Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Skkn một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình ngữ văn ...

Tài liệu Skkn một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình ngữ văn lớp 11 cơ bản

.DOC
26
1505
123

Mô tả:

Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản BẢNG TÓM TẮT ĐỀ TÀI Họ tên tác giả: Trần Thị Lương Đơn vị công tác: Trường THPT Lộc Hưng A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài 2. Đối tượng nghiên cứu 3. Phạm vi nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận của đề tài 2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 3. Nội dung kinh nghiệm: 3.1. Khai thác Tiểu dẫn. 3.2. Đọc văn bản 3.3. Sử dụng thao tác so sánh trong bình giảng 3.4. Đổi mới phương pháp tự học và kiểm tra: 4. Kết quả thực hiện. 5. Đề xuất và kiến nghị. C. KẾT LUẬN Trần Thị Lương 1 Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài: Môn Ngữ văn là một môn học đặc thù. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Cái quan trọng nhất trong giảng dạy nói chung và trong dạy văn nói riêng là rèn luyện bộ óc, là rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp nghiên cứu, phương pháp tìm tòi, phương pháp vận dụng kiến thức của mình”(Trích Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 28, tháng 11 - 1973). Lời nói súc tích trên đây gợi cho người thầy giáo một phương pháp giảng dạy tiên tiến để thực hiện mục tiêu đào tạo con người mới. Việc dạy văn học, việc rèn luyện nhiều mặt như vậy chính là thể hiện quan điểm “Dạy văn là dạy cách sống, học văn là học làm người”. Từ lâu nay, yêu cầu chung của bài dạy đã được quyết định rõ ràng: kiến thức, kĩ năng, thái độ. Ba mặt này liên quan mật thiết với nhau. Vậy làm sao để học sinh có được ba yếu tố đó? Giáo viên được xem là kiến trúc sư trí tuệ, kiến trúc sư tâm hồn của học sinh. Hơn ai hết, người giáo viên xứng đáng với danh hiệu cao quý ấy. Giáo viên là người chủ đạo, người truyền thụ kiến thức, người hướng dẫn, gợi ý để học sinh tìm hiểu, phân tích tác phẩm, nhưng nhiều khi phải khuyến khích các em tinh thần phản biện, tìm tòi, phát hiện những cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Trong chương trình Ngữ văn của cấp THPT, thơ mới đưa vào chương trình lớp 11 ban cơ bản không nhiều, đối với học sinh từ việc cảm thụ các tác phẩm thơ trung đại tới cảm thụ thơ mới là cả một vấn đề không dễ dàng. Thơ mới lãng mạn 1932 -1945 là một hiện tượng văn học phong phú nhưng khá phức tạp. Hình tượng nhân vật trữ tình ở thơ mới hoàn toàn khác biệt ở thơ trung đại. Như Hoài Thanh đã nói: “Cá tính con người bị kiềm chế trong bao nhiêu lâu bỗng được giải phóng…cái sức mạnh súc tích từ mấy ngàn năm nhất đán tung bờ vỡ đê”. Phong trào thơ mới đã làm một cuộc cách mạng trong thi pháp và tư duy. Trần Thị Lương 2 Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản Vậy làm sao để học sinh cảm thụ được thơ mới dễ dàng? Làm sao để mỗi giờ dạy và học thêm sinh động? Với tinh thần tìm tòi đổi mới phương pháp giảng dạy, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn 11, qua một số bài thơ: Vội vàng, Tràng giang, Đây thôn Vĩ dạ. Mà bản thân nhận thấy đem lại hiệu quả. 2. Đối tượng nghiên cứu: - Học sinh lớp 11B1, 11B3 - Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình ngữ văn lớp 11 cơ bản. 3. Phạm vi nghiên cứu: - Đề tài được nghiên cứu thử nghiệm ở lớp 11B1 và lớp 11B3. - Sách giáo khoa chương trình chuẩn lớp 11. Ở đây người viết chỉ minh họa qua 3 bài thơ: Vội vàng (Xuân Diệu), Tràng giang(Huy Cận), Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử). 4. Phương pháp nghiên cứu: - Đọc, nghiên cứu tài liệu, tổng hợp để hình thành đơn vị kiến thức. - Phương pháp kiểm tra. - Phương pháp so sánh đối chiếu kết quả. B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI: 1. Cơ sở lí luận của đề tài:  So sánh là một thao tác của tư duy. Trong quá trình nhận thức thế giới khách quan, kĩ năng so sánh bao giờ cũng phát hiện cái mới, cái khác biệt. Đối với việc phân tích văn chương, so sánh thường hướng vào hai mục đích chính: - Chỉ ra những nét riêng, nét độc đáo, sáng tạọ; phát hiện những vẻ đẹp văn chương không lặp lại, những đóng góp cụ thể của nhà văn. Có làm được như vậy thì sự cảm thụ mới đầy đủ và chu đáo. Trần Thị Lương 3 Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản - Phát hiện ra những quy luật chung giữa các tác phẩm, các tác giả hoặc các giai đoạn văn học. Việc rút ra những quy luật chung giúp cho nhận thức của người phân tích về một vấn đề trở nên sâu sắc hơn, vững vàng hơn và từ đó đặt nền móng cho những mới mẻ khác. * Kĩ năng so sánh có thể thực hiện trên nhiều cấp độ. Nhỏ thì cách dùng từ, hình ảnh, hình tượng…Lớn hơn thì là đề tài, tác phẩm, tư tưởng, phong cách, so sánh giữa các giai đoạn, thời kì, những đặc điểm của nền văn học. Ở đây tôi chỉ trình bày một số cấp độ: - Cấp độ hình ảnh. - Cấp độ tác phẩm. Khi phân tích một tác phẩm, ta so sánh: Những tác phẩm trước nó để thấy sự kế thừa và cách tân, những tác phẩm của chính nhà văn để thấy vẻ riêng, nét riêng hoặc quy luật chung nào đó, những tác phẩm cùng thời để thấy sự độc đáo, những tác phẩm của chính nhà văn để thấy vẻ riêng, nét riêng hoặc quy luật chung nào đó. - Cùng khuynh hướng tư tưởng thơ mới lãng mạn nhưng giữa các tác giả: Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử…có những biểu hiện khác nhau. - Cấp độ giữa các giai đoạn, thời kì: văn học trung đại và văn học hiện đại. Qua đó chúng ta thấy được tầm quan trọng của kĩ năng so sánh trong việc nhận thức, trong việc rút ra những kết luận, những đánh giá về các hiện tượng văn học. - Kĩ năng so sánh còn mài sắc năng lực tư duy và năng lực cảm thụ hướng đến việc phát hiện những vẻ đẹp độc đáo không lặp lại của văn chương. Muốn phát huy được khả năng này người học sinh phải: - Có vốn kiến thức phong phú về văn chương. Chính bề dày hiểu biết sẽ đem lại hai khả năng: vừa có nguyên liệu để so sánh, vừa tạo được những tiền đề để mở rộng kĩ năng so sánh. Trần Thị Lương 4 Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản - Bên cạnh vốn kiến thức là nền tảng, cần có tư duy sắc sảo và trường liên tưởng nhạy bén. - Trong khi phân tích, bình giá cần luôn luôn có ý thức so sánh, có nghĩa là so sánh phải trở thành một “phản xạ” thường trực trong tư duy.  Một số đặc điểm chung của Thơ mới: Để có cơ sở giảng dạy phần thơ mới, giáo viên đưa ra một số đặc điểm cơ bản của thơ mới: Thơ mới là một cuộc cách mạng về hình thức nghệ thuật, giải phóng thơ ca khỏi những ràng buộc nghiêm ngặt đã trở thành lỗi thời của thơ ca trung đại. Cuộc cách mạng hình thức đó có nguồn gốc từ cuộc cách mạng tư tưởng, gắn liền với quá trình giải phóng cái tôi cá nhân khỏi những ràng buộc của con người phận vị, “con người chức năng trong xã hội luân thường” (Trần Đình Hượu). Nói như Hoài Thanh, Thơ mới là sản phẩm của “khát vọng thành thật”, nó đặt cái tôi cá nhân và tính chủ quan vào trung tâm của thơ ca, nó cho phép biểu đạt mọi cung bậc của cảm xúc và suy tư của cá nhân.. Thơ mới là “Một bước tổng hợp những giá trị văn hóa Đông Tây, truyền thống và hiện đại” (Phan Cự Đệ).  Thơ mới nhìn từ góc độ nghệ thuật: Như đã trình bày ở trên, Thơ mới là một cuộc tổng hợp những truyền thống thơ ca phương Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại. Cuộc tổng hợp đó trước hết là ở trên bình diện hình thức nghệ thuật. Bước tổng hợp đó diễn ra trên tất cả các cấp độ: ngôn ngữ, thi liệu, thể loại, tư duy sáng tạo…  Thơ mới một phương thức cảm thụ thế giới mới: Thơ mới biểu hiện một cuộc cách mạng của tư duy thơ: đặt cái tôi cá nhân ở trung tâm cảm thụ thế giới. Trong thơ mới, có một sự giao hòa giữa thế giới nội cảm của chủ thể trữ tình với thế giới ngoại cảnh, có sự nới rộng những biên độ của sự cảm thụ thế giới bằng việc kết hợp các giác quan một cách kì lạ: Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang Trần Thị Lương 5 Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng (Xuân Diệu – Đây mùa thu tới) Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp (Huy Cận – Tràng giang)  Thơ mới – bản ghi chân thực hiện thực tinh thần con người cá nhân trước cách mạng: Trong thời điểm khởi đầu của phong trào Thơ mới, Thế Lữ viết tuyên ngôn cho một cuộc cách mạng thơ: Tôi là kẻ bộ hành phiêu lãng Đường trần gian xuôi ngược để vui chơi Tìm cảm giác nsgay trong tiếng khóc câu cười, Trong lúc gian lao trong giờ vui sướng, Khi phấn đấu cũng như hồi mơ tưởng Tôi yêu đời cùng với cảnh lầm than, Cảnh thương tâm, ghê gớm hay dịu dàng Cảnh rực rỡ ái ân hay dữ dội. (Thế Lữ - Cây đàn muôn điệu) Thơ mới là tiếng lòng của một tâm hồn rộng mở với thế giới, một tâm hồn được cởi bỏ mọi ràng buộc, chính vì vậy từ góc độ loại hình, Thơ mới thuộc loại thơ trữ tình, thường lấy thiên nhiên và tình yêu làm đề tài phản ánh, nó đối lập với thơ ca truyền thống cổ động, thơ ca mang mùa sắc chính luận. Chính vì vậy, yếu tố chi phối sự vận động của một văn bản thơ là mạch cảm xúc, là đời sống nội tâm của chủ thể trữ tình.  Nỗi buồn, sắc thái thẩm mỹ chủ đạo của thơ mới: Xuất phát từ những nguyên nhân có tính lịch sử, văn hóa xã hội, một giai đoạn tan vỡ của các giá trị, một thế hệ thanh niên đang đang kiếm tìm lí tưởng. Nỗi buồn là một tâm trạng phổ biến trong toàn bộ thơ mới: Hôm nay trời nhẹ lên cao Trần Thị Lương 6 Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn (Xuân Diệu – Chiều) Ta trút linh hồn giữa lúc đây Gió sầu vô hạn nuôi trong cây Còn em sao chẳng hay gì cả? Xin để tang em đến vạn ngày (Hàn Mặc Tử - Trút linh hồn) Tương tư đôi chốn, tình ngàn dặm Vạn lý tình sầu lên núi tiếp mây. (Huy Cận – Vạn lý tình) Tuy nhiên, trong Thơ mới cũng có những màu sắc trong sáng, êm nhẹ, những bức tranh thiên nhiên tràn nhựa sống, vui tươi khi con người cá nhân tìm về với thực tại, với đời, với con người, với tuổi trẻ, với quê hương đất nước: Bức tranh xứ Huế đẹp, tinh khôi trong “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử), bức tranh mùa xuân với vẻ đẹp của màu sắc, âm thanh tràn đày nhựa sống trong bài thơ “Vội vàng”của (Xuân Diệu) …. Như vây, để hiểu – cảm được thơ mới không phải là một điều dễ dàng đối với các em. Phong trào thơ mới là thể loại thơ chiếm vị trí quan trọng trong chương trình sách giáo khoa lớp 11 cơ bản. Việc cảm thụ tác phẩm luôn là một yêu cầu hàng đầu giúp các em nâng cao năng lực cảm thụ tác phẩm, thẩm thấu được các giá trị Chân, Thiện, Mỹ của cuộc sống văn chương, bồi đắp nâng cao tâm hồn. Vì vậy, đổi mới phương pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn nhằm góp phần không nhỏ trong việc làm cho môn văn thật sự là một môn học hứng thú với học sinh và giáo viên, làm giờ dạy đọc hiểu tác phẩm thơ sinh động và cuốn hút hơn, phát huy cao độ tính tích cực sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập bộ môn Ngữ văn. Trần Thị Lương 7 Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản 2. Cơ sở thực tiễn: Trong thực tế giảng dạy văn học, giáo viên đã vận dụng thao tác liên hệ, so sánh, đối chiếu để mở rộng và khắc sâu kiến thức, đọc diễn cảm văn bản nhập thân vào nhân vật trữ tình, đổi mới cách kiểm tra đánh giá học sinh nhưng sự vận dụng chưa nhiều. Giáo viên nghiêng về truyền thụ kiến thức mà ít chú ý tới thao tác tư duy và cách diễn đạt, nâng cao cách cảm thụ của học sinh qua cách đọc, cách kiểm tra đánh giá học sinh. Vì vậy, vận dụng thao tác so sánh, đọc văn bản, kiểm tra đánh giá học sinh ít nhiều cũng khắc phục được những hạn chế nói trên. Thực tế học văn của học sinh hiện nay học sinh ít tìm tòi và suy nghĩ, ít so sánh đối chiếu làm cho thao tác tư duy văn học trở nên cằn cỗi, ít sự nhạy bén, đọc văn bản không đúng với “cái thần” của văn bản, học sinh không còn ham mê học văn học. Vận dụng và rèn luyện thao tác so sánh, cách đọc văn bản, thay đổi cách đánh giá kiểm tra trong giờ giảng văn vừa phát triển tư duy cho học sinh, vừa tạo nên niềm say mê học văn, vừa củng cố kiến thức đã biết và khắc sâu kiến thức mới . Mặt khác, đổi mới phương pháp dạy và học hiện nay đã đặt ra vấn đề không chỉ là phương pháp chung chung mà chính là đi vào các thao tác giảng dạy cụ thể để đem lại hiệu quả thực sự, không phải chạy theo thành tích mà là đào tạo những con người có tư duy và năng lực nhạy bén, thông minh. Cho nên vận dụng thao tác so sánh, đọc văn bản đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá học sinh trong giảng dạy văn học là một việc làm cần thiết. 3. Nội dung kinh nghiệm: Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản. 3.1. Khai thác tiểu dẫn: Phần tiểu dẫn của mỗi văn bản đều góp phần quan trọng để tiếp cận văn bản. Nắm rõ phần tiểu dẫn như là chiếc chìa khóa mở ra để hiểu được văn bản. Tác phẩm ra đời chịu sự ảnh hưởng của nhà văn, hoàn cảnh, lịch sử xã hội…những vấn đề đó nó theo suốt quá trình tìm hiểu văn bản. Trần Thị Lương 8 Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản  Tích hợp với bài văn học sử và những kiến thức liên quan: Nhìn chung cảm quan “cái tôi” trong thơ mới đều buồn, cô độc, lạc loài. Để giúp học sinh hiểu được điều đó bắt buộc chúng ta phải hướng cho học sinh tích hợp với bài văn học sử (khái quát văn học). Xuất phát từ nguyên nhân có tính lịch sử, văn hóa và xã hội: một thời đại đau khổ của dân tộc, một giai đoạn tan vỡ của các giá trị, một thế hệ thanh niên đang đi tìm lí tưởng trong hoàn cảnh đất nước mất chủ quyền độc lập dân tộc, họ rơi vào “thiếu một niềm tin đầy đủ”(Hoài Thanh) mà nỗi buồn trở thành tâm trạng phổ biến bao trùm lên toàn bộ thơ mới. Chẳng hạn, học sinh không thể thấm thía nỗi buồn cùa Huy Cận nếu như giáo viên không đối sánh với hoàn cảnh lịch sử xã hội lúc bấy giờ. Vì bất mãn với thực tại, đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, Huy Cận không tìm được lối đi cho mình nên rơi vào bế tắc, nỗi buồn không tìm được lối ra, tác giả bơ vơ ngay chính trên quê hương mình. Hoặc như bài “Vội vàng”, tại sao Xuân Diệu lại có cách nhìn đời mới mẻ, với đôi mắt non tơ như vậy? Cái gọi là mới mà trước đây trong nền thơ ca trung đại chưa bao giờ có? Điều đó phải kể đến sự ảnh hưởng tư tưởng phương Tây trong cách nhìn đời của Xuân Diệu. Thi sĩ Pháp Rosard thời phục hưng kêu gọi đừng chờ đợi đến ngày mai, hãy hái đi ngày hôm nay những bông hoa hồng của cuộc sống. Lời kêu gọi đó mang ý nghĩa nhân văn tiến bộ vì nó chống lại chủ nghĩa khắc kỉ và triết lí diệt dục của nhà thờ Thiên chúa giáo và chế độ phong kiến Trung cổ. Từ sự tiếp nhận văn hóa và tư tưởng phương Tây, Xuân Diệu không chấp nhận cuộc sống đơn điệu, “mờ mờ nhân ảnh” mà sống bản lĩnh, sống mạnh mẽ để tận hưởng hết những gì mà thiên nhiên cuộc đời ban tặng. Hay, nỗi buồn của Hàn Mặc Tử trong bài Đây thôn Vĩ Dạ, học sinh sẽ khó mà tiếp nhận được nỗi buồn của Hàn Mặc Tử nếu như chúng ta không đề cập tới hoàn cảnh mà Mặc Tử nhận được tấm thiệp hỏi thăm của Kim Cúc, người con gái mà thi nhân đem lòng yêu đơn phương. Mặc Tử đã nhận được bức thiếp hỏi thăm trong khi sự mặc cảm đau đớn của căn bệnh vô phương cứu chữa nên cảnh vật trong cách nhìn của thi nhân ngày cứ mờ dần đi và rơi vào ảo ảnh xa rời tầm tay của con người đau thương đến tột cùng đó. Trần Thị Lương 9 Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản  Dạy học phần tiểu dẫn cần đảm bảo các yêu cầu: đúng kiến thức, ngắn gọn, trọng tâm, ấn tượng. Một tiết giảng văn trên lớp tương đối ngắn, vậy ở phần Tiểu dẫn này giáo viên không nhất thiết phải nói lại tất cả những thông tin mà sách giáo khoa đã cung cấp như: năm sinh năm mất, các hoạt động của tác giả…mà giáo viên nên đề nghị học sinh xem sách giáo khoa. Giáo viên đi xoáy sâu vào những vấn đề cần thiết có liên quan đến văn bản. Nên đi sâu vào sự đóng góp, phong cách sáng tác để giúp học sinh phân biệt với các tác giả khác, đồng thời thấy vị trí của tác giả đó trên thi đàn văn học. Theo tôi, dạy học phần Tiểu dẫn cần đảm bảo các yêu cầu: đúng kiến thức, ngắn gọn, trọng tâm, ấn tượng. Căn cứ vào diễn biến của giờ học, giáo viên hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh kiến thức. Hơn thế nữa, giáo viên cùng học trò khơi những rung cảm đầu tiên. Có như thế các em mới có hứng thú chuyển tiếp vào đọc hiểu văn bản. Ví dụ: Để khai thác phần Tiểu dẫn trong bài “Vội vàng”, giáo viên tập trung một số nét cơ bản: Nét thứ nhất: Xuân Diệu là trí thức Tây học, ảnh hưởng tư tưởng và văn hóa Pháp một cách có hệ thống trên ghế nhà trường. Mặt khác, do xuất thân từ một gia đình nhà nho (con ông tú kép) nên ở Xuân Diệu có tiếp thu nền văn hóa truyền thống. Vì thế, ở nhà thơ có sự kết hợp hai yếu tố cổ điển và hiện đại trong tư tưởng và thẩm mỹ. Tuy nhiên, ảnh hưởng của tư tưởng phương Tây mạnh hơn. Nét thứ hai về phong cách sáng tác của Xuân Diệu: Xuân Diệu “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”(Hoài Thanh); ông đã đem đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện quan niệm sống mới mẻ, cùng với những cách tân nghệ thuật sáng tạo…Để minh chứng cho điều đó, GV không chỉ nhắc lại kiến thức trong SGK mà cần làm rõ cho HS thấy được qua một số sáng tác của Xuân Diệu, điều đó không chỉ thể hiện trong bài “Vội vàng”(Giục giã, Xa cách, Đây mùa thu tới…). Như vậy, HS sẽ dễ dàng thấy được cái mới, tư tưởng của Xuân Diệu. Đồng thời sẽ tạo cảm xúc cho các em có hứng thú khi vào tìm hiểu văn bản. Trần Thị Lương 10 Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản Để đạt được điều đó, tôi đòi hỏi học sinh phải đọc kĩ bài ở nhà. Theo tôi khi giáo viên yêu cầu học sinh cung cấp những nội dung chính ở phần tiểu dẫn không nên cho học sinh cầm sách hoặc đọc lại từ đầu đến cuối như trong sách đã cung cấp. Nếu giáo viên làm như vậy, vô tình đã tạo cho học sinh tính lười biếng về nhà không đọc trước bài. Mục Tiểu dẫn tôi yêu cầu học sinh đọc kĩ ở nhà, trong tiết giảng tôi yêu cầu học sinh nêu những vấn đề cơ bản(thí dụ ở mục tiểu dẫn gồm có 7 ý, tôi yêu cầu học sinh nhớ được ít nhất là 4 ý). Như vậy, học sinh chỉ cần đọc qua mục Tiểu dẫn ở nhà cỡ 2 lần, tức là kiểm tra sự đọc hiểu của các em. Qua một thời gian thực hiện, các em đã có một thói quen khi tiếp xúc với một văn bản. 3.2. Đọc văn bản. Việc gây dựng và nuôi dưỡng cảm xúc của giáo viên và học sinh được thực hiện ngay từ khi giáo viên cùng học sinh đọc bài văn bài thơ. Thâm nhập bài thơ tốt là bí quyết thành công trước tiên của bài giảng văn. Do đó, ta nên đặt cho mình yêu cầu không nhỏ khi hướng dẫn học sinh đọc và tự mình đọc để gây dựng cảm xúc cho bản thân và cho học sinh. “Đọc thơ” khác với “đọc chữ”. Thâm nhập bài thơ nghĩa là phải thực sự cảm được cái hay, cái đẹp của thi phẩm, phải sống cùng với tâm trạng tác giả. Nhà thơ đã bằng tất cả sự say mê, rung động của mình để sáng tạo tác phẩm thì người cảm thụ và giảng dạy nó cũng phải có sự thông cảm thích đáng trước sự say mê, rung động đó. Đọc thơ là bước đầu đi vào tác phẩm là yêu cầu khá cao với mỗi giáo viên. Đọc một tác phẩm thơ trữ tình đọc với tất cả tâm hồn của mình. Có như vậy ta mới hiểu nỗi ý nghĩa biểu hiện của ngôn ngữ, một thứ ngôn ngữ đặc biệt, giàu hình ảnh, hàm súc, tinh tế. Thâm nhập bài thơ là phải qua ngôn ngữ, hình ảnh, nhạc điệu của bài thơ để cảm thông với tình cảm nhà thơ. Và nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc hồn nhiên, trong sáng, dạt dào của nhà thơ. Thơ như cách nói của Lưu Trọng Lư đi vào lòng người bằng bánh xe của tình cảm. Để làm được điều đó, đòi hỏi mỗi giáo viên phải thâm nhập tác phẩm nhiều lần. Đối với học sinh phải đọc trước nhiều lần ở nhà. Phải làm sao khi học sinh tiếp xúc với văn Trần Thị Lương 11 Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản bản thơ trữ tình, thì điều đầu tiên là phải đọc đúng tinh thần của nó: thể hiện được tình cảm của thi nhân. Thủ tướng Phạm Văn Đống đã nói: “Phải làm cho học sinh thấy được trong bài văn này người ta nói như vậy, nội dung là như vậy nên có cách diễn tả như vậy, và đó là cái hay phải thấy”. Như vậy, đòi hỏi học sinh phải đọc kĩ ở nhà trước khi tới lớp. Để tránh trường hợp học sinh không đọc bài ở nhà, khi kiểm tra bài cũ tôi yêu cầu học sinh trả lời một số câu hỏi liên quan đến bài mới. Ví dụ: Em thấy bài thơ có gì hay? Nội dung của bài thơ? …Sau đó, tôi sẽ cho điểm các em (7điểm bài cũ, 3 điểm bài mới). Như vậy đòi hỏi học sinh phải đọc trước ở nhà mới trả lời được câu hỏi và chính điều đó rèn luyện cho học sinh cách cảm thụ ban đầu khi chuẩn bị bài ở nhà. Tránh trường hợp, tới giờ giảng mới đọc thì mức cảm thụ của học sinh không cao. Trước khi giảng bài, tôi yêu cầu một học sinh nhận xét giọng điệu bài thơ, sau đó yêu cầu học sinh thể hiện qua văn bản. Sau khi học sinh đọc xong, tôi nhận xét cách đọc của học sinh, sau đó giáo viên đọc lại. Đọc thơ thể hiện được tâm trạng của nhân vật trữ tình xem như thành công một nữa. Việc đọc truyền cảm ở mức ban đầu giúp cho việc truyền đạt về nội dung và nghệ thuật bài thơ, nhất là khi bắt gặp những từ ngữ, những câu hay, những đoạn thơ giàu nhạc điệu, những hình ảnh sâu sắc. Chẳng hạn trong bài “Vội vàng” (Xuân Diệu), ở 4 câu thơ đầu nhịp thơ gấp, mạnh nhằm thể hiện một ước muốn chiếm lĩnh thiên nhiên đất trời, muốn ngăn bước đi của tạo hóa. Những câu thơ tiếp theo như những tiếng reo vui của Xuân Diệu đứng trước cảnh xuân, cảnh trời tràn sức sống, thi nhân như ngấu nghiến lấy những hình ảnh đang độ xuân thì. Nhưng tới câu thơ “ Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”, giọng điệu chững lại, như gãy đôi, thấm đượm sự hụt hẫng, u buồn khi thi nhân cảm thức được sự ra đi của tuổi xuân và sự vĩnh hằng của thiên nhiên đất trời. Bài “Tràng giang” giáo viên thể hiện làm sao cho nỗi buồn của Huy Cận như lan tỏa ra từng câu chữ, từng hình ảnh. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” , tôi mạnh dạn ngâm thơ cho học sinh nghe. Để có được điều đó, tôi đã phải tập luyện rất nhiều lần tới khi tới lớp. Và một điều đặc biệt nữa là đối với mỗi bài thơ tôi đều thuộc trước khi giảng bài cho các em. Điều đó giúp cho chúng ta khỏi lúng túng khi giảng bài Trần Thị Lương 12 Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản trên lớp. Đọc thơ chỉ có thể gọi thành công khi nó nâng tình cảm của cả giáo viên và học sinh, giúp giáo viên sống lại với tác phẩm, tạo điều kiện cho bước phân tích, bình giá tác phẩm. 3.3. Sử dụng thao tác so sánh trong bình giảng. Để giúp học sinh tiếp thu thơ mới, trong khi giảng giáo viên sử dụng thao tác lập luận so sánh, để giúp học sinh thấy được sự khác nhau giữa thơ mới và thơ cũ. Ở đây tôi chủ yếu minh họa qua 3 bài thơ Vội vàng (Xuân Diệu), Tràng giang (Huy Cận), Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử). Thơ mới biểu hiện một cuộc cách mạng của tư duy thơ: xã hội phong kiến không chấp nhận những cái đề cao “cái tôi”, đề cao bản ngã cá nhân. Thơ mới ra đời mang theo một “cái tôi” cá nhân, nhu cầu về giải phóng tình cảm, phát huy bản ngã, tự do cá nhân.  Vội vàng (Xuân Diệu) Thiên nhiên trên mặt đất được tác giả cảm thụ bằng tất cả các giác quan tươi mới, nhiệt tình, rộng mở trước cuộc đời. Hiện tượng nhân hóa, nội cảm hóa ngoại cảnh, làm cho ngoại cảnh nhuốm cảm xúc con người. Điều này khá tiêu biểu trong “Vội vàng” của Xuân Diệu. * Điểm thứ nhất có sử dụng thao thác lập luận so sánh khi phân tích câu thơ: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần Vẻ đẹp của của tháng giêng mơn mởn, non tơ vừa có màu sắc, có hương vị, có sức hấp dẫn không thể cưỡng lại được như bờ môi của người thiếu nữ. - So sánh với văn học trung đại: Trong thơ cũ, nguyên tắc ứng xử của con người với vũ trụ là “thiên nhân nhất thể” con người an nhiên trong đại ngã mênh mông. Nguyên tắc ứng xử giữa con người và con người là “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” con người an lòng trong khuôn phép muôn đời không đổi khác. Và như một tất yếu, con người không được phép nhìn nhận thế giới với con mắt riêng tư. Với nhà thơ xưa thiên nhiên là trung tâm, là ngọn nguồn ban phát các phẩm chất của nó cho con người. Thiên nhiên là Trần Thị Lương 13 Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản mẫu mực để hình dung ngoại hình con người. Ví dụ, khi tả chân dung Thúy Vân, Nguyễn Du viết: Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. - So sánh trong cùng sáng tác của Xuân Diệu: Xuân Diệu so sánh ngược lại: …Lá liễu dài như một nét mi… …Trăng vú mộng của muôn đời thi sĩ… …Hơi gió thổi như ngực người yêu đến… …Mây đa tình như thi sĩ đời xưa… Thiên nhiên trong thơ mới thấm đẫm màu sắc chủ quan của tác giả. Nhà thơ phổ các giác quan ấy vào sự vật, chủ quan hóa khách thể. Xuân Diệu nhìn thấy, nếm được “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”, nhìn thấy “Màu thời gian đều rớm vị chia phôi”, Xuân Diệu nghe được “Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”. Quan niệm mĩ học ấy đã giúp Xuân Diệu sáng tạo nên một câu thơ vào loại tuyệt vời của nền thi ca Việt Nam hiện đại: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. * Điểm thứ hai có thể sử dụng thao tác so sánh khi phân tích đoạn thơ: Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời. Xuân Diệu ý thức được sự chảy trôi của thời gian và sự ngắn ngủi của kiếp người. Xuân Diệu đã đem đến một sự ngậm ngùi thật mới mẻ ở sự phủ định “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn/Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”. - Các nhà thơ cổ như Lí Bạch, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ.. họ có nói tới thời gian chảy trôi: Trần Thị Lương 14 Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản Hồ Xuân Hương cũng từng than thở: Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại Mảnh tình san sẻ tí con con. (Tự tình II) Lí Bạch từng thao thức: Gương sáng lầu cao buồn tóc bạc Sáng như tơ xanh, chiều thành tuyết. Thời gian chảy trôi trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: Lần lần ngày gió đêm trăng Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua Nhưng những “nước chảy” , “hoa trôi”, “bóng câu qua cửa sổ”…đó là sự cảm thụ mang tính gián tiếp nặng về cách cảm nhận thế giới mang tính chất kinh nghiệm, nhẹ về cảm giác. Nó dừng lại ở triết lí nhiều hơn, họ chỉ mới băn khoăn, chưa cảm nhận bằng cảm giác cá nhân. Từ sự ý thức được giới hạn của tuổi trẻ, Xuân Diệu sống vội vàng, muốn ngấu nghiến tất cả, nên thi nhân chạy đua từng giây từng phút với thời gian hiện tại: muốn ôm, muốn riết, muốn thâu, muốn say. Tất cả những trạng thái trên đều diễn tả trạng thái yêu đương được Xuân Diệu cực tả: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Rõ ràng, quan niệm sống hiện đại này không chỉ xa lạ với xã hội nông nghiệp cổ truyền mà còn xa lạ với cả đời sống khắc kỉ phục lễ của Nho gia. *Điểm thứ ba có thể sử dụng thao tác lập luận so sánh trong bút pháp nghệ thuật của bài thơ: So với thơ ca truyền thống, số câu trong bài thơ không hạn định, chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây. Giữa các dòng thơ không còn bị ràng buộc về quan hệ đối, vần, niêm, luật. Bài thơ đã phá vỡ những niêm luật chặt chẽ của thơ Đường luật: ví dụ lặp lại từ “và” hoặc “này đây”, “ta muốn”: Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì; Trần Thị Lương 15 Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản Này đây lá của cành tơ phơ phất; …Và non nước, và cây, và cỏ rạng Biện pháp lặp từ “và” trong một câu thơ như trên, trong thơ trung đại đã được xem là vi phạm quy tắc súc tích của ý thơ. Nhưng ở đây việc lặp chữ “và” trong một câu thơ đem lại ấn tượng dài, vô tận những cảm xúc ham muốn vô bờ của thi nhân trước tạo vật đang độ sung mãn của mùa xuân. Làm mất cảm giác đăng đối quá chặt chẽ của thơ truyền thống. Công thức đề - thực – luận – kết không còn là bắt buộc.  Tràng giang (Huy Cận): * Điểm thứ nhất có thể sử dụng thao tác lập lập luận so sánh khi phân tích câu thơ: Củi một cành khô lạc mấy dòng Hình ảnh thơ mới so với trong văn học trung đại. Trong văn học trung đại không chấp nhận sự bình thường thi liệu không có giá trị thẩm mỹ. Ở đây, Huy Cận đã đưa cái bình thường vào thơ. Hiện tượng đảo ngữ đã dồn trọng tâm sự thông báo vào từ “Củi”, nó gợi cả một thân phận từ quá khứ, đến hiện tại, tương lai. Quá khứ là một cành cây xanh tươi, giờ đây chỉ còn là cành củi khô bập bềnh trên sóng nước, tương lai không biết trôi về đâu. Cành củi rất thu động, nó bị xô dạt. Đó chính là sự trôi nổi của kiếp người cũng mỏng manh đơn độc không biết đi đâu về đâu. - So sánh với câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan: Gác mái ngư ông về viễn phố Câu thơ của Huy Cận mới hơn, nỗi buồn thấm thía hơn. Dù “gác mái” nhưng con thuyền vẫn có bóng ngư ông, nghĩa là vẫn có con người. Con thuyền vẫn có bến xác định “viễn phố” còn câu thơ của Huy Cận cành củi khô trôi vô định. Tạo nỗi buồn dư ba và thấm thía của một con người không hướng đi, buồn ngay trên quê hương mình. * Điểm thứ hai có thể sử dụng thao tác lập luận so sánh khi phân tích khổ thơ cuối: Một tâm hồn lạc loài đơn chiếc. Trong cảnh chiều xuống, nỗi cô đơn cứ dâng cao trước vũ trụ vô cùng và hóa thành nỗi nhớ nhà thăm thẳm: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Trần Thị Lương 16 Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. - So sánh với bài “Thu hứng” của Đỗ Phủ: Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng Tái thượng phong vân tiếp địa âm (Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm Mặt đất mây đùn cửa ải xa) Hồn đường thi và ý vị cổ điển vang hưởng từ từng câu chữ của bài thơ cổ phong biến thể và nhất là hiện rõ trong hai câu kết: Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Như vậy, ý thơ đã gợi rõ nhất sâu nhất nỗi buồn của Huy Cận. Câu thơ gợi tới câu thơ của Thôi Hiệu thuở xưa nhìn khói sóng mà nhớ quê hương: Nhật mộ hương quan hà xứ thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu (Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?) Câu thơ mang âm hưởng đường thi song ý thơ hiện đại. Chính cảm giác “dợn dợn” này của chủ thể lãng mạn, chứ không phải nguyên nhân nào khác, đã làm nảy sinh tâm lí “nhớ nhà”. Xưa Thôi Hiệu buồn vì cõi tiên mờ mịt, quê nhà cách xa. Khói sóng trên sông gợi lên cảnh mờ mịt và sầu. Nay Huy Cận buồn trước không gian hoang vắng, sóng gợn tràng giang, không một chút ấm áp của sự sống. Ông nhớ tới nhà, tới quê hương một nguồn ấm áp của cuộc đời. Xưa Thôi Hiệu tìm viếng giấc mơ tiên, chỉ thấy hư vô, lòng khát khao tìm về quê nhà thực tại. Nay Huy Cận một mình đối diện với không gian hoang vắng vô tình, dợn lên nỗi khát khao quê nhà ấm áp. Một đàng nhấn mạnh ý thức về đời thực, một đàng nhấn mạnh ý thức về tình người. Trần Thị Lương 17 Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản * Điểm thứ ba có thể sử dụng thao tác lập luận so sánh: nỗi buồn của Huy Cận cùng những thi sĩ trước đó và cùng thế hệ: - Nỗi buồn trong thơ mới khác nỗi buồn của các thi nhân xưa. Xưa, buồn vì xa nhà, buồn vì không thành đạt như Tú Xương, buồn vì thấy dân đau khổ mà bản thân không làm được gì giúp đời(Nguyễn Khuyến, Nguyễn Bỉnh Khiêm…). Nỗi buồn trong thơ cổ là nỗi buồn có nhân cách cao quý. - Trong phong trào thơ mới, nỗi buồn một sắc thái chủ đạo của thơ mới. Cái tôi trong thơ mới cô đơn, lạc lõng: Thế Lữ “một kẻ bộ hành ngơ ngác”, Lưu Trọng Lư một con nai vàng ngơ ngác giữa rừng thu, Thâm Tâm ấp ủ giấc mộng của một người ly khách, Xuân Diệu mê man với tình yêu say đắm giữa cuộc đời đầy thanh sắc và tự cho mình là “Con nai bị chiều đánh lưới/ Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối”…Huy Cận tìm lại nét đẹp xưa của quá khứ, hướng vào thế giới của vũ trụ trăng sao, của một một trí thức yêu nước song không tìm ra lối đi đành cô đơn lạc loài ngay trên quê hương mình. * Điểm thứ tư có thể sử dụng thao tác lập luận so sánh qua bút pháp nghệ thuật của bài thơ: Bài thơ là sự kết hợp giữa bút pháp cổ điển và hiện đại. Bài thơ không chống lại thơ Đường luật mà chỉ chống lại đối ngẫu trong thơ Đường luật: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song Có lẽ chất thơ của sông nước đã nhập vào câu thơ thế này để phô bày vẻ đẹp của nó. Câu thứ nhất tả sóng, câu thứ hai tả những dòng trôi, những luồng nước trên mặt sông. Không gian vừa mở ra bề rộng, vừa vươn theo chiều dài. Đúng là có thấp thoáng âm hưởng hai câu thơ cũng tả sông nước trong bài “Đăng cao” nổi tiếng của Đổ Phủ: Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ, Bất tận trường giang cổn cổn lai. (Ngàn cây bát ngát, lá rụng xào xạc, Dòng sông dằng dặc, nước cuồn cuộn trôi) Trần Thị Lương 18 Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản Cũng là đối xứng, nhưng Đỗ Phủ viết theo lối đối chọi, còn Huy Cận đã cải biên, chỉ dùng tương xứng. Cũng dùng những từ láy nguyên để gợi tả, trong khi tác giả “Đăng cao” đặt giữa câu, thì tác giả “Tràng giang” lại đẩy xuống cuối câu. Nhờ thế hai từ láy nguyên “điệp điệp”, “song song” tạo ra dư ba. Nghĩa là lời thơ đã ngừng mà ý hướng và âm hưởng vẫn còn vang vọng như dội mãi vào vô biên. Dòng sông lớn mang trong lòng một nỗi buồn lớn.  Đây thôn Vĩ Dạ(Hàn Mặc Tử): * Điểm thứ nhất có thể sử dụng thao tác lập luận so sánh trong khổ thơ đầu: Bức tranh xứ Huế với vẻ đẹp trinh nguyên vào buổi sáng mai, tràn đầy nhựa sống: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền. - So sánh: Nhà thơ Bích Khê từng ca ngợi không ngớt cảnh thôn Vĩ: Vĩ Dạ thôn! Vĩ Dạ thôn Biếc xanh cành trúc không buồn mà say. Còn với Hàn Mặc Tử, nơi thôn Vĩ Dạ đã từng in dấu của người thương, người để lại trong lòng thi nhân nhiều đau buồn khắc khoải: Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ Em lấy chồng rồi hết ước mơ. - Hồng Nguyên đã rất tinh tế trong “Nhớ”: Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau. Nhưng hàng cau lung linh tràn đầy sức sống trong hừng đông thì chỉ có trong thơ Hàn mặc Tử. Và e ấp dưới hàng cau và lá trúc là bóng giai nhân, nhà thơ đã mượn tứ thơ trong dân gian để gợi vẻ đẹp kín đáo của người con gái rất Huế: Mặt em vuông tựa chữ điền Da em thì trắng áo em mặc ngoài Lòng em có đất có trời Trần Thị Lương 19 Một số giải pháp giúp học sinh tiếp cận thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cơ bản Có câu nhân nghĩa có lời thủy chung. * Điểm thứ hai có thể sử dụng thao tác lập luận so sánh hai câu khổ ở khổ thơ thứ hai: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay? Từ ý thức được sự ngắn ngủi của cuộc đời, trước cái chết cận kề, nên thi nhân muốn chở trăng về kịp tối nay, chứ không phải là một tối nào khác. - Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử không phải là một hiện tượng tự nhiên bình thường, mà trăng còn là một người bạn tri kỉ, tri âm của nhà thơ trong những lúc buồn tủi nhất: Cùng trăng sao bàng bạc xứ say mơ Cùng tình em tha thiết như văn thơ Ràng rịt mãi cho tới ngày tận thế. (Mật đắng) “Cái tôi” trong thơ cũ hướng đến đất trời để suy nghĩ, để băn khoăn, để giãi bày nỗi buồn: Một tiếng chuông chùa vọng tới từ núi xa, trong đêm lạnh. Một thế giới đã được gạn lọc, làm tinh khiết đến mức cao và rất gợi tâm trạng cô đơn. Hay cái khung cảnh thiên nhiên bao quanh “cái tôi” nhà thơ đang suy nghĩ về đời, về thời thế, về cách ứng xử với đời sao cho phù hợp để giữ mình: “Cây lộng gió tây vẳng tiếng đàn Dạt dào tình khách tiếng bi than Sân đầy lá úa thu già nửa, Mưa hắt đèn xanh khắc sắp tàn..” (Nguyễn Trãi) Thiên nhiên trong thơ Hàn Mặc Tử không phải là thứ thiên nhiên vay mượn theo bút pháp ước lệ, tập cổ. Các nhà thơ lãng mạn đã xóa bỏ những thứ thiên nhiên giả tạo, công thức của thơ trung đại. Trần Thị Lương 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan