Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả đạt kết quả tốt...

Tài liệu Skkn một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả đạt kết quả tốt

.PDF
24
2062
60

Mô tả:

HỌ VÀ TÊN GIÁO VIÊN: HỒ THỊ MỸ LỢI ĐƠN VỊ: TRƯỜNG TIỂU HỌC CHU VĂN AN - PLEIKU MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4 VIẾT BÀI VĂN MIÊU TẢ ĐẠT KẾT QUẢ TỐT PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ Trường Tiểu học là nơi đầu tiên trẻ em được học tập tiếng Việt, chữ viết với phương pháp nhà trường, phương pháp học tập tiếng mẹ đẻ một cách khoa học. Học sinh tiểu học chỉ có thể học tập các môn học khác khi có kiến thức tiếng Việt. Bởi đối với người Việt, tiếng Việt là phương tiện giao tiếp, là công cụ trao đổi thông tin và chiếm lĩnh tri thức. Môn Tiếng Việt trong chương trình Tiểu học có nhiệm vụ hoàn thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong 4 dạng hoạt động, tương ứng với bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Từ đó, các em có thể học tập và giao tiếp trong môi trường học tập lứa tuổi, giúp học sinh có cơ sở để tiếp thu kiến thức ở lớp trên. Trong môn Tiếng Việt có nhiều phân môn, mỗi phân môn chứa đựng một bộ phận kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau để người học học tốt Tiếng Việt. Trong đó, Tập làm văn là phân môn mang tính chất tổng hợp, sáng tạo, thực hành, thể hiện đậm nét dấu ấn cá nhân. Tập làm văn, viết văn, hành văn là cái đích cuối cùng cao nhất của việc học tiếng Việt ở tiểu học. Đối với học sinh tiểu học, biết nói đúng, viết đúng, diễn đạt mạch lạc đã là khó; để nói, viết hay, có cảm xúc, giàu hình ảnh lại khó hơn nhiều. Cái khó ấy chính là cái đích mà phân môn Tập làm văn đòi hỏi người học cần dần đạt tới. Từ đó, các em được mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ, hình thành nhân cách. Chương trình Tập làm văn ở tiểu học chủ yếu là dạy văn miêu tả. Ngay từ lớp 2, 3, các em đã được làm quen với văn miêu tả khi được tập quan sát và trả lời câu hỏi. Lên lớp 4, các em phải hiểu thế nào là văn miêu tả, biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý, viết đoạn văn và liên kết đoạn văn thành một bài văn miêu tả đồ vật, cây cối hoặc con vật - những đối tượng gần gũi và thân thiết của các em. 1 Thật vậy, trong chương trình môn Tiếng Việt Tiểu học nói chung, Môn Tiếng Việt lớp 4 nói riêng, phân môn Tập làm văn có một vai trò đặc biệt quan trọng – Ở phân môn tập làm văn, bên cạnh việc sử dụng các kĩ năng đã được hình thành và phát triển từ các môn học khác như: nghe, nói, đọc, viết (phân môn Tập đọc); giải nghĩa từ, dùng từ, đặt câu (phân môn Luyện từ và câu); viết đúng chính tả, chính âm (phân môn Chính tả)…thì phân môn Tập làm văn còn hình thành và phát triển một hệ thống các kĩ năng riêng... Thông qua học Tập làm văn, học sinh có điều kiện tiếp cận vẻ đẹp của con người, của thiên nhiên qua các bài văn, đoạn văn điển hình. Khi phân tích đề Tập làm văn, học sinh lại có dịp hướng tới cái chân - thiện - mĩ được định hướng trong các đề bài. Những cơ hội đó làm nảy nở tình cảm yêu mến, gắn bó với thiên nhiên, với con người và những việc xung quanh của các em, giúp cho tâm hồn, tình cảm của các em thêm phong phú. Đó là những nhân tố quan trọng góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp của các em, đặc biệt trong tình hình xã hội hiện nay, một bộ phận giới trẻ có biểu hiện của lối sống vô cảm… Chính vì vậy, việc hình thành và rèn luyện kĩ năng viết văn cho học sinh là một yêu cầu rất cần thiết. Qua nhiều năm giảng dạy ở khối lớp 4, tôi nhận thấy việc dạy và học phân môn Tập làm văn - đặc biệt là văn miêu tả có một số khó khăn nhất định đó là: - Việc hoàn thành bài văn miêu tả đối với học sinh lớp 4 thường rất khó khăn. Do đặc điểm tâm lí, học sinh tiểu học còn ham chơi, khả năng tập trung chú ý quan sát chưa tinh tế, năng lực sử dụng ngôn ngữ chưa phát triển tốt, dẫn đến khi viết văn miêu tả, học sinh còn thiếu vốn hiểu biết về đối tượng miêu tả,…hoặc không biết cách diễn đạt điều muốn tả. - Đa số học sinh tỏ ra lúng túng khi làm bài, đa số các em nghiêng về kể nhiều hơn tả. - Vốn hiểu biết về thực tế cũng như vốn từ ngữ của các em còn hạn chế. - Các em chưa có kĩ năng dùng từ đặt câu cho chính xác. - Chưa biết sắp xếp các ý sao cho đúng trình tự miêu tả. 2 - Chưa biết cách chuyển ý giữa các đoạn, làm cho các đoạn văn trong một bài văn rời rạc, chưa có sự liên kết tốt. - Chưa bộc lộ cảm xúc của mình qua bài viết. - Một số em có năng lực học tập tốt thì đa số bài viết của các em bó hẹp vào khuôn khổ của những bài văn mẫu; Tuy nhiên những từ ngữ, hình ảnh trong bài văn mẫu không phù hợp với thực tế mà mang tính sáo rỗng, cứng nhắc. Từ những lí do trên, là một giáo viên đã nhiều năm giảng dạy khối lớp 4, tôi suy nghĩ làm sao tìm ra biện pháp giảng dạy phù hợp nhằm thực hiện mục tiêu của môn học - đó là giúp các em học sinh biết cách quan sát và ghi lại những quan sát của mình một cách chân thật, sinh động bằng những từ ngữ, hình ảnh giàu cảm xúc mà phù hợp với thực tế các em, đồng thời góp phần cùng các môn học khác mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy logíc, tư duy trừu tượng, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh. Đó chính là lí do và mục đích mà tôi lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả đạt kết quả tốt”. Đây là kinh nghiệm mà tôi rút ra trong quá trình giảng dạy. 3 PHẦN II: NỘI DUNG 1. Thực trạng: Ở lớp 4 văn miêu tả được học từ tuần 14 cho đến hết tuần 33, hệ thống bài học được sắp xếp rất hợp lí và logic. Nhìn chung có 3 dạng bài cơ bản đó là : - Miêu tả đồ vật. - Miêu tả cây cối. - Miêu tả con vật. Cụ thể như sau: Văn miêu tả Học kì I Khái niệm miêu tả 1 tiết Miêu tả đồ vật 6 tiết Học kì II Cả năm 1 tiết 4 tiết 10 tiết Miêu tả cây cối 11 tiết 11 tiết Miêu tả con vật 8 tiết 8 tiết 23 tiết 30 tiết Tổng cộng số tiết 7 tiết Qua nội dung chương trình Tập làm văn trên, ta thấy thể loại văn miêu tả khá trọng tâm và quan trọng trong chương trình Tập làm văn lớp 4. Bởi văn miêu tả vẽ ra các sự vật, sự việc, hiện tượng, . . . bằng ngôn ngữ một cách sinh động, cụ thể. Văn miêu tả giúp người đọc nhìn rõ chúng, tưởng như mình đang “xem tận mắt, bắt tận tay”. Tuy nhiên, hình ảnh đồ vật, cây cối, con vật gần gũi với các em. . . do văn miêu tả tạo nên không phải là một bức ảnh chụp lại, sao chép lại một cách vụng về. Nó là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế, những rung động sâu sắc mà người viết đã thu lượm được khi quan sát cuộc sống. Tuy nhiên, để thực hiện được các điều này quả là một điều không đơn giản. Việc làm trước tiên của tôi là tiến hành điều tra thực trạng của học sinh trong lớp tôi trong năm học 2014 – 2015 vừa qua, tôi đánh giá bài làm của các em theo 2 mức cụ thể như sau: 4 * Học kì I năm học: 2014 - 2015 - HS hoàn thành bài viết: 22 em, tỉ lệ: 57,9 % - HS chưa hoàn thành bài viết: 16 em, tỉ lệ: 42,1 % + Số học sinh hoàn thành bài viết được đánh giá kĩ năng làm văn theo 2 mức: a/ Kĩ năng phân tích đề bài, kĩ năng tìm ý và lựa chọn ý, kĩ năng xây dựng dàn ý. Kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn văn thành bài văn. b/ Kĩ năng thể hiện cảm xúc, cảm nhận sâu sắc của mình về bài viết. 2. Biện pháp thực hiện: 17 em 5 em Xuất phát từ thực trạng trên, tôi đã đưa ra một số biện pháp tiến hành trên cơ sở các phương pháp đặc trưng của phân môn mà Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định nhằm nâng cao chất lượng dạy học sinh lớp 4 viết văn miêu tả mà tôi đã áp dụng có hiệu quả. Cụ thể như sau: a/ Biện pháp chung: - Nghiên cứu sách giáo viên, các tài liệu tham khảo liên quan đến việc dạy và học phân môn Tập làm văn lớp 4. - Dạy học bằng các phương pháp và hình thức phù hợp nhằm phát huy tính tích cực học tập môn tập làm văn của học sinh. - Sử dụng đồ dùng dạy học có hiệu quả (Tranh ảnh, vật thật). - Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy nhằm chuyển tải nội dung cần lĩnh hội đến với học sinh một cách nhẹ nhàng, có hiệu quả. - Quan tâm đến các đối tượng học sinh trong lớp - đặc biệt là các đối tượng học sinh yếu; trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ khi các em gặp lúng túng trong giờ học. - Kết hợp với các môn học khác cung cấp thêm vốn từ cho học sinh. - Bản thân giáo viên luôn tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm qua sách báo, qua đồng nghiệp để cải tiến, đầu tư cho mỗi bài dạy. Công việc này được tôi tiến hành xuyên suốt ngay từ đầu năm học. 5 Đối với học sinh tôi trực tiếp giảng dạy, khi viết văn, các em chưa biết cách trau chuốt, gọt giũa lời văn, câu văn được bóng bẩy, mang tính “Nghệ thuật”, mà đa số các em “nghĩ sao thì viết vậy”; cộng với việc ít đọc sách báo, ít tham khảo các bài văn hay – câu chuyện hay - bổ ích ở sách báo, làm cho các em gặp nhiều khó khăn khi làm bài văn miêu tả. Đa phần các em trong lớp tôi đều sống ở môi trường thành thị, ngoài giờ học trên lớp, các em chỉ biết quanh quẩn trong nhà, một số em giải trí bằng các trò chơi game trên internet, do đó vốn sống của các em rất hạn chế - đây cũng là một trong những nguyên nhân gây khó khăn trong việc rèn kĩ năng viết văn của các em. Cho nên việc trước tiên là giáo viên cần phối kết hợp với gia đình, tạo cho các em có nhiều cơ hội tiếp xúc với các câu chuyện - các tác phẩm văn học một cách tự nguyện, các em được tiếp xúc với các cảnh quan thiên nhiên trong thực tế - điều này làm nảy nở trong các em tình yêu thiên nhiên, cung cấp nhiều hơn “vốn sống” cho các em. Ngoài ra trong quá trình học tập, giáo viên chú ý rằng các phân môn trong môn Tiếng Việt – nhất là phân môn Luyện từ và câu giúp cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh, rèn luyện cho các em cách dùng từ, đặt câu, hướng cho các em từ “ngôn ngữ tự nhiên” thành “ngôn ngữ nghệ thuật”. Kết quả cuối cùng của việc dạy Tập làm văn là hiệu quả của những đoạn văn, bài văn. Bài văn hay là bài văn đạt tốt các yêu cầu về nội dung, nghệ thuật và cảm xúc. Vì vậy, trong mỗi giờ Tập làm văn giáo viên cần thực hiện tốt các yêu cầu này. Ở lớp 4, để viết bài văn miêu tả, học sinh thường trải qua các khâu cơ bản là: - Tìm hiểu cấu tạo của bài văn tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật. - Phân tích các văn bản mẫu. - Quan sát, lập dàn ý chi tiết. - Viết thành bài văn hoàn chỉnh. - Học tập, rút kinh nghiệm qua giờ trả bài. Để tiến hành mỗi hoạt động trong từng tiết học có hiệu quả, giáo viên và học sinh lần lượt giải quyết các yêu cầu nói trên. b. Các biện pháp cụ thể: 6 Biện pháp 1: Tìm hiểu cấu tạo bài văn miêu tả. Trước hết cần phải cho học sinh hiểu rõ miêu tả là làm cho đối tượng mà ta đã từng nghe, từng thấy .. như được hiện ra trước mắt người nghe, người đọc. Từ việc nắm chắc thế nào là miêu tả, giáo viên cần giúp học sinh phân biệt được miêu tả trong văn chương và miêu tả trong khoa học. - Cho học sinh đọc văn bản mẫu ở sách giáo khoa, hướng dẫn học sinh xác định phần mở bài, thân bài, kết bài. - Cho học sinh rút ra ghi nhớ về cấu tạo của bài văn miêu tả. Biện pháp 2: Phân tích các văn bản mẫu. Ở bước này, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc, phân tích để hiểu và thấy được nghệ thuật quan sát và miêu tả, đồng thời thấy được cách chọn lọc chi tiết, cách sử dụng những hình ảnh đẹp trong bài văn miêu tả. Ví dụ: • Bài “Cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật” - Sách Tiếng Việt 4 tập 1 trang 143. - Cho học sinh đọc bài văn “Cái cối tân”. - Ngoài việc khai thác bài theo các câu hỏi được gợi ý trong sách giáo khoa. Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích thêm bài văn bằng các câu hỏi như: + Tác giả tả những sự vật gì? + Tác giả quan sát sự vật bằng những giác quan nào? + Tìm một chi tiết thể hiện sự quan sát tinh tế của tác giả. … - Sau khi tìm hiểu xong bài văn, Giáo viên cần nhấn mạnh cho học sinh thấy nghệ thuật quan sát và chọn lọc chi tiết tả cảnh của tác giả bài văn. * Đối với Phần luyện tập “Tả cái trống trường”- sách Tiếng Việt 4 tập 1 trang 145. Sau khi học sinh thực hiện xong yêu câu của sách giáo khoa. - Giáo viên yêu cầu học sinh phân tích để thấy được những hình ảnh đẹp trong mỗi bài văn. - Cách tiến hành bài này là: 7 + Cho học sinh đọc bài văn. + Giáo viên giới thiệu hình ảnh về cái trống trường cho học sinh quan sát. + Cho học sinh nêu ý kiến về hình ảnh mà các em thích trong bài văn? Có thể yêu cầu các em nêu lí do vì sao mình thích hình ảnh đó. - Giáo viên cần tôn trọng ý kiến của học sinh, đặt biệt khen ngợi những em tìm được những hình ảnh đẹp và giải thích được lí do vì sao mình thích hình ảnh đó (yêu cầu không bắt buộc). + Sau cùng, giáo viên chốt lại các hình ảnh đẹp ở bài văn và hướng cho học sinh nên đưa các hình ảnh đẹp vào bài văn miêu tả. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách lựa chọn hình ảnh, nội dung miêu tả và sắp xếp ý, đoạn. * Quan sát đối tượng miêu tả cần chú ý: Đây là khâu quan trọng và mấu chốt để học sinh có cơ sở viết thành bài văn, đoạn văn hoàn chỉnh. Vì vậy, giáo viên cần yêu cầu học sinh có sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp – đó là nhắc các em quan sát kĩ sự vật định tả trước khi vào học bài mới, điều này giáo viên nhắc nhở các em trong phần dặn dò cuối buổi học. Bởi học sinh hay nghĩ rằng với cảnh vật hay con vật quen thuộc hằng ngày thì không cần phải quan sát lại, điều này là hoàn toàn sai lầm. Sự tiếp xúc hằng ngày chỉ cho ta những nhận biết hời hợt, chung chung, chưa toàn diện. Có quan sát kĩ nhiều mặt, nhiều lượt, bằng nhiều giác quan thì mới có những hiểu biết đầy đủ, phong phú và chính xác. Quan sát trực tiếp còn cho ta những cảm xúc “nóng hổi” để đưa vào bài viết, tránh được sự tẻ nhạt. Bước đầu tiên để làm văn miêu tả là giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh cách quan sát. Trong văn miêu tả, quan sát có một vai trò rất quan trọng. Khi quan sat không chỉ sử dụng mắt nhìn mà còn phải dùng tất cả các giác quan: xúc giác, thính giác, vị giác,... Nếu không có quan sát thì vốn hiểu biết và trí tưởng tượng của học sinh rất khó phát triển. Văn miêu tả gắn chặt với tâm hồn, cũng như với óc quan sát tinh tế của con người. Chính những kết quả quan sát đã đem lại cho học sinh những 8 cảm nhận về sự vật hiện tượng cần miêu tả. Chẳng hạn, nếu học sinh chưa từng nhìn thấy cây bàng thì học sinh sẽ không thể miêu tả về cây bàng và cũng không có ấn tượng hay nhận thức gì về cây bàng. Khi dạy học sinh quan sát, giáo viên cần nhấn mạnh rằng bất kì sự tưởng tượng dù phong phú đến đâu cũng đều bắt nguồn từ thực tế, gắn với đời sống thực tế. Và muốn có sự hiểu biết thực tế thì cần phải quan sát. Những câu văn, bài văn miêu tả hay, có hồn và sinh động là những câu văn, bài văn của người biết quan sát, có tài quan sát và chịu khó quan sát. Chỉ cần chúng ta chịu khó quan sát, chúng ta sẽ có thể thấy được rất nhiều điều trong cuộc sống mà các em chưa bao giờ thấy hoặc chưa bao giờ để ý thấy. Mỗi một nhà văn muốn viết được những bài văn miêu tả hay cần phải có sự quan sát trải nghiệm thực tế thì mới có thể viết được lên những câu văn hay, sinh động mà mỗi khi đọc, người đọc dường như tưởng tượng ra được cả sự vật đó. Từ những hiểu biết về quan sát như vậy, khi dạy học sinh về văn miêu tả, giáo viên cần dạy các em cách quan sát. * Quan sát phải gắn liền với so sánh và tưởng tượng. Tưởng tượng có vai trò tích cực trong cuộc sống. Tưởng tượng tạo nên những hình ảnh rực rỡ, phản ánh rõ ước mơ, lí tưởng của con người. Đối với văn miêu tả, tưởng tượng có vai trò đặc biệt quan trọng. Nhờ có tưởng tượng mà tất cả những hình ảnh, màu sắc, âm thanh... đều có thể được tái hiện trước mắt chúng ta. Tất cả những chi tiết đặc trưng nhất của sự vật trong thực tế không phải lúc nào cũng bộc lộ, nhưng nhờ có tưởng tượng mà sự vật mới hiện ra với những nét đặc trưng của nó. Văn miêu tả nhằm giúp người đọc hình dung ra sự vật, sự việc một cách sinh động, cụ thể. Vì thế, khi viết văn, người ta thường dùng liên tưởng, so sánh. Nhờ có liên tưởng, so sánh mà văn miêu tả khơi gợi được trí tưởng tượng, óc sáng tạo của người đọc. Do đó, khi hướng dẫn học sinh quan sát, giáo viên cần hướng dẫn học sinh phát hiện ra những nét giống nhau giữa các sự vật hiện tượng. Hay nói cách khác, khi quan 9 sát, học sinh phải hình dung được trong đầu xem hình ảnh mình vừa quan sát được giống với những hình ảnh nào mà mình đã biết. Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh quan sát con vật mà em yêu thích, giáo viên có thể đặt ra hệ thống câu hỏi giúp học sinh liên tưởng và so sánh: + Khi nhìn từ xa trông con mèo như thế nao? Hình dáng ra sao? Có bộ lông màu gì? Có những bộ phận gì? + Khi chú mèo di chuyển trông như thế nào? Nhìn con mèo liên tưởng đến hình ảnh gì? Màu sắc của các bộ phân trên co thể con mèo như thế nào? Con mèo có gì nổi bật? ... Với hệ thống câu hỏi như trên, học sinh không những viết ra những điều mình quan sát được mà còn có thể viết ra những câu văn giàu hình ảnh. Ngoài ra, giáo viên còn có thể đọc cho học sinh nghe những đoạn văn, đoạn thơ có nhiều hình ảnh so sánh và liên tưởng hay. Ví dụ đoạn văn tả về ngoại hình của một con mèo: Đó là con mèo của nội em đem từ quê lên cho em. Lông nó đen tuyền, mượt như nhung. Em đặt luôn tên cho nó là Nhung. Vuốt tay lên người nó bàn tay như dịu đi bởi cài mượt mà của bộ lông dày. Hai con mắt trong vắt, lồ lộ, óng ánh như hòn thủy tinh màu lam. Mũi nó đen bóng như láng mỡ. Hai mép tua tủa những hàng ria. Mồi lần nó ngáp ngủ, cái lưỡi thè dài ra ngoài miệng, đỏ hồng như trái ớt chín. Lúc ấy bốn chân nó choãi ra, lưng uốn cong cong như cái vòng, đuôi dựng lên như cái cần câu. Nhung có bộ vuốt cực sắc. Nó có thể bấm vào cây cau leo lên thoăn thoắt đến gần ngọn rồi buông người nhảy xuống mà cứ êm ru bởi dưới các bàn chân là một nệm thịt như nệm “Kim đan”. Chính vì vậy, khi dạy văn miêu tả cho học sinh, giáo viên cần chú ý hướng dẫn các em sử dụng các hình ảnh so sánh, nhân hóa. Muốn được như vậy, giáo viên phải hướng dẫn các em quan sát thật kĩ những sự vật mà mình muốn miêu tả, từ đó các em có sự so sánh, liên tưởng xem các hình ảnh đó giống với cái gì để viết được những câu văn hay và sinh động. 10 Dưới đây là một đoạn văn mà học sinh đã quan sát, miêu tả rất kĩ về cây phượng. Trong đoạn văn này, em đã biết sử dụng những hình ảnh so sánh, nhân hóa rất sinh động và gợi cảm. Sân trường em trồng rất nhiều loài cây nhưng em vẫn thích nhất là cây phượng. Không biết cây phượng này trồng bao lâu rồi nhưng từ khi em bước vào lớp một đã nhìn thấy. Thân to mấy người ôm không xuể, vỏ cây màu nâu xám. Lên cao, thân cây chĩa ra nhiều nhánh lớn. Lá phượng xanh tươi, mượt mà. Mỗi ngọn lá rộng bằng trang vở, gồm nhiều chiếc lá nhỏ xíu mọc đối nhau. Gân lá cứng màu xanh nhạt, chìa từng cặp cũng đối nhau đều đặn hai bên cuống lá to chạy dài đến gần ngọn lá rủ xuống mềm mại. Hoa phượng có năm cánh mọc từng chùm, khi nở, hoa phượng xòe ra như bướm, bốn cánh màu đỏ, cánh kia trắng ngà điểm nhiều chấm đỏ dày và cứng hơn. Nhị hoa thì vươn dài, đầu to, mang túi phấn hơi cong. Mùa hè đến những chùm hoa phượng nở rộ đỏ rực cả một vùng. Đây là hình ảnh đọng lại trong tâm tưởng em mỗi khi những chú ve sầu bắt đầu râm ran vì nó gần gũi và gắn bó nhất với nhiều kỉ niệm của tuổi học trò. Có thể nói liên tưởng và tưởng tượng có vai trò đặc biệt quan trong trong khi viết văn miêu tả. Giáo viên phải giúp học sinh hiểu rằng tưởng tượng phải dựa trên thực tế, không có nghĩa là nghĩ vu vơ và không có cơ sở thực tế. Để học sinh biết cách liên tưởng đúng, giáo viên phải giúp học sinh tập quan sát, tìm hiểu thực tế một cách có ý thức, có thói quen, có phương pháp. Từ đó các em mới có nền tảng và có cơ sở để tưởng tượng đúng. Vì thế, giáo viên nên hướng cho học sinh biết quan sát theo cách quan sát tìm hiểu khoa học có mục đích khác nhau. + Mục đích quan sát khoa học là tìm ra công cụ cấu tạo của sự vật, đặc điểm tính chất nổi bật của sự vật đó. 11 + Quan sát văn học tìm ra màu sắc, âm thanh hình ảnh tiêu biểu và cảm xúc của người đối với sự vật. * Quan sát bằng nhiều giác quan. - Quan sát bằng mắt nhận ra màu sắc, hình khối, sự vật. - Quan sát bằng tai nhận ra âm thanh, nhịp điệu, gợi cảm xúc. - Quan sát bằng mũi nhận ra những mùi vị tác động đến tình cảm. - Quan sát bằng vị giác và xúc giác, quan sát cảm nhận… Nhờ cách quan sát này mà các em ghi nhận được nhiều ý, giúp bài văn đa dạng, phong phú và sinh động. * Quan sát tỉ mỉ nhiều lần. Muốn tìm ra ý của đoạn văn, học sinh phải quan sát kỹ, quan sát nhiều lần sự vật đó. Tránh quan sát qua loa như ta nhìn lướt qua hay liếc nhìn sẽ không tìm ra ý hay cho bài văn. * Học sinh cần xác định rõ vị trí, thời điểm, thời gian, trình tự quan sát. - Học sinh có thể lựa chọn các trình tự quan sát khác nhau + Trình tự không gian: Quan sát từ trên xuống dưới hoặc từ dưới lên trên, từ trái sang phải hay từ ngoài vào trong. + Trình tự thời gian: Quan sát từ sáng đến tối, từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc... + Trình tự tâm lý: Thấy nét gì nổi bật thu hút bản thân, gây cảm xúc quan sát trước. * Hướng dẫn học sinh xác định được yêu cầu quan sát của bài văn. * Phải tìm được những nét riêng tiêu biểu của sự vật. Không cần thống kê tỉ mỉ chi tiết về sự vật, sự việc, chỉ cần chép lại những đặc điểm mà mình cảm nhận sâu sắc nhất. * Để làm được bài văn đúng yêu cầu của đề bài, quá trình quan sát không thể dàn đều mà phải tìm ra trọng tâm quan sát, thường là nét chính của bài nêu bật chủ đề của đoạn văn và dụng ý của nguời viết. Có như vậy bài viết mới tránh khỏi dàn trải, nhạt nhẽo, lan man và lạc đề. 12 * Tạo hứng thú và cảm xúc. Quan sát trong văn học cần tạo cho học sinh hứng thú say mê. Từ đó bộc lộ được cảm xúc của bản thân trước đối tượng quan sát. Có hứng thú, cảm xúc học sinh mới dễ dàng tìm từ, chọn ý giúp cho việc diễn tả sinh động và hấp dẫn. Giáo viên phải chuẩn bị các câu hỏi gợi ý giúp học sinh quan sát. Chẳng hạn: + Thể loại của bài văn là gì? + Kiểu bài văn là gì? + Trọng tâm miêu tả sự vật nào? + Quan sát sự vật đó vào lúc nào? + Quan sát theo thứ tự nào? + Quan sát bằng giác quan nào? + Quan sát như vậy nhìn thấy hình ảnh gì? + Nghe thấy âm thanh gì, có cảm xúc gì? + Có nhận xét gì qua những quan sát đó? * Tổ chức cho học sinh quan sát. Tuỳ theo đề bài, giáo viên tổ chức cho các em quan sát ngay tại địa điểm có đối tượng cần tả. Nếu không thể tổ chức quan sát được, thì giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh quan sát trước khi tới lớp và ghi chép những điều cảm nhận được. - Học sinh phải tự làm việc, tự quan sát, tự ghi chép là chính. - Giáo viên có thể nêu câu hỏi chung cho cả lớp. Có thể nêu những câu hỏi gợi mở, học sinh trả lời miệng. Giáo viên cũng có thể gợi ý các em phát hiện những nét đặc sắc của bầu trời, cây cối, đồ vật, con vật xung quanh... - Bên cạnh, giáo viên cần nhắc các em quan sát phải đi đôi với việc tìm từ ngữ để diễn tả đúng và sinh động điều đã quan sát được. - Cân nhắc để lựa chọn được một thứ tự sắp xếp các chi tiết sẽ tả mà mình coi là thích hợp hơn cả. 13 - Khi vào học bài mới, giáo viên luôn nhắc học sinh nhớ: Mỗi bài văn cần có bố cục 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Với mỗi bài văn, công việc đầu tiên của tôi là yêu cầu học sinh tìm hiểu đề bài; học sinh đọc kĩ đề bài nhiều lần rồi trả lời các câu hỏi về vấn đề chính trong đề bài. + Đề bài thuộc thể loại gì? Đề bài yêu cầu tả gì? - Giáo viên gạch chân bằng phấn màu dưới các từ ngữ quan trọng để học sinh chú ý. - Nếu đối tượng miêu tả chưa gần gũi với học sinh thì giáo viên cần giới thiệu một số tranh ảnh minh họa cho học sinh quan sát. - Hướng dẫn học sinh lập dàn ý từ những điều đã quan sát được. * Sắp xếp ý, đoạn. - Căn cứ vào nội dung đã lựa chọn để sắp xếp từng ý (theo một thứ tự nào đó: từ ngoài vào trong, từ trước ra sau, từ xa đến gần, từ trên xuống dưới,…) - Sắp xếp các ý theo đoạn với thứ tự đã lựa chọn cho phù hợp. Để viết được bài văn, học sinh cần tập viết đoạn. Trong chương trình Tập làm văn lớp 4, bài tập viết đoạn chiếm số lượng nhiều. Đoạn văn được phân loại theo chức năng: đoạn mở bài, đoạn thân bài, đoạn kết bài. Cách phân loại này chi phối cách xây dựng các kiểu bài viết đoạn mở bài, viết đoạn thân bài và đoạn kết bài. Mỗi đoạn văn theo chức năng này lại được phân loại nhỏ hơn: mở bài trực tiếp, mở bài gián tiếp, kết bài mở rộng, kết bài tự nhiên (không mở rộng). Một số dàn bài trong văn miêu tả lớp 4: 1. Tả đồ vật: a) Mở bài: Giới thiệu đồ vật cần miêu tả. b) Thân bài: - Tả bao quát. - Tả chi tiết (tả từng bộ phận). - Tả công dụng. c) Kết bài: Tình cảm của em đối với đồ vật. 2. Tả cây cối: 14 a) Mở bài: Giới thiệu cây mình định tả (Đó là cây gì? Trồng ở đâu? Do ai trồng? Trồng từ bao giờ?...) b) Thân bài: - Tả bao quát về hình dáng của cây. - Tả chi tiết từng bộ phận của cây: rễ, thân, lá, cành, hoa, quả.. (hoặc có thể tả chi tiết về thời kì phát triển của cây: khi cây còn non đến khi cây trưởng thành, ra hoa và kết quả) c) Kết bài: Nêu tác dụng của của cây và tình cảm của em với cây đó. 3. Tả con vật: a) Mở bài: Giới thiệu con vật mình định tả. b) Thân bài: - Tả hình dáng con vật: từ bao quát đến chi tiết. - Tả hoạt động của con vật và thói quen sinh hoạt của nó (có thể tả phối hợp ngoại hình và hoạt động của con vật) c) Tình cảm của em đối với con vật đó. Biện pháp 4: Hướng dẫn xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài và xây dựng bố cục bài văn. Bài tập luyện viết văn miêu tả là những bài tập viết thành đoạn, bài. Khi học sinh thực hiện viết bài văn miêu tả cần có thời gian suy nghĩ tìm cách diễn đạt (dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá,…). Vì vậy, yêu cầu đặt ra là lời văn cần rõ ý, miêu tả sinh động, bộc lộ được cảm xúc, bố cục bài văn chặt chẽ, hợp lí trong từng đoạn, trong toàn bài để tạo ra một “chỉnh thể”. Các bài tập được xây dựng trên cơ sở quy trình sản sinh ngôn bản và chứa đựng trong nó nhiều bài tập hình thành những kĩ năng bộ phận (xác định yêu cầu nói, viết và tìm ý, sắp xếp ý thành bài đến viết đoạn văn, liên kết đoạn văn thành bài,…). Kĩ năng viết của học sinh được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết đoạn văn trước khi viết một bài văn hoàn chỉnh. Do đó, trong quá trình thực hiện các bài tập rèn luyện kĩ năng viết, giáo viên cần giúp học sinh thực hiện tốt những yêu cầu trong các nhóm bài tập sau: - Nhóm bài tập tiền sản sinh ngôn bản: gồm các bài tập phân tích đề bài, xác định nội dung viết, tìm ý, sắp xếp ý để chuẩn bị thực hiện yêu câu viết( miêu tả). Việc phân tích tìm hiểu đề giúp học sinh xác định được yêu cầu, nội dung, giới hạn của đề 15 bài. Với mỗi đề bài cụ thể, khi phân tích tìm hiểu đề, các em phải trả lời được câu hỏi: Viết để làm gì? Viết về cái gì? Viết cho ai? Thái độ cần được bộc lộ trong bài viết như thế nào? Tình cảm của người viết phải thể hiện được qua cách miêu tả. * Hướng dẫn học sinh viết các đoạn văn: - Đoạn văn mở bài: Có hai cách mở bài mà học sinh được học đó là mở bài trực tiếp và mở bài gián tiếp. Không nhất thiết phải gò bó học sinh làm mở bài theo cách nào để cho các em tự chọn cho mình cách mở bài hợp lý nhất và phù hợp với khả năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ một vấn đề mình cần nói tới, có thể bắt đầu bằng những câu thơ, những câu hát,…nhưng phải bám sát vào yêu cầu của đề, không lan man, xa đề, không rườm ra. Giáo viên có thể cho học sinh làm việc nhóm đôi hoặc cá nhân tự nêu cách vào bài của mình, sau đó cho các bạn nhận xét. Chẳng hạn với bài tả con mèo, một học sinh mở bài:''Hè vừa rồi, mẹ em đi chợ mua được một con mèo tam thể. Chú ta là thành viên thứ năm của gia đình em, nay đã được bốn tháng." - Giáo viên nêu câu hỏi: Đây là cách vào bài nào? (trực tiếp) - Giáo viên nêu yêu cầu để học sinh nêu cách mở bài khác sinh động hơn: "Nhà em đã từ lâu không có một chú chuột nào dám bén mảng tới vì có một chú lính gác cừ khôi, đó chính là chú Mướp. Mướp ta đã được một năm tuổi, nó thật hiền dịu nhưng cũng thật tinh nhanh, nó như người bạn thân của em." Hay với đề bài miêu tả cây phượng, học sinh mở bài như sau: "Đứng bên cổng trường em là cây phượng già. Một buổi trưa tháng năm, em ngồi dưới gốc phượng, ngắm nhìn những đóa hoa thắm tươi như báo hiệu một mùa hè nữa lại bắt đầu.” Từ các cách mở bài khác nhau các em nhận xét và tìm ra ý đúng, ý hay để mở bài một cách hợp lý nhất. - Đoạn thân bài: Có thể gồm một số đoạn văn, là toàn bộ nội dung miêu tả được viết theo từng phần, từng ý đã được sắp xếp khi quan sát, chuẩn bị viết bài. 16 Trong đó, thể hiện được hình ảnh về đối tượng miêu tả với ngôn từ và các biện pháp nghệ thuật mà người viết vận dụng để miêu tả. Ví dụ: với đề bài miêu tả cây phượng, học sinh viết phần thân bài như sau: “Cây phượng đã già lắm rồi, nghe bác bảo vệ kể lại, ngày xây dựng ngôi trường này, thầy hiệu trưởng đã trồng cây phượng làm kỷ niệm. Hai mươi năm trôi qua, cây phượng đã hai mươi tuổi. Cây đứng giang rộng cánh tay che chở cho chúng em dưới bóng mát của mình. Dưới gốc phượng, một cái rễ lớn, ngoằn ngoèo uốn lượn trông như con rắn đang trườn. Lớp da phong sương bạc phếch như màu đất ải. Quanh gốc cây giờ đã được xây một cái vòng tròn có đường kính năm mét. Bờ gạch xây giữ đất gốc được láng xi măng cho chúng em ngồi chơi. Buổi trưa ngồi trên bờ gạch, chúng em thích thú ngắm cây phượng tỏa bóng mát cho sân chơi. Cái thân nó đã đẫy vòng tay của em, sần sùi, cằn cỗi. Phần dưới gốc tròn vo làm ta ngỡ nó sẽ cao vút lên nhưng không, chỉ khoảng hơn hai mét là nó phân ra làm hai, rồi từ hai phần thân ấy các cành đua nhau mọc ra xiên chéo lên, đâm xòe về các phía. Tán phượng xòe rộng ra như một cái ô che mát cả một góc sân, chim đậu làm tổ trên đó, suốt ngày đua nhau hót líu lo. Từ những cành nhánh, lá phượng xòe ra với một bộ xương lá đều đặn đối xứng nhau. Trên các xương lá đó các phiến lá lại xòe ra đối xứng. Giữa vùng trời mênh mông, giữa đám lá xanh um, những đóa phượng nổi bật lên, rực lửa kiêu sa dưới ánh nắng hạ; tươi mát dịu dàng vào những buổi chiều tắt nắng; xinh xắn dễ thương vào những buổi sáng trong mát. Bây giờ đang mùa hè, các cành nở bung chùm hoa như lửa đỏ chói chang. Mỗi cánh hoa như cánh bướm bay. Một chùm hoa trong gió như bướm kết chùm lại. Hè còn về là phượng còn nở, là còn một khung trời trong sáng dành cho tuổi thơ, là còn những trang lưu bút với những dòng chữ xinh xắn, với lời lẽ ngây thơ nhưng chứa chan biết bao cảm xúc. Bỗng nhiên không khí chợt xôn xao hẳn lên khi trên tán cây con ve sầu cất tiếng. Tiếng ve inh ỏi. Một con ve kêu, hai con ve kêu... cả một dàn nhạc ve sầu lên tiếng. Tán phượng say nồng những cành mềm rung rinh màu lá xanh hoa đỏ. Sau mùa thi cử, những cánh bướm làm bằng hoa phượng lại hay lượn trong các quyển lưu bút học trò.” 17 - Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài văn nhưng lại rất quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người viết với đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm phần kết luận khô cứng, gò bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em thường làm kết bài không mở rộng, kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay, chưa hấp dẫn người đọc. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải gợi ý để học sinh biết cách làm phần kết bài có mở rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên thông qua những câu hỏi mở, sau đó cho các em nhận xét, sửa sai và chắt lọc để có được những kết bài hay. Ví dụ: với đề bài miêu tả cây phượng, học sinh viết phần kết bài như sau: “Bóng tán lá xanh sáng hôm nay bỗng hừng hực sắc đỏ nôn nao. Sắc đỏ nhập nhòa trong tâm trí em dòng mực đỏ lời phê, điểm số của thầy giáo, cô giáo, sắc đỏ của hoa phượng bên màu đỏ mái ngói ngôi trường như thì thầm nói: Mùa nghỉ hè nữa lại về.” Văn chương không phải là sợ đúng, sai với làm văn đúng thôi chưa đủ phải thấm đượm cảm xúc của người viết. Song tình cảm không phải thứ gò ép bắt buộc, tình cảm ấy phải chân thực, hồn nhiên, xuất phát từ chính tâm hồn các em. Bài văn không thể hay nếu thiếu cảm xúc của người viết, cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần kết bài mà còn thể hiện ở từng câu, từng đoạn của bài. Vì vậy giáo viên cần chú ý rèn cho học sinh cách bộc lộ cảm xúc trong bài văn một cách thường xuyên liên tục, từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài đến những tiết luyện tập xây dựng đoạn văn, tiết viết bài và ngay trong tiết trả bài nữa. Biện pháp 5: Bộc lộ cảm xúc trong đoạn văn, bài văn. Ngoài việc giúp học sinh sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong các câu văn, giáo viên cần giúp học sinh biết bộc lộ cảm xúc trong đoạn văn. Bởi một đoạn văn, bài văn hay không thể thiếu được cảm xúc của người viết. Cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần kết bài mà còn cần thể hiện trong từng câu, từng đoạn của bài văn. Điều này chúng ta cần gợi ý cho các em một cách cụ thể trong từng bài. Ví dụ: Một học sinh tả chiếc bàn học: 18 Mỗi lúc học bài mệt em thường gối má lên mặt bàn để cảm nhận hương thơm dìu dịu của một người bạn thân đã cần mẫn, miệt mài cùng em giải những bài toán khó. Miêu tả như vậy vừa sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người đọc, người nghe. Tương tự như vậy, tôi yêu cầu học sinh đưa ra những suy nghĩ, cảm xúc nhận xét trước một sự vật hay hiện tượng bất kỳ. Bài văn của học sinh tránh được nhược điểm khô khan, liệt kê sự việc mà thấm đượm cảm xúc của người viết. Giúp học sinh kĩ năng viết những câu văn sinh động, gợi tả, gợi cảm, giàu hình ảnh và nhạc điệu Từ cách dẫn dắt, gợi mở của giáo viên và từ một ý cho trước hay từ một câu đơn, giáo viên hướng dẫn học sinh tập mở rộng câu bằng cách thêm các thành phần phụ cho câu như: trạng ngữ, bổ ngữ, động từ, tính từ, từ láy, từ tượng hình, từ tượng thanh,…Sử dụng các hình ảnh, chi tiết sinh động biểu cảm; các biện pháp nghệ thuật như: nhân hoá, so sánh, điệp từ, điệp ngữ, hoán dụ, phóng đại,…làm cho cách diễn đạt câu văn, đoạn văn, thêm cụ thể, sống động giúp người đọc như cùng cảm nhận với mình. Yêu cầu rèn luyện kĩ năng này có thể thực hiện ở các tiết học luyện từ và câu hoặc tiết trả bài tập làm văn. Bài tài tập luyện viết câu sẽ gúp học sinh có ý thức viết văn ngày càng chặt chẽ về ý tứ, sinh động, giàu xúc cảm,…từ đó giúp các em thêm hứng thú học tập môn tiếng Việt nói chung và phân môn tập làm văn nói riêng. Ví dụ: * Từ những câu văn đã cho, viết lại cho sinh động, gợi cảm xúc bằng cách thêm biện pháp nghệ thuật: - Bông hoa hồng xinh đẹp. + Bông hoa hồng xinh đẹp đang tươi cười và thì thầm toả hương thơm. (Biện pháp nhân hoá). 19 * Điền thêm từ thích hợp vào chỗ dấu chấm chấm để tạo thành những câu văn gợi tả, gợi cảm: - Cổng trường ……………………………… chúng em vào lớp. + Cổng trường đang dang rộng vòng tay đón chúng em vào lớp. (Biện pháp nhân hoá). * Diễn đạt lại những câu văn sau đây bằng cách thêm các từ ngữ, các biện pháp nghệ thuật cho sinh động, gợi cảm. Những chùm hoa phượng như những tán lớn xoè ra. Những chùm hoa phượng như những tán lớn xoè ra như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau. (so sánh) Bên cạnh những yếu tố trên, giáo viên cần rèn cho học sinh kĩ năng viết bài văn có bố cục chặt chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu nội dung, thể loại và kiểu bài. Để bài làm của các em có bố cục chặt chẽ, cần kết hợp với phân môn Luyện từ và câu, hướng dẫn học sinh biết cách liên kết các đoạn văn bằng những từ ngữ như: chẳng bao lâu, từ lâu, tuy vậy, trong khi đó,…Nhắc nhở học sinh xuống dòng khi kết thúc đoạn văn, mở đầu đoạn tiếp theo bằng câu nối vào ý khác, làm cho bài văn trong sáng, mạch lạc, khúc chiết. Chữ viết phải rõ ràng và cố gắng rèn viết chữ đẹp. Bài làm cần sáng sủa, sạch sẽ, lưu ý nhắc nhở các em nắm vững các đặc điểm về thể loại, kiểu bài để lựa chọn những từ ngữ cho phù hợp dùng những tính từ gợi hình ảnh, gợi cảm xúc; những từ tượng thanh, tượng hình thích hợp; dùng các hình ảnh so sánh, ví von sinh động…để vừa gợi tả cho cụ thể, vừa thể hiện tình cảm, thái độ của mình với người được miêu tả. Tóm lại, vẻ đẹp của một đoạn văn, bài văn hay không chỉ ở ý nghĩa nội dung, bộc lộ cảm xúc mà nội dung và cảm xúc đó phải được thể hiện thông qua vẻ đẹp của tiếng Việt. Trong giảng dạy, cần hướng dẫn học sinh đi từ những cái cụ thể, chắt lọc những điều quan trọng về kiến thức, kĩ năng để truyền thụ cho các em. Khơi dậy tính kiên trì học hỏi, kiên trì rèn luyện ở các em. Gắn kiến thức với vốn sống, vốn hiểu biết của học sinh, đánh thức ở các em những gì các em đang có và “phát triển ” dần lên. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng