Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Skkn-Một số biện pháp chống học vẹt trong môn học vần...

Tài liệu Skkn-Một số biện pháp chống học vẹt trong môn học vần

.PDF
29
2338
139

Mô tả:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỐNG HỌC VẸT TRONG MÔN HỌC VẦN Sau khi rời khỏi bàn tay chăm sóc của các cô mẫu giáo cũng như sự nâng niu, chiều chuộng của ông bà, cha mẹ, trẻ 6 tuổi bước vào giai đoạn mới, được học lớp đầu tiên của bậc Tiểu học. I.ĐẶT VẤN ĐỀ : Sau khi rời khỏi bàn tay chăm sóc của các cô mẫu giáo cũng như sự nâng niu, chiều chuộng của ông bà, cha mẹ, trẻ 6 tuổi bước vào giai đoạn mới, được học lớp đầu tiên của bậc Tiểu học. Bước đầu học đọc, học viết nên các em còn nhiều bỡ ngỡ và tiếp thu kiến thức thật khó khăn, một số em chỉ đọc vẹt chưa nắm vững các chữ cái. Với yêu cầu của môn Học vần, các em phải đọc đúng âm, vần, tiếng, vì như vậy mới hiểu được từ, câu, bài văn. Các em phải nắm bắt kiến thức một cách vững vàng, để biến kiến thức đó thành kĩ năng, kĩ xảo trong môn Tiếng Việt. Chính vì những lý do nêu trên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài : “Một số biện pháp chống học vẹt trong môn Học vần” nhằm giúp các em nhận biết chính xác, ghi nhớ âm, vần để làm nền tảng vững chắc cho việc học tập các môn học khác, đồng thời thực hiện tốt chuyên đề : “Đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Việt lớp 1 theo hướng thực sự quan tâm diện học sinh trung bình và yếu” II. CƠ SỞ LÍ LUẬN : Một trong những mục tiêu quan trọng mà môn Tiếng Việt ở Tiểu học cần phải hướng đến là hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng hoạt động ngôn ngữ như: nghe, nói, đọc, viết. Đó là những kĩ năng cơ bản, nền tảng, có tính chất công cụ giúp các em học tốt môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác trong nhà trường phổ thông. “Đối với Tiểu học, Tiếng Việt là tất cả !”.Đọc thông, viết thạo là một trong những kĩ năng cơ bản của học sinh Tiểu học nói chung và của học sinh lớp 1 nói riêng. Học sinh đọc thông, viết thạo nếu có sự giúp đỡ, động viên, khen ngợi và sửa sai kịp thời của giáo viên. Học sinh đọc đúng đó là biểu hiện của kết quả rèn đọc. III. CƠ SỞ THỰC TIỄN : Vào những ngày đầu tiên đến trường, các em được làm quen với các chữ cái ở lớp mẫu giáo và khi ở nhà. Vì vậy, học sinh nhập tâm và ghi nhớ một cách máy móc. Nhiều em mới vào học đã đọc bài trong sách một cách thành thạo. Song khi giáo viên hỏi chỉ xem âm, vần, tiếng đó nằm ở đâu thì các em lúng túng không chỉ được. Như vậy các em đã học vẹt, từ chỗ học vẹt sẽ dẫn đến kiến thức bị hỏng. Từ đó sẽ có tình trạng học sinh yếu, kém về môn Tiếng Việt. Vậy để nâng cao chất lượng học tập của lớp 1B, 1C ngay từ đầu năm học, chúng tôi đã đề ra một số biện pháp giúp các em nắm vững âm, vần, tiếng một cách chính xác, tạo điều kiện các em học tốt môn học này và làm nền tảng cho các môn học khác. IV. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU. 1. Các phương pháp, biện pháp cho từng giai đoạn : GIAI ĐOẠN 1 : Phần học các nét chữ cơ bản (Tuần 1) *Biện pháp 1 : Giúp học sinh nắm chắc các nét cơ bản. Ngay sau những buổi đầu rèn nề nếp lớp, chúng tôi cho học sinh học các nét cơ bản, dạy thật kỹ tên gọi và cách viết các nét chữ đó. Nhằm giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét cơ bản, chúng tôi phân các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm, để các em dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được các chữ cái. Các nét chữ cơ bản và tên gọi : Nét sổ thẳng Nhóm 1 Nét ngang Nét xiên phải (giống dấu thanh huyền) Nét xiên trái (giống dấu thanh sắc) Nét móc xuôi (chữ l) Nét móc ngược (chữ n, m) Nhóm 2 Nét móc hai đầu (chữ h, p, ph) Nét móc hai đầu có nét thắt ở giữa (chữ k) Nét thắt (chữ b, v, r) Nét cong hở phải (chữc) Nhóm 3 Nét cong hở trái Nét cong kín (chữ o, ô, ơ) Nhóm 4 Nét khuyết trên (chữ h, l, b) Nét khuyết dưới (chữ g, y) GIAI ĐOẠN 2 : Phần học âm (Tuần 2 – Tuần 6) * Biện pháp 2 : Phân biệt sự khác nhau giữa chữ in trong sách giáo khoa với chữ viết thường. Sau khi học sinh đã học thuộc tên gọi và cấu tạo các nét cơ bản một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học âm. Giai đoạn học chữ cái là giai đoạn vô cùng quan trọng. Các em có nắm chắc từng chữ cái thì mới ghép được các chữ vào với nhau để tạo thành tiếng, các tiếng ghép lại với nhau tạo thành từ và câu. Trong giai đoạn này, chúng tôi chú ý cho các em phân tích từng nét chữ cơ bản của từng chữ cái vì một số em chưa nhớ mặt chữ. Để học sinh đọc được chữ và ghi được con chữ, chúng tôi cho các em phân biệt chữ in thường trong sách giáo khoa với chữ viết thường. *Ví dụ : Âm a – a Chữ ghi âm agồm nét cong kín và nét móc. Âm b – bChữ ghi âm bgồm có nét khuyết trên kết hợp với nét thắt. Âm g –g Chữ ghi âm ggồm có nét cong kín và nét khuyết dưới. Âm h – hChữ ghi âm hgồm có nét khuyết trên và nét móc hai đầu. Âm k – kChữ ghi âm kgồm có nétkhuyết trên và nét móc hai đầu có. thắt ở giữa Âm l – lChữ ghi âm lgồm có nét khuyết trên nối liền nét móc xuôi. Âm p – pChữ ghi âm pgồm có nét thẳng ngắn hơi chéo về bên phải, nét thẳng đứng và nét móc hai đầu. Âm r – rChữ ghi âm rgồm có nét thắt và nét móc xuôi. Âm s – sChữ ghi âm sgồmcó nét thắt nối liền nét cong hở trái. Âm v - vChữ ghi âm vgồm cónét móc ngược nối liền với nét thắt. Âm x – xChữ ghi âm x gồm có nét cong hở phải và nét cong hở trái. - Từ việc học kỹ các nét cơ bản, sẽ giúp các em phân biệt được sự khác nhau cả về cấu tạo và tên gọi của 4 âm sau : d và b ; p và q. * Ví dụ : - Âm d có nét cong kín nằm bên trái, nét sổ thẳng. - Âm b có nét cong kín nằm bên phải, nét sổ thẳng. - Âm p có nét cong kín nằm bên phải, nét sổ thẳng xuống dưới. - Âm q có nét cong kín nằm bên trái, nét sổ thẳng xuống dưới. * Biện pháp 3 : Vận dụng chuyên đề : “Đổi mới phương pháp dạy môn Tiếng Việt ở lớp 1”. - Để tránh tình trạng đọc vẹt và nâng cao chất lượng học tập của hai lớp, chúng tôi áp dụng chuyên đề : “Đổi mới phương pháp dạy môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1” xem đây là sân chơi dành cho học sinh trung bình và yếu. Các em học sinh trung bình và yếu được gọi đọc nhiều lần, sao cho ở phần âm mỗi em học sinh yếu được đọc từ 5 - 7 lượt nhằm cho các em nắm vững được âm, nhớ lâu mặt chữ. - Khi cài từ ứng dụng lên bảng, chúng tôi không đọc mẫu mà chỉ định học sinh đồng thanh không theo thứ tự. Áp dụng cách : “đồng thanh trễ một nhịp”, đây là việc làm hết sức quan trọng để tất cả học sinh đều tập trung chú ý ở bảng, có thời gian các em trung bình và yếu “truy xuất kiến thức” và cũng để có thời gian chúng tôi quay xuống quan sát miệng học sinh trung bình và yếu. Sau ½ phút đồng thanh, phát hiện em nào “nhắp miệng” thì chỉ định em đó đọc lại âm, tiếng rồi cho các em đọc trơn đồng thanh lại từ ứng dụng. Để áp dụng phương pháp này hình thành thói quen và rèn nề nếp của lớp, chúng tôi qui định tiếng gõ thước cụ thể như sau : - Gõ một tiếng : học sinh chú ý lên bảng. - Gõ hai tiếng : học sinh đọc đồng thanh. Với cách đọc: “đồng thanh trễ một nhịp”, chúng tôi nhận thấy chất lượng học tập của học sinh lớp 1B và 1C tiến bộ rõ rệt. * Biện pháp 4 : Thường xuyên ôn âm, vần trong tiết học. Sang phần âm ghép, chúng tôi sắp xếp các âm, có âm h đứng sau thành một nhóm, để các em dễ phân biệt sự giống nhau và khác nhau của các âm đó. * Ví dụ : ch – c nh – n th – t kh – k gh – g ph – p ngh – ng - Còn các âm gi, tr, qu, chúng tôi cho học sinh đọc kỹ cấu tạo và cách ghép chữ. * Ví dụ : âm gi, tr (o, ô, a, e, ê..) ; âm qu (a, e, ê) - Để học sinh phát âm chính xác và hỗ trợ cho phân môn chính tả, chúng tôi phân từng cặp như sau : ch – tr, ng – ngh, c – k, g – gh, s – x, … cho các em nắm qui tắc chính tả, ví dụ : ngh, gh, k thường đi với 3 âm : e, ê, i c, ng, g, … thường đi với các âm : a, o, ô, u, ư, … -Sau khi học xong phần đọc cho các em viết chính tả đưa vào ngữ cảnh, ví dụ : ch (chó), nh (nhà) th (thỏ), kh (khế), gh (ghế), g (gà), ph (phố), ngh (nghệ), ng (ngừ)… - Trong từng tiết học, chúng tôi đều cho học sinh đọc kỹ trong bìa vàng, đọc theo chiều mũi tên là : “Đọc giải mã chữ thành tiếng” chưa chú ý đến nghĩa, đọc đúng và nhanh mới thật sự biết đọc chứ không phải đọc vẹt. Đọc xuôi là đọc “hiểu”. - Để củng cố và khắc sâu kiến thức về âm cho học sinh, hàng ngày chúng tôi thường cho các em đọc ở bảng bin gô, nhất là học sinh yếu cho đọc nhiều lần không theo thứ tự, để giúp các em nhớ âm một cách chắc chắn, chống tình trạng đọc vẹt không nhớ mặt chữ. - Tăng cường củng cố những kiến thức đã học trên từng trang sách và qua từng bài, nhằm rèn luyện tốt cả hai kĩ năng đọc, viết cho học sinh, học đến đâu các em có khả năng đọc, viết được một cách chắc chắn ngay đến đó. - Thường xuyên ôn âm ngay trong tiết học, ôn tập có địa chỉ - địa chỉ về âm. Trong số các âm đã học, âm nào học sinh trong lớp chưa được học do vắng học hoặc chưa nắm chắc thì mới ôn âm đó. Điều này yêu cầu chúng tôi phải thường xuyên theo dõi sát từng đối tượng học sinh, để xác định âm nào cần ôn chứ không ôn tập tràn lan. * Ví dụ 1 : Khi dạy âm t - th : Lớp 1B có em Khánh – Quốc chưa thuộc âm th. hôm sau học bài âm u - ư có tiếng thư, thu, thứ, gọi các em đó đánh vần lại tiếng “thư”, tiếng “thu” trong từ “cá thu”, tiếng ‘thứ” trong từ “thứ tự” để học sinh nắm được âm th. * Ví dụ 2 : Khi dạy bài âm ph - nh : Lớp 1C có em Tuấn – Hoàng chưa thuộc âm nh, cho các em đó đánh vần lai ở bài học sau, tiếng “nhà” trong từ “nhà ga”, tiếng “nhớ” trong từ “ghi nhớ” để học sinh nắm vững âm nh. -Với cách ôn âm như vậy, chúng tôi thực hiện thường xuyên trong từng tiết lên lớp, xong phần học âm tất cả học sinh trung bình và yếu của hai lớp đã nắm vững các âm. GIAI ĐOẠN 3 : Phần học vần (tuần 7 – tuần 24) *Biện pháp 5 : Hướng dẫn đọc cho học sinh. - Phần Học vần tiếp tục rèn đọc cho các em, nhất là học sinh trung bình và yếu. Qua nhiều năm giảng dạy khối lớp 1, chúng tôi thấy việc học sinh ghép chữ ở bài khóa không có hiệu quả mà lại tốn thời gian, nên chúng tôi tập trung cho học sinh đánh vần vần ở phần bài khóa và đọc trơn từ và câu ứng dụng. Gọi học sinh trung bình và yếu đọc cá nhân (1- 2 em cùng đọc) và xen kẽ đồng thanh, không cho các em đọc cá nhân bài khóa hoặc câu khóa dài, như thế dẫn đến lớp học mất trật tự. Kéo dài thời gian đánh vần vần, giúp học sinh yếu khắc sâu vần, đọc và viết đúng vần. Để học sinh trung bình và yếu đọc - viết được, chúng tôi đã chú trọng việc đánh vần vần nhiều lần trong tiết học, tạo một đường mòn trong bộ nhớ học sinh. * Ví dụ : Khi dạy bài : et – êt, trong bài ứng dụng : Chim tránh rét bay vềphương nam. Cả đàn đã thấm mệt nhưng vẫn cố bay theo hàng. Cho học sinh yếu đánh vần vần lại hai câu đó từ 10 -20 lần, với cách đánh vần như sau : - i-mờ-im-chờ-im-chim, a-nhờ-anh-trờ-anh-tranh-sắc-tránh, e-tờ-et-rờ-et-rétsắc-rét, ay- bờ-ay-bay, ê-vờ-ê-vê-huyền- về, ư-ơ-ngờ-ương-phờ-ương-phương, a-mờ-am-nờ-nam, a-cờ-a-ca-hỏi-cả, a-nờ-an-đờ-an-đan-huyền-đàn, a-đờ-a-đangã-đã, â-mờ-âm-thờ-âm-thâm-sắc-thấm, ê-tờ-êt-mờ-mêt-nặng-mệt, ư-ngờ-ưng-nhờưng-nhưng, â-nờ-ân-vờ-ân-vân-ngã-vẫn, ô-cờ-ô-cô-sắc-cố, ay-bờ-ay-bay, e-oeo-thờ-eo-theo, a-ngờ-ang-hờ-ang-hang-huyền-hàng.Sau đó, chúng tôi cho học sinh đọc trơn tiếng ngược từ cuối câu lên đầu câu khoảng 10 lần, lần sau nhanh hơn lần trước. Nếu học sinh chưa đọc trôi chảy thì cho đánh vần lại. Tiếp theo, cho các em đọc xuôi chỉ cần 3-5 lần, khi thấy học sinh đọc được rồi thì cho các em nhớ - viết hoặc nhìn viết hai câu đó vào vở. - Để tránh đọc vẹt, trong phần câu và bài ứng dụng, chúng tôi cho học sinh “đọc vỡ” từng chữ trước khi đọc cả câu. Cho học sinh đọc không theo thứ tự, quan sát phát hiện em nào “nhắp miệng” hoặc không đọc kịp thì gọi em đó đọc trơn. Nếu không đọc được thì cho đánh vần lại, cho học sinh đọc ngược từ cuối câu lên đầu câu. * Ví dụ : Gió từ tay mẹ Ru bé ngủ say Thay cho gió trời Giữa trưa oi ả. Hướng dẫn học sinh đọc như sau : ả/oi/trưa/giữa/trời/gió/cho/thay/say/ngủ/bé/ru/mẹ/tay/từ/gió - Sau khi học sinh đọc tiếng, từ, câu không theo thứ tự và đọc ngược thì chúng tôi cho các em đọc xuôi, bây giờ bắt đầu chú ý đến nghĩa của câu. Học sinh đọc xuôi ở giai đoạn này để không “bị thuộc lòng sớm”. - Khi dạy bài mới trong phần kiểm tra bài cũ, chúng tôi đã đưa những vần mà học sinh dễ nhầm lẫn để củng cố kiến thức cũ và đồng thời so sánh với vần mới học, như vậy các em sẽ nắm vững vần hơn. * Ví dụ : ay - ai, eo - oe, ao - oa, iu - ui, uôn - un, ong - on, ăng - ăn, âng - ân, ung - un, eng - en, iêng - iên, uông - uôn, ương - ươn, ang - an, inh - in, ênh ên, ôm - om, uôm - ôm, ôt - ot, ươt - ưt, ac - at, ăc - ăt, âc - ât, uc - ut, ưt - ưc, uôc - uôt, iêc - iêt, ach - ac, ôp - op… - Cứ tiếp tục như vậy đến tuần 13 cho học sinh đọc sách giáo khoa, báo, truyện thay cho bìa vàng. Còn bảng bin gô luôn sử dụng trong phần học âm và học vần để tạo điều kiện giúp đỡ các em yếu, kém. Chúng tôi thường xuyên mượn truyện tranh cho học sinh yếu đọc để nhớ mặt chữ “không có sách thì không có tri thức và kĩ năng”. - Không những cho học sinh đọc, viết trong môn Học vần mà các môn học khác như : Đạo đức, Tự nhiên và xã hội,…chúng tôi lấy bài học đó, cho học sinh yếu rèn đọc và viết nhiều lần để các em nhớ lâu mặt chữ. - Phần giải lao giữa tiết cũng là sân chơi của học sinh trung bình và yếu, rèn cho các em tính dạn dĩ, hoạt bát, đồng thời rèn kỹ năng giao tiếp cho các em. - Học sinh đọc bài khóa xong, chúng tôi hướng dẫn các em viết, dành nhiều thời gian để giúp các em yếu tái hiện được con chữ vừa học. Trong câu lệnh chúng tôi đã dùng yếu tố “Zêrô ngôn ngữ” để học sinh tập trung chú ý trong khi viết. Khi hướng dẫn viết vần mới học, nếu hai vần tương đồng về mẫu chữ, ví dụ như : (ung # ưng, ăng # âng, ong # ông, inh # ênh….) thì chúng tôi chỉ viết mẫu một vần không viết mẫu tiếng và từ nhưng chủ yếu là quán xuyến lớp để mọi học sinh theo dõi lúc viết mẫu. Chúng tôi vừa viết, vừa nói kĩ thuật viết, tạm dừng để quan sát học sinh thử có em nào lơ đãng không, sau đó cho học sinh viết bóng rồi viết bảng con nhiều lần, dành nhiều thời gian viết cho học sinh nhất là các em yếu. - Trong phần luyện nói, chúng tôi vận dụng phương pháp “luyện theo mẫu” thường xuyên chỉ định học sinh yếu nhắc lại lời học sinh khá, giỏi vừa nói. Trong bài học chúng tôi chuẩn bị thêm câu hỏi phụ dành cho học sinh trung bình và yếu. 2. Các phương tiện giúp học sinh rèn phát âm đúng : Điều quan trọng bậc nhất để học sinh đọc đúng âm, vần là các phương tiện học tập gồm : sách giáo khoa và bảng cài ghép âm, vần (hình ảnh đính kèm ở phụ lục). Trong giờ Học vần chúng tôi gắn bảng cài chữ lên bảng cho học sinh đọc, như vậy sẽ có thời gian và điều kiện rèn đọc nhiều cho các em trung bình và yếu. Học sinh đọc bài ở bảng dễ theo dõi, kiểm tra và sửa sai kịp thời. Sau khi các em đọc đúng âm, vần vừa học, chúng tôi rèn chữ viết cho học sinh trên bảng con. 3. Một số yêu cầu đối với giáo viên và học sinh: * Đối với học sinh : - Muốn luyện tập đạt kết quả tốt học sinh phải nắm chắc về :  Cấu tạo của chữ.  Nắm vững âm, vần.  Thường xuyên luyện tập. - Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện thành kĩ năng như : Tư thế ngồi học, cách cầm sách, cộng với ý thức tự giác của mỗi học sinh trong quá trình luyện tập sẽ giúp các em đọc bài tốt hơn. - Học sinh phải tự rèn đọc bài ở nhà và thường xuyên được kiểm tra trong đầu tiết học. * Đối với giáo viên: - Giáo viên phải chuẩn bị cài chữ mẫu trước khi lên lớp. Để có bài soạn tốt, giáo viên luôn sưu tầm tài liệu, sách tham khảo về cách rèn phát âm cho học sinh, - Rèn đọc cho học sinh là việc làm thường xuyên, liên tục trong mọi tiết học cũng như lúc ở nhà. Đây là việc làm rất cần thiết, nó giống như xây dựng một ngôi nhà đòi hỏi phải có nền móng vững chắc. Do đó, cần phải nâng cao yêu cầu lên từng bài, từng giai đoạn, tăng cường rèn đọc để học sinh tiến bộ. - Việc rèn cho học sinh học tốt phân môn Học vần không chỉ tập trung ở những giờ Học vần trên lớp mà phải thường xuyên đọc bài ở nhà, đặc biệt là phải chuẩn bị thật tốt bài cũ và bài mới trước khi đến lớp. Thế nhưng, đối với học sinh lớp 1 nề nếp tự học của các em ở nhà còn hạn chế, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ, giúp đỡ và hướng dẫn thường xuyên của phụ huynh. Ngoài ra, phương pháp giảng dạy và học tập ở phần Học vần lại có điểm mới. Vì vậy, chúng tôi đã thống nhất cách giảng dạy giữa nhà trường và gia đình tạo điều kiện giúp các em học tốt, cụ thể là cách đánh vần, cách đọc bài trong sách cũng như yêu cầu cần đạt của học sinh qua từng bài học. Hướng dẫn học sinh đọc, viết ngay các âm, vần vừa học trong ngày, đồng thời hướng dẫn các em chuẩn bị bài mới thật chu đáo. - Để nâng cao chất lượng học môn Học vần ở lớp 1, chúng tôi đã vận dụng phương pháp trực quan, cho học sinh ghi nhận âm, vần bằng con chữ và hình ảnh trực quan. Có như vậy mới duy trì được sự chú ý của học sinh, giúp các em tiếp thu kiến thức và nắm chắc cấu tạo âm, vần, tiếng mới học. - Học sinh lớp 1 rất dễ nhớ nhưng lại chóng quên, việc củng cố kiến thức cũ trước khi học kiến thức mới là một yêu cầu rất quan trọng. Chúng tôi phải thường xuyên củng cố ôn tập kiến thức từng tiết học vần và các tiết học trong buổi. Bên cạnh đó, để có biện pháp về chất lượng học tập của lớp, chúng tôi phân công đôi bạn cùng học tiến bộ như : giỏi kèm yếu, khá kiểm tra trung bình, giống như ông cha ta có câu : “Học thầy không tày học bạn”. - Giáo dục học sinh lòng ham đọc sách, hình thành phương pháp và thói quen làm việc với sách cho học sinh. Làm cho sách trở thành một sự tôn sùng ngự trị trong nhà trường. Thông qua việc đọc phải làm cho học sinh thích đọc và thấy được khả năng đọc là có ích lợi cho các em trong cả cuộc đời. Phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển. V. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU : - Nhờ áp dụng những biện pháp nêu trên nên chất lượng học môn Tiếng Việt của học sinh lớp 1B, 1C được nâng lên rõ rệt. - Hết phần học âm (chữ) đa số học sinh lớp 1B, 1C đều nắm vững chữ, âm và đọc được tiếng, từ một cách chắc chắn. - Đến học vần, học sinh nắm vần tốt. + Học sinh khá, giỏi đã đọc được sách, báo một cách lưu loát. + Học sinh trung bình, yếu cũng bước đầu đã đọc trơn tốt. Song cũng có tiếng đôi lúc còn phải đánh vần. Kết quả cụ thể của lớp 1B, 1C như sau : Lớp 1B Thời điểm Loại Giỏi Loại Khá Loại TB Loại Yếu Loại kém Đầu năm 5 (20.0%) 8 (32.0%) 4 (16.0%) 6 (24.0%) 2 (8.0%) Giữa HKI 8 (32.0%) 10 (40.0%) 2 (8.0%) 4 (16.0%) 1 (4.0%) Cuối HKI 15 (60.0%) 5 (20.0%) 3 (12.0%) 2 (8.0%) Giữa HKII 14 (56.0%) 8 (32.0%) 2 (8.0%) 1 (4.0%)
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan