong sáng của tiếng Việt
- Để dạy tốt môn tập đọc người giáo viên cần có sự chuẩn bị chu đáo trong kế
hoạch giảng dạy vì trong chương trình có nhiều thể loại như văn xuôi, thơ, kịch, bản
tin,…Song trong cùng một thể loại cũng không có bài nào giống bài nào. Và trong một
- Xem thêm -