Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn một số giải pháp quản lý hoạt động dạy học bộ môn tiếng anh ở các trường tr...

Tài liệu Skkn một số giải pháp quản lý hoạt động dạy học bộ môn tiếng anh ở các trường trung học phổ thông thành phố biên hòa tỉnh đồng nai

.DOC
70
382
77

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Đơn vị: Phòng KTKĐCLGD SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG Mã NAI số: ................................ Đơn vị: Trường THPT Nam Hà (Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi) Mã số: ................................ (Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi) SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Người thực hiện: HOÀNG CAO THIÊN HƯƠNG Lĩnh vực nghiên cứu: - Quản lý giáo dục  Người thực hiện: HOÀNG THIÊN HƯƠNG - Phương pháp dạy họcCAO bộ môn: .............................  (Ghi rõ tên bộ môn) Lĩnh vực nghiên cứu: Lĩnhlý vực khác:  - -Quản giáo dục.......................................................  (Ghi rõ tên lĩnh vực) - Phương pháp dạy học bộ môn: .............................  rõ tên bộ môn) Có đính kèm: Các sản phẩm không thề hiện trong bản in(Ghi SKKN  Mô hình Phần mềm- Lĩnh  Phim ảnh .......................................................  Hiện vật khác vực khác:  (Ghi rõ tên lĩnh vực) Có đính kèm: Các sản phẩm không thề hiện trong bản in SKKN  Mô hình Phần mềm  Phim ảnh  Hiện vật khác Năm học: 2010 – 2011 Năm học: 2010 – 2011 Trang 1 BM02-LLKHSKKN SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: HOÀNG CAO THIÊN HƯƠNG 2. Ngày tháng năm sinh: 06 / 07 / 1967 3. Nam, nữ: Nữ 4. Địa chỉ: 101 Hưmg Đạo Vương – Phường Quyết Thắng – Biên Hòa – Đồng Nai 5. Điện thoại: 0918191467 827217 6. Fax: (CQ): 3845443 (NR); ĐTDĐ: 0613 E-mail: [email protected] 7. Chức vụ: Chuyên viên 8. Đơn vị công tác: Phòng KTKĐCLGD II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân - Năm nhận bằng: 1993 - Chuyên ngành đào tạo: Ngoại ngữ III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: 23 Số năm có kinh nghiệm: 23 - Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:  Năm học 2007 – 2008: ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO PHẦN CỦNG CỐ  Năm học 2008 – 2009: MỆNH ĐỀ QUAN HỆ VÀ CÁC DẠNG BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM  Năm học 2009 – 2010: TỔ CHỨC UDCNTT TRONG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG THPT  Năm học 2010 – 2011: KINH NGHIỆM DẠY NGHE MÔN TIẾNG ANH  Năm học 2011 – 2012: QUI TRÌNH CẤP BẢN SAO BẰNG TỐT NGHIỆP Trang 2 BM03-TMSKKN Tên SKKN: MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC BỘ MÔN TIẾNG ANH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ BIÊN HÒA TỈNH ĐỒNG NAI I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã đang tác động vào mọi mặt của đời sống tinh thần của xã hội. Sự đồng nhất văn hóa nhiều nơi đang diễn ra một cách âm thầm nhưng mạnh mẽ, đặc biệt là văn hóa ngôn ngữ. Điều đó đã khiến tất cả các quốc gia đều phải nhìn nhận lại vai trò của giáo dục trong niên đại mới, niên đại của nền kinh tế tri thức. Giáo dục hôm nay đã trở thành một bộ phận đặc biệt của cấu trúc hạ tầng xã hội, là tiền đề cho sự phát triển của tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng và an ninh, trong đó phát triển con người được xem như là mục tiêu và cũng là động lực cho mọi sự phát triển. Xác định về mục tiêu đào tạo lực lượng lao động thế hệ mới nói chung và thanh niên nói riêng, Nghị quyết số 25-NQ/TW, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, ban hành ngày 25 tháng 7 năm 2008 chỉ rõ: “...... Hình thành một lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; góp phần to lớn vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo Trang 3 vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, sánh vai cùng các nước tiên tiến trên thế giới. Đảng, Nhà nước và toàn xã hội chăm lo, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để thanh niên rèn luyện, cống hiến và trưởng thành; được học tập, có việc làm, nâng cao thu nhập, có đời sống văn hóa, tinh thần lành mạnh”. Hình ảnh người công dân Việt Nam mới không những có trình độ học vấn cao, năng động, sáng tạo, có khả năng thích ứng cao với những thay đổi của cuộc sống mà còn phải biết sử dụng những phương tiện công nghệ mới và ngoại ngữ, trong đó, tiếng Anh được xem như là ngoại ngữ phổ biến nhất, là phương tiện không thể thiếu cho mỗi người xâm nhập vào thương mại quốc tế và giao lưu văn hóa. Nhận thức về tầm quan trọng của tiếng Anh, đặc biệt khi nước ta gia nhập vào tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Chính phủ đặt ra mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nâng cao kiến thức, năng lực quản lý điều hành và thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước. Để đạt mục tiêu đó, ngày 30 tháng 9 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Quyết định số 1400 về phê duyệt đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 20082020” [9], trong đó nêu rõ mục tiêu chung là: “Đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ mới ở các cấp học, trình độ đào tạo, nhằm đến năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên; đến năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiê êp trung cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hóa; biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Từ đó cho thấy, để Việt Nam có thể đi Trang 4 tắt, đón đầu, vươn tới tầm cao về khoa học công nghệ trong thời kỳ bùng nổ thông tin hiện nay và tiến nhanh trên con đường CNH-HĐH, con đường hiệu quả nhất là đầu tư, phát triển giáo dục và lực lượng lao động phải biết ngoại ngữ. Thành phố Biên Hòa là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật của tỉnh Đồng Nai đang phấn đấu trở thành một đô thị phát triển bền vững theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa; đồng bộ giữa phát triển kinh tế và văn hóa xã hội. Thành phố Biên Hòa đang là điểm đến của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hiện nay thành phố với các khu công nghiệp Biên Hòa 1, Biên Hòa 2, Amata, Hố Nai, Loteco, Tam Phước thu hút đầu tư từ nhiều quốc gia vùng lãnh thổ trên thế giới, giải quyết việc làm cho hàng trăm ngàn lao động. Hệ thống thương mại – dịch vụ không ngừng mở rộng theo hướng văn minh, hiện đại, phục vụ ngày càng cao nhu cầu của nhân dân và phát triển công nghiệp. Như vậy, để đáp ứng yêu cầu về nguồn lao động chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa của thành phố, đòi hỏi phải đào tạo ra đội ngũ lao động kỹ thuật có tay nghề cao và có khả năng giao tiếp tốt trong công việc. Như vậy, nâng cao chất dạy học tiếng Anh cho học sinh THPT là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết để tham gia vào lao động tri thức. Đối với bộ môn tiếng Anh, được áp dụng chương trình thay sách giáo khoa đại trà từ năm học 2006-2007 cho học sinh THPT, đến nay các trường THPT ở thành phố Biên Hòa đã đạt một số thành tựu nhất định. Tuy nhiên, do nội dung chương trình mang tính mới mẻ nên việc dạy học tiếng Anh ở các trường THPT thành phố Biên Hòa còn một số bất cập. Để nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn tiếng Anh ở các trường THPT thành phố Biên Hòa nhằm đáp ứng những yêu cầu của xã hội hiện nay về trình độ sử dụng tiếng Anh của lực lượng lao động, nhất thiết phải nhìn nhận lại những yếu kém, bất cập trong khâu quản lý các hoạt động dạy và học bộ môn này, Trang 5 qua đó đề xuất một số giải pháp thiết thực hơn nữa trong công tác QL. Với những lý do đó, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Một số giải pháp quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh ở các trường trung học phổ thông thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” làm nội dung nghiên cứu. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiển đề xuất một số giải pháp quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh ở các trường THPT thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. III. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động dạy học môn tiếng Anh ở các trường THPT. 2. Đối tượng nghiên cứu: Giải pháp quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh ở các trường THPT thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. IV. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC Nếu đề xuất được các giải pháp đảm bảo tính khoa học và khả thi sẽ nâng cao được chất lượng dạy học môn tiếng Anh ở các trường THPT thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. V. NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh ở các trường THPT. 2. Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh ở các trường THPT thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. 3. Đề xuất các giải pháp quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh ở các trường THPT thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: 1.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết Trang 6 1.2. Phương pháp tổng hợp tài liệu và các văn bản có liên quan nhằm khái quát hóa các vấn đề nghiên cứu thành lý luận QL hoạt động dạy học tiếng Anh ở các trường THPT 2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn 2.1. Phương pháp điều tra viết Xây dựng hệ thống các câu hỏi, các phiếu trưng cầu ý kiến dành cho CBQL, giáo viên tiếng Anh và học sinh về các biện pháp QL hoạt động dạy học tiếng Anh. 2.2. Phương pháp phỏng vấn Sử dụng các loại câu hỏi để hỏi trực tiếp CBQL, giáo viên và học sinh về các vấn đề có liên quan đến đề tài. 2.3. Phương pháp quan sát Quan sát các hoạt động dạy học tiếng Anh ở các trường THPT trên địa bàn nghiên cứu nhằm đưa ra những kết luận về thực trạng 2.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm 2.5. Phương pháp chuyên gia Xin ý kiến của các chuyên gia về tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp QL hoạt động dạy học tiếng Anh ở các trường trường THPT thành phố Biên Hòa. 2.3. Phương pháp thống kê toán học Sử dụng các công thức toán thống kê để xử lý các kết quả nghiên cứu nhằm đảm bảo tính khoa học và khách quan về các số liệu nghiên cứu. Trang 7 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN TIẾNG ANH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo là mục tiêu phải đạt được của quá trình dạy học, quản lí dạy học. Trong nhà trường phổ thông, đây là công việc chiếm một thời gian lớn và khó khăn nhất. Trên thực tế và lý luận đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu hoạt động dạy học, QL hoạt động dạy học nhất là bộ môn ngoại ngữ trong đó có bộ môn tiếng Anh để tìm ra những biện pháp QL tốt hơn. 1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài 1.2.1 Dạy học Theo tác giả Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt: “Quá trình dạy học là một quá trình bộ phận, một phương tiện để trau dồi học vấn, phát triển năng lực và giáo dục phẩm chất, nhân cách thông qua sự tác động qua lại giữa người dạy và người học, nhằm truyền thụ và lĩnh hội một cách có hệ thống những tri thức khoa học, những kỹ năng, kỹ xảo, nhận thức và thực hành”. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quá trình dạy học là một hệ toàn vẹn bao gồm hoạt động dạy và hoạt động học. Hai hoạt động này luôn tương tác nhau, thâm nhập vào nhau và sinh thành ra nhau, sự tương tác giữa dạy và học mang tính chất cộng tác (cộng đồng và hợp tác), trong đó hoạt động dạy đóng vai trò chủ đạo”. Trong quá trình dạy học người thầy luôn giữ vai trò chủ đạo trong Trang 8 việc định hướng tổ chức, điều khiển và thực hiện các hoạt động truyền thụ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đến người học một cách khoa học. Người học sẽ ý thức và tổ chức quá trình tiếp thu một cách tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nhằm hình thành năng lực, thái độ đúng đắn, tạo ra động lực cho việc học, hình thành nhân cách cho bản thân. Quá trình dạy của thầy và học của trò là một quá trình hoạt động trong đó thầy giữ vai trò chủ đạo, học sinh đóng vai trò tích cực, chủ động nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học. Dạy học là một quá trình hoạt động gồm hai mặt do thầy giáo (dạy) và học sinh (học) thực hiện. Nhiệm vụ dạy học trong nhà trường không chỉ đảm bảo trình độ học vấn nhất định mà còn góp phần hình thành nhân cách của học sinh. Qua đó có thể hiểu quá trình dạy học là một quá trình toàn vẹn, nó bao gồm hoạt động dạy và hoạt động học. Quá trình dạy học đảm bảo sự thống nhất của giảng dạy và học tập, của truyền đạt và điều khiển trong giảng dạy, của lĩnh hội và tự điều khiển trong học tập. Học sinh là chủ thể trong hoạt động học, giữ vai trò chủ động, tích cực dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Do đó chất lượng hoạt động học tập của sinh viên phụ thuộc vào trình độ tổ chức, điều khiển của giảng viên. Như vậy có thể khẳng định, hai hoạt động dạy và học được tiến hành do hai chủ thể khác nhau (thầy – trò) nhưng gắn bó chặt chẽ với nhau vì hoạt động dạy diễn ra để tổ chức và điều khiển hoạt động học, hoạt động học chỉ có ý nghĩa đầy đủ của nó khi được diễn ra dưới sự tổ chức và điều khiển của hoạt động dạy. Với ý nghĩa đó, hoạt động dạy và hoạt động học hợp thành hoạt Trang 9 động dạy học, thiếu một trong hai hoạt động này hoạt động dạy học không thể diễn ra. Hai hoạt động này có mối quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau. Tuy nhiên trong sự tương tác qua lại giữa hoạt động dạy và hoạt động học phải đáp ứng được yêu cầu là “nhận thức rõ được mục đích, tổ chức tốt các mối quan hệ ngược – xuôi, lựa chọn những phương pháp dạy học trên cơ sở phân tích thông tin thu được”. 1.2.2 Dạy học tiếng Anh Dạy và học ngoại ngữ nói chung, tiếng Anh nói riêng có những đặc thù riêng biệt. Dạy học ngoại ngữ (tiếng Anh) nhằm tạo dựng ở người học năng lực giao tiếp bằng tiếng Anh và sử dụng thành thạo bốn kỹ năng thực hành ngôn ngữ. Trong quá trình dạy và học đòi hỏi sinh viên và giáo viên phải có sự tương tác qua lại. Tuỳ từng nội dung và yêu cầu của đơn vị bài học, có thể giáo viên giữ vai trò chủ đạo hoặc học sinh. * Đối với học sinh: - Phải xây dựng cho mình động cơ học tập đúng đắn. Học sinh sẽ đạt được kết quả học tập cao hơn nếu tích cực tham gia vào quá trình học tập. Sự tiến bộ của học sinh trong quá trình học tập sẽ thúc đẩy quá trình tiếp thu ngoại ngữ của họ. - Học sinh sẽ tiếp thu một ngoại ngữ có hiệu quả hơn nếu họ hiểu biết về quá trình học tập và có phương pháp học ngoại ngữ, sáng tạo các chiến lược cá nhân phù hợp. - Học sinh cần được hướng dẫn học theo phương châm thử nghiệm – tham gia tích cực vào các hoạt động, đồng thời biết chấp nhận mắc lỗi trong quá trình tham gia thực hành các kỹ năng ngoại ngữ. Nguyên tắc này sẽ biến vai trò thụ động truyền thống trước đây của người học thành vai trò chủ động. Trang 10 * Đối với giáo viên: - Để thức đẩy quá trình học tập của học sinh, giáo viên cần sử dụng giáo trình một cách sáng tạo và mang tính giao tiếp cao. Nếu có thể, cần tìm cách bổ sung vào chương trình các tài liệu giảng dạy và các hoạt động hỗ trợ có khả năng cập nhật nội dung đồng thời làm cho giáo trình phù hợp hơn với đối tượng giảng dạy - Giáo viên cần cố gắng tạo mọi cơ hội để học sinh có thể sử dụng ngôn ngữ đang học một cách có nghĩa thông qua các hoạt động cả lớp, nhóm tổ và các hoạt động khác. Cần hướng học sinh vào việc dùng thứ tiếng đang học làm phương tiện giao tiếp trên lớp học. Giao tiếp bằng tiếng nước ngoài giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh và học sinh là điều kiện quan trọng để nâng cao trình độ tiếng Anh của học sinh. Cũng nên sử dụng kết hợp tiếng Việt khi cần thiết. - Giáo viên cần tạo đều kiện cho học sinh mở mang kiến thức, tiếp xúc với việc sử dụng ngoại ngữ dạy học một cách tự nhiên. Cần tạo điều kiện để học sinh có cơ hội diễn đạt ý kiến cá nhân của mình bằng ngoại ngữ. 1.2.3 Hoạt động dạy học môn tiếng Anh ở các trường THPT Mục tiêu dạy học tiếng Anh trong trường THPT Mục tiêu dạy và học tiếng Anh ở trường phổ thông là giúp học sinh sử dụng được tiếng Anh như một công cụ giao tiếp ở mức độ phổ thông thông qua việc hình thành các kĩ năng giao tiếp: nghe, nói, đọc, viết. Nội dung dạy – học Tiếng Anh trong trường THPT Chương trình Tiếng Anh ở trường phổ thông được biên soạn theo 6 chủ đề, được lặp lại và có mở rộng từ lớp 6 đến lớp 12. Dưới chủ đề (theme) là các chủ điểm (topic). Hệ thống chủ đề và chủ điểm là cơ sở hình thành và phát triển các khả năng ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Phương pháp dạy – học Tiếng Anh trong trường THPT Trang 11 GV sử dụng phương pháp và kỹ thuật dạy – học, sử dụng hiệu quả các thiết bị ĐDDH và các tài liệu hỗ trợ nhằm tạo hứng thú học tập cho HS. GV cần sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách hợp lý và có hiệu quả trong quá trình dạy học. HS cần luyện tập thực hành giao tiếp một cách có ý thức trong hoạt động học tập trên lớp và tự học. Kiểm tra và đánh giá khi dạy – học Tiếng Anh trong trường THPT Hoạt động này trong quá trình đào tạo luôn là công việc chính của các GV đứng lớp. Chính các GV tự quản lý, sử dụng kết quả kiểm tra để phản hồi cho người học và cải thiện quá trình giảng dạy. 1.2.4 Quản lý Từ khi xã hội loài người xuất hiện thì nhu cầu quản lý cũng được hình thành. Cùng với sự phát triển của xã hội loại người, trình độ tổ chức, điều hành cũng được nâng lên và phát triển theo. Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công lao động của xã hội loài người nhằm đạt mục đích, hiệu quả cao hơn, năng suất cao hơn; đó chính là hoạt động giúp cho người đứng đầu tổ chức phối hợp sự nỗ lực của các thành viên trong nhóm, trong cộng đồng nhằm đạt mục tiêu đề ra. Có nhiều khái niệm về quản lý khác nhau và có thể nói là chưa có một định nghĩa nào được mọi người chấp nhận hoàn toàn. Thuật ngữ “Quản lý” (tiếng Việt gốc Hán) lột tả được bản chất của hoạt động này trong thực tiễn. Nó bao gồm hai quá trình tích hợp vào nhau, quá trình “Quản” gồm coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái “ổn định”, quá trình “lý” gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới hệ, đưa hệ vào thế “phát triển”. Nếu người đứng đầu tổ chức chỉ lấy việc “Quản” làm chính thì tổ chức dễ trì trệ, ngược lại chỉ quan tâm đến việc “lý” thì sự phát triển của tổ chức không bền vững. Harold Koontz và Cyril Odononnell cho rằng: “Có lẽ không có lĩnh vực hoạt động nào của con người quan trọng hơn là công việc quản lý, bởi Trang 12 vì mọi nhà quản lý ở mọi cấp độ và trong mọi cơ sở đều có nhiệm vụ cơ bản là thiết kế và duy trì một môi trường mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm có thể hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu đã định”. Theo Đại Bách khoa toàn thư Liên Xô năm 1977 thì quản lý là “chức năng của những hệ thống có tổ chức với bản chất khác nhau, nó bảo toàn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động, thực hiện những chương trình, mục đích hoạt động”. Quản lý theo Đại từ điển tiếng Việt (1998) là “ tổ chức, điều khiển hoạt động; trông coi, giữ gìn và theo dõi việc gì”. Trong khi đó F.W.Taylor cho rằng “quản lý là biết chính xác điều mình muốn người khác làm và sau đó thấy rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất. Theo tác giả Nguyễn Phúc Châu thì quản lý là “sự tác động liên tục có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…bằng một hệ thống luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt tới mục tiêu quản lý”. Tác giả Nick Foskett và Jacky Lumby với “Leading and Managing education – International Dimensions” thì cho rằng quản lý là “ tìm mọi cách tạo điều kiện cho các thành viên trong tổ chức hoàn thành tốt các mục tiêu và kế hoạch của tổ chức, tăng cường cống hiến của mọi người theo khả năng, phù hợp với chiến lược của tổ chức”. Các khái niệm quản lý được nêu trên đây, nhìn chung, tuy khác nhau nhưng cùng có những đặc điểm sau: Hoạt động quản lý là hoạt động có tính hướng đích được tiến hành trong tổ chức hay nhóm xã hội nhằm tác động phối hợp nỗ lực cá nhân để nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức. Trang 13 Bản chất của hoạt động quản lý: Từ khi con người biết hợp tác với nhau để tự vệ và mưu sinh thì đã xuất hiện những yếu tố khách quan, những hoạt động tổ chức, phối hợp, điều hành ... để thực hiện mục tiêu, tạo nên sức mạnh giúp con người đạt được những mục tiêu cần thiết. Như vậy, trong quá trình vận động, sự phát triển của xã hội và quản lý không thể tách rời nhau. Khi lao động đạt tới một trình độ nhất định, có sự phân công xã hội thì quản lý như là một chức năng, là điều tất yếu khách quan. Trong một tổ chức nhóm, cộng đồng, chủ thể quản lý tác động có định hướng, có chủ đích đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục đích. Những tác động qua lại đó có tác động lan tỏa rộng rãi. Trong xã hội có giai cấp thì hoạt động quản lý phục vụ quyền lợi của giai cấp thống trị, do vậy hoạt động quản lý mang tính giai cấp rõ rệt. Hoạt động quản lý mang tính khoa học cao, bởi sự tác động giữa chủ thể quản lý đến khách thể quản lý thông qua công cụ, phương tiện, phương pháp phù hợp với quy luật khách quan thì mới đạt được hiệu quả. Quản lý được coi là một nghề. Những kỹ năng nghề nghiệp của người quản lý để thực hiện công việc đòi hỏi mang tính kỹ thuật, thể hiện ở những thao tác nghề nghiệp của người quản lý. Vậy, “Hoạt động quản lý vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan vì được thực hiện bởi người quản lý. Mặt khác, nó vừa có tính giai cấp lại vừa có tính kỹ thuật, vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật, vừa có tính pháp luật Nhà nước lại vừa có tính xã hội rộng rãi...Chúng là những mặt đối lập trong một thể thống nhất. Đó là biện chứng, là bản chất của hoạt động quản lý”. Quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Nhà quản lý phải nắm rõ các luận điểm cơ bản của Khoa học quản lý, Triết học, Điều khiển học, Luật học… để có thể tác động đến đối tượng quản lý một cách phù hợp. Trang 14 Mặt khác, hoạt động quản lý là hoạt động thực hành nên đòi hỏi nhà quản lý phải luôn luôn sáng tạo để xử lý những tình huống khác nhau nhằm thực hiện hiệu quả mục tiêu đề ra. Nếu nhà quản lý chỉ chú trọng đến nghệ thuật thì hoạt động quản lý dễ mất ổn định, thiếu định hướng. Ngược lại, chỉ chú trọng đến mặt khoa học thì dễ rơi vào máy móc, giáo điều. Muốn trở thành nhà quản lý thành công thì nhà quản lý phải rèn luyện được kỹ năng biến lý luận thành thực tiễn. 1.2.5 Quản lý hoạt động dạy học Xét theo nghĩa tổng quan, vĩ mô thì quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, có ý thức và tuân thủ các quy luật khách quan của chủ thể quản lý giáo dục đến toàn bộ các phần tử và các lực lượng trong hệ thống giáo dục. Trong khi đó ở cấp độ vi mô (quản lý nhà trường) thì quản lý giáo dục là hệ thống những tác động tự giác của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học – giáo dục thế hệ trẻ và góp phần đưa hệ thống giáo dục đến mục tiêu dự kiến. Trong nhà trường, dạy học là hoạt động trọng tâm, chi phối tất cả các hoạt động khác. Hoạt động dạy học có ý nghĩa quyết định đến chất lượng giáo dục, dạy học của nhà trường, đưa nhà trường đến mục tiêu dự kiến. Vì vậy quản lý hoạt động dạy học là một nội dung cơ bản, quan trọng nhất và là nội dung quản lý đặc thù của quản lý nhà trường. Như vậy có thể hiểu quản lý hoạt động dạy học là những tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến hoạt động giảng dạy của giảng viên, hoạt động học của sinh viên và môi trường dạy học, đảm bảo cho các hoạt động đó được thực hiện một cách nghiêm túc, tự giác, có chất lượng và hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đạt được mục tiêu đề ra của nhà Trang 15 trường. Mục đích cuối cùng của giáo dục là vì sự phát triển nhân cách hoàn thiện của thế hệ trẻ. Trong số năm vai trò mà người hiệu trưởng phải cùng lúc đảm trách: người quản lý hành chính nhà nước, nhà sư phạm, nhà hoạt động xã hội, nhà tổ chức, nhà nghiên cứu khoa học giáo dục [5, tr.76] để hoàn thành các nhiệm vụ: tổ chức và chỉ đạo công tác phổ cập giáo dục; tổ chức và chỉ đạo quá trình giảng dạy, giáo dục; tổ chức và chỉ đạo việc xây dựng, bảo quản, sử dụng cơ sở vật chất; xây dựng tập thể sư phạm; kết hợp với nhân dân địa phương xây dựng sự nghiệp giáo dục; tổ chức và chỉ đạo công tác hành chính quản trị, tài vụ nhà trường thì nhiệm vụ tổ chức, quản lý quá trình dạy -học và giáo dục là khâu then chốt bởi nó giữ vị trí trung tâm, chi phối các hoạt động khác cũng như thể hiện được nét đặc trưng lao động của người hiệu trưởng trường phổ thông. Quá trình dạy và học là tập hợp những hành động liên tiếp của giáo viên và học sinh được giáo viên hướng dẫn nhằm làm cho học sinh tự giác nắm vững hệ thống kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo. Trong suốt quá trình đó, học sinh phát triển năng lực nhận thức, nắm được các yếu tố của văn hoá,lao động trí óc và chân tay, hình thành những cơ sở của thế giới quan và nhân sinh quan đúng đắn. Nếu xét dạy và học như một hệ thống thì quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học là quan hệ điều khiển. Do đó, hành động quản lý hoạt động dạy và học của hiệu trưởng chủ yếu tập trung vào hoạt động dạy của thầy và là trực tiếp với thầy, gián tiếp với trò; thông qua hoạt động của thầy mà quản lý hoạt động của trò. Quản lý quá trình dạy học là một quá trình trong đó dưới tác dụng tổ chức, điều khiển, chỉ đạo của giáo viên, học sinh tự giác, tích cực, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức nhằm thực hiện có kết quả các nhiệm vụ dạy học. Quá trình dạy học xét đến cùng có nhiệm vụ tạo ra sự Trang 16 chuyển biến bên trong người học. Quản lý hoạt động dạy học trong nhà trường là quản lý quá trình sư phạm tương tác giữa giáo viên và học sinh; yếu tố môi trường tác động vào hoạt động dạy học nhằm đạt mục tiêu dạy học và giáo dục của cấp học, bậc học. Quản lý hoạt động dạy học gồm: quản lý việc giảng dạy của giáo viên và quản lý việc học tập của học sinh. 1.2.6 Quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh ở các trường THPT 1.2.6.1 Quan điểm của Đảng về công tác quản lí việc giảng dạy môn tiếng Anh trong sự nghiệp giáo dục. Tư tưởng chỉ đạo của chiến lược phát triển giáo dục trong giai đoạn 2001 - 2010 là khắc phục tình trạng bất cập trên nhiều lĩnh vực; tiếp tục đổi mới một cách có hệ thống và đồng bộ, tạo cơ sở để nâng cao rõ rệt chất lượng và hiệu quả giáo dục; phục vụ đắc lực sự nghiệp CNH - HĐH, chấn hưng đất nước, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, chóng sánh vai cùng các nước phát triển trong khu vực và thế giới. Từ tư tưởng chỉ đạo nêu trên, trong phần đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục, Chiến lược phát triển trong giai đoạn 2001 - 2010 có nhấn mạnh là phải chú trọng trang bị và nâng cao kiến thức tin học, ngoại ngữ cho HS. Dạy ngoại ngữ trên diện rộng từ lớp 6; HS được học ổn định và liên tục ít nhất một ngoại ngữ để khi tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) có thể sử dụng được. Với cơ sở nêu trên, chúng ta thấy rằng Đảng cũng đã có quan điểm chỉ đạo rõ ràng trong việc đầu tư việc học ngoại ngữ trong đó có việc học tiếng Anh ngay từ những lớp đầu THCS. Do vậy công tác QL việc giảng dạy môn tiếng Anh trong sự nghiệp giáo dục từ ở bậc THCS càng hết sức cần thiết để làm nền tảng cho người học nâng cao chất lượng học tiếp ở bậc THPT nhằm phấn đấu khắc phục tình trạng bất cập mà báo chí đã nêu Trang 17 trên diễn đàn dư luận về việc học ngoại ngữ 10 năm nhưng người học không sử dụng được. 1.2.6.2 Quản lý hoạt động dạy- học tiếng Anh trong nhà trường THPT Quản lý hoạt động dạy của giáo viên gồm có: Quản lý sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, quản lý việc thực hiện chương trình giảng dạy, quản lý việc đánh giá kết quả học tập của HS, môn tiếng Anh quản lý hồ sơ chuyên môn và hoạt động tự bồi dưỡng nâng cao chuyên môn của GV tiếng Anh. Quản lý hoạt động học của học sinh gồm có: Xây dựng động cơ học tập cho HS và quản lý phương pháp học tập ngoại ngữ của HS. Quản lý các điều kiện đảm bảo cho hoạt động dạy - học ngoại ngữ của HS: Là quản lý xây dựng kế hoạch mua sắm, duy tu và sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện - kỹ thuật hiện đại trong dạy - học ngoại ngữ. 1.2.7 Giải pháp Theo từ điển tiếng việt ( tường giải và liên tưởng) của tác giả Nguyễn Văn Đạm thì giải pháp nghĩa là “toàn bộ ý nghĩ có hệ thống cùng với những quyết định và hành động theo sau, dẫn tới việc khắc phục một khó khăn”. Như vậy giải pháp được xem như là cách làm, cách giải quyết một vấn đề lớn. Để thực hiện các giải pháp đạt kết quả và hiệu quả cao, người ta thường cụ thể hóa bằng các biện pháp khác nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt – 1992 (Hoàng Phê chủ biên) : ‘‘Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể’’ [29, tr. 78] hoặc có thể hiểu đó là cách thức để tiến hành một hành động để đạt đến mục đích xác định. Biện pháp QL là những cách thức cụ thể để thực hiện công tác QL. Cụ thể hơn: Trang 18 Biện pháp QL là cách thức chủ thể QL sử dụng công cụ QL tác động vào đối tượng QL và các khâu trong quá trình QL để đạt đến mục tiêu QL. Vì các đối tượng QL thường phức tạp nên đòi hỏi các biện pháp QL phải đa dạng, phong phú, linh hoạt phù hợp với đối tượng QL. Các biện pháp QL phải có liên quan chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống các biện pháp. Các biện pháp QL này sẽ giúp cho nhà quản lý thực hiện tốt các phương pháp QL của mình, mang lại hiệu quả hoạt động tối ưu của bộ máy. Biện pháp QL thể hiện tính năng động sáng tạo của chủ thể QL, hiệu quả của công tác QL phụ thuộc một phần quan trọng vào việc lựa chọn đúng đắn và áp dụng linh hoạt các biện pháp QL. Để thực hiện nội dung QL, các nhà QL phải sử dụng một hệ thống các biện pháp QL cụ thể, phù hợp, có kế hoạch chi tiết và biết huy động nội lực để thực hiện. Do thực tế sinh động và phức tạp, nên các biện pháp QL cũng mềm dẻo, linh hoạt, không được cứng nhắc, rập khuôn. Không có biện pháp QL nào là vạn năng, hoàn hảo, có thể dùng cho mọi trường hợp, mọi con người và hoàn cảnh. Mỗi biện pháp đều có điểm mạnh và điểm yếu riêng của mình, nhà QL phải biết phát huy những điểm mạnh của các biện pháp, hạn chế, khắc phục điểm yếu của chúng bằng cách kết hợp linh hoạt các biện pháp. Như thế mới có thể đạt được hiệu quả cao trong công việc. Trong quản lý, giải pháp quản lý là tổ hợp nhiều cách thức tiến hành của chủ thể quản lý nhằm tác động đến đối tượng quản lý để giải quyết các vấn đề trong công tác quản lý, làm cho hệ quản lý vận hành dạt mục tiêu mà chủ thể quản lý đã đề ra và phù hợp với quy luật khách quan. Như vậy, giải pháp quản lý là việc người quản lý sử dụng các chức năng quản lý, các công vụ quản lý, các phương pháp quản lý, các nguyên tắc quản lý một cách phù hợp cho các tình huống vào đối tượng, đơn vị của mình quản lý để đưa đối tượng hoặc đơn vị đó đi đúng mục tiêu và Trang 19 đạt được mục tiêu mà người quản lý xây dựng, đưa chất lượng quản lý lên một vị trí mới, tình trạng mới tốt hơn hiện tại. Do vậy, người quản lý phải có kiến thức sâu rộng, có kinh nghiệm để gắn kết các biện pháp với nhau, giải quyết các mâu thuẫn giữa các biện pháp, biết tiên liệu trước các hoàn cảnh, tình huống quản lý, trên tình thần tình huống nào có giải pháp nấy thì người quản lý mới có được quyết định chính xác trong việc lựa chọn biện pháp quản lý hữu hiệu . 1.2.8 Giải pháp quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh ở các trường THPT Giải pháp quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh ở các trường THPT là cách thức tác động vào đối tượng quản lý giúp chủ thể nâng cao khả năng hoàn thành các mục tiêu đã đề ra. Có bốn giải pháp quản lý chính, đó là: giải pháp thuyết phục, giải pháp hành chính- tổ chức, giải pháp kinh tế, biện pháp tâm lý - giáo dục. Các giải pháp quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh ở các trường THPT thường tập trung vào các vấn đề sau:  Quản lý hoạt động dạy tiếng Anh THPT của giáo viên gồm: o Quản lý mục tiêu và nội dung dạy học tiếng Anh THPT Mục tiêu dạy học phải cung cấp nhận thức (cognitive), tác động thái độ (affective) và hình thành kỹ năng (psychomotor). Đối với môn tiếng Anh THPT, mục tiêu dạy học được xác định rõ là sau khi hoàn thành chương trình THPT, học sinh có thể sử dụng tiếng Anh như một công cụ giao tiếp ở mức độ cơ bản dưới các dạng nghe, nói, đọc, viết; có kiến thức cơ bản, tương đối hệ thống và hoàn chỉnh về tiếng Anh, phù hợp với trình độ, đặc điểm tâm lý lứa tuổi; có hiểu biết khái quát về đất nước, con người và nền văn hóa của một số nước nói tiếng Anh, từ đó có tình cảm và thái độ tốt đẹp đối với đất nước, con người, nền văn hóa và ngôn ngữ của các nước đó, biết tự hào, yêu quý và tôn trọng nền văn hóa và ngôn ngữ của dân tộc mình. Điều này có nghĩa, sau khi hoàn thành chương trình, HS phải có khả Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng