Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn một số kĩ năng sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong dạy học môn lịch sử ...

Tài liệu Skkn một số kĩ năng sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong dạy học môn lịch sử 9

.DOC
28
1327
128

Mô tả:

PHÒNG GD – ĐT HUYỆN YÊN MĨ TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TÂN LẬP SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ KĨ NĂNG SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN ĐIỆN TỬ TRONG DẠY HỌC MÔN LỊCH SỬ 9 Họ và tên: Trương Tuấn Hậu Tổ: Khoa học xã hội Năm học 2012 - 2013 PHẦN I: MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Hiện nay nghành giáo dục đang tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, lấy học sinh làm trung tâm, người thầy giữ vai trò tổ chức hướng dẫn học sinh tích cực chủ động lĩnh hội kiến thức mới. Vì vậy việc sử dụng phương tiện đồ dùng trực quan phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học là một trong những hướng tích cực nhất, hiệu quả nhất. Trong phương pháp dạy học mới thì đồ dùng dạy học nói chung và hệ thống kênh hình trong SGK lớp 9 nói riêng, không chỉ dừng lại ở giá trị minh hoạ cho hệ thống kênh chữ, mà chính các thiết bị, đồ dùng dạy học này còn là công cụ, là phương tiện cung cấp kiến thức, bởi chính nó cũng là nguồn kiến thức cần phải khai thác. Nhưng trong thực tế hiện nay, việc dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS chưa hoàn thành tốt vai trò của mình, nhiều giáo viên vẫn dạy học hoàn toàn bằng phương pháp truyền thống, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động học tập của học sinh, nhiều em vẫn cho rằng môn lịch sử thật khô khan, nhàm chán với những sự kiện đã diễn ra trong quá khứ. Muốn khắc phục được vấn đề này thì việc kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học tích cực với việc sử dụng thường xuyên các thiết bị đồ dùng dạy học trực quan như bản đồ ,lược đồ, tranh ảnh… vào giảng dạy là vô cùng cần thiết, để tạo ra những hình ảnh cụ thể sinh động, chính xác, giúp học sinh dễ hình thành khái niệm lịch sử, hứng thú học tập, nhớ lâu, nhớ kĩ nội dung bài học. Xuất phát từ tình hình thực tế và những điều kiện sẵn có của nhà trường, tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm " Kĩ năng sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong dạy học Lịch sử lớp 9". II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: 1. Mục đích: Sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong dạy học lịch sử lớp 9 rất phong phú, đa dạng và sinh động. Từ hệ thống hình ảnh, sơ đồ, lược đồ, băng hình... người thầy phải giúp học sinh khai thác đúng nội dung, tạo hứng thú trong học tập và phát huy được tính sáng tạo, phát triển khả năng tư duy, hình thành các kỹ năng và bồi dưỡng tình cảm cho các em thông qua việc nắm bắt các sự kiện, hiện tượng lịch sử nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. 2. Nhiệm vụ: Nghiên cứu một số vấn đề liên quan trực tiếp đến nội dung của đề tài: tìm hiểu chức năng, phương pháp, vị trí, nhiệm vụ của bộ môn, thái độ tư tưởng của học sinh đối với bộ môn… Đề xuất một số giải pháp góp phần gây hứng thú học tập cho học sinh khi sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong dạy học Lịch sử lớp 9, nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn. III. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Sáng kiến kinh nghiệm tập trung nghiên cứu và đưa ra một số kinh nghiệm trong tổ chức dạy học lịch sử lớp 9 có sử dụng đồ dùng trực quan điện tử nhằm tái hiện sự kiện, cung cấp kiến thức, tạo hứng thú học tập bộ môn lịch sử cho học sinh. Sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong dạy học lịch sử ở các lớp 9K, 9A trường THCS Tân Lập. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Khi nghiên cứu đề tài này tôi áp dụng phương pháp thực nghiệm qua thực tế áp dụng vào quá trình học tập kết hợp với, phân tích, nhận xét. Phương pháp quan sát: Tự tìm tòi nghiên cứu, tiến hành dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp. Phương pháp trao đổi, thảo luận: Sau khi dự giờ của đồng nghiệp, có thực hiện sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong giờ giảng để tiến hành trao đổi, thảo luận để từ đó rút ra những kinh nghiệm cho tiết dạy. Phương pháp thực nghiệm: Tiến hành dạy thực nghiệm theo mục đích yêu cầu của một số tiết học. Phương pháp điều tra: Tiến hành kiểm tra việc tiếp thu kiến thức của học sinh qua giờ học để có những điều chỉnh phù hợp. V. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU Thực hiện thường xuyên trong quá trình giảng dạy ( Từ tháng 9/2012 – tháng 3/2013), đặc biệt là những bài cần nhiều kênh hình như tranh ảnh, bản đồ lược đồ minh hoạ. PHẦN II: NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN: Sự đổi mới của mục tiêu giáo dục và nội dung giáo dục đặt ra yêu cầu phải đổi mới phương pháp dạy học, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của học sinh. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy và học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, tác động đến tư tưởng tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh. Tuy nhiên, hiện nay chất lượng giảng dạy và học tập môn lịch sử chưa thực sự làm cho xã hội an tâm. Vì vậy việc sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong dạy học lịch sử được xem là một trong những công cụ đem lại hiệu qủa tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy và học. Hệ thống tranh ảnh, bản đồ, lược đồ điện tử...sẽ tạo nhiều hứng thú cho các em trong học tập. Các em được tiếp cận, nhận thức các sự kiện lịch sử một cách sống động, gần với quá khứ hơn. So với những bài giảng thông thường, học sinh phải mường tượng trong đầu những sự kiện, nhân vật mà thầy cô thuyết giảng. Nhưng với việc học trên dụng cụ trực quan điện tử học sinh sẽ được trực quan sinh động với những sự kiện, nhân vật lịch sử một cách cụ thể giúp kích thích quá trình tư duy của học sinh, từ đó nội dung kiến thức lịch sử học sinh thu thập đủ và khắc sâu hơn vào trong trí nhớ của các em. Mặt khác sử dụng đồ dùng trực quan điện tử sẽ giúp giáo viên hạn chế bớt phần thuyết giảng để có thời gian thảo luận và tăng cường sự kiểm soát đối với học sinh.Tuy nhiên để có một đồ dùng trực quan điện tử phục vụ hiệu quả cho bài giảng, đòi hỏi giáo viên phải có trình độ tin học tốt, có kiến thức vững vàng, có trình độ tư duy cao và phải đầu tư khá nhiều thời gian và công sức để chuẩn bị cho bài giảng. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN: Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay, hệ thống tranh ảnh, bản đồ, lược đồ... điện tử trên mạng khá nhiều. Một số giáo viên đã sử dụng đồ dùng trực quan điện tử vào dạy học nhưng kết quả chưa cao. Nhiều giáo viên chỉ biết đưa ra những hình ảnh mà không biết khai thác hình ảnh đó như thế nào, hoặc chưa biết làm các hiệu ứng khi dạy các kiểu bài có lược đồ diễn biến trận đánh .... Còn đối với học sinh, nhiều em vẫn cho rằng đây là môn "phụ" do đó không phải đầu tư nhiều thời gian. Các giờ có sử dụng đồ dùng dạy học các em chỉ ngồi xem hình ảnh... Từ thực tế như vậy, yêu cầu giáo viên phải có phương pháp đúng, phù hợp với nội dung bài học để gây được hứng thú học tập đối với học sinh. Qua quá trình dạy học, tôi luôn luôn tìm tòi, học hỏi các bạn đồng nghiệp để làm sao cho bài giảng có sử dụng đồ dùng trực quan điện tử đạt được hiệu quả cao nhất từng bước nâng cao chất lượng bộ môn. III: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN ĐIỆN TỬ TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THCS TÂN LẬP: 1. Ưu điểm Mặc dù có những điều kiện khách quan và chủ quan ảnh hưởng trực tiếp trong quá trình giảng dạy nhưng chúng tôi đã biết khắc phục vượt lên những khó khăn trước mắt, từng bước nâng cao chất lượng giờ dạy môn lịch sử nhằm đáp ứng tốt mục đích chương trình môn học. a- Về phía giáo viên: Bước đầu đã tiếp cận sử dụng tương đối tốt các kỹ thuật dạy học đặc trưng bộ môn. Đã quen và chủ động với cách thức tổ chức các hoạt động dạy học. Phối hợp khá linh hoạt các kỹ thuật dạy học. Sáng tạo ra nhiều đồ dùng dạy học phù hợp với nội dung các tiết dạy, đã thiết kế các bài dạy có sử dụng đồ dùng dạy học điện tử, vì vậy nhiều tiết dạy lịch sử trở nên sinh động , có sức lôi cuốn . Sử dụng vận hành các trang thiết bị dạy học hiện đại phục vụ tốt cho quá trình giảng dạy... b- Về phía học sinh: Học sinh đã được quen dần với môn học có sử dụng đồ dùng dạy học điện tử . Phần lớn học sinh có ý thức học tập và yêu thích môn lịch sử, tích cực thực hiện được các yêu cầu, bài tập của giáo viên sau giờ học. 2. Những tồn tại: Kiến thức lịch sử là kiến thức về quá khứ. Yêu cầu bộ môn đòi hỏi học sinh phải tái hiện những sự kiện, hiện tượng đó một cách sống động như đang diễn ra trước mắt. Bên cạnh đó, khả năng tư duy của học sinh THCS còn hạn chế nên việc sử dụng phương tiện trực quan để giúp học sinh tái hiện những sự kiện, hiện tượng là một nguyên tắc trong dạy học lịch sử. Trong khi đó, các phương tiện trực quan phục vụ dạy học lịch sử hiện nay còn nhiều hạn chế, vừa thiếu lại vừa không phù hợp, hệ thống bản đồ và tranh ảnh lịch sử trong danh mục đồ dùng do Bộ giáo dục phát hành là không đủ cho các bài dạy. Bên cạnh đó kênh chữ và các kí hiệu quá nhỏ không thể sử dụng được, các tranh ảnh ở sách giáo khoa màu sắc còn đơn điệu và thiếu đồng bộ, phim tài liệu thì hầu như không có. So với yêu cầu đặt ra của bộ môn và định hướng đổi mới phương pháp trong giai đoạn hiện nay thì có thể nói rằng những phương tiện dạy học không đáp ứng được yêu cầu và không thể tạo sự hứng thú học tập cho học sinh. IV. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Mục đích của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy lịch sử Việc sử dụng công nghệ hiện đại đòi hỏi người giáo viên phải có kỹ năng thiết kế giáo án và sử dụng những phương pháp truyền đạt mới. Thay vì phấn trắng bảng đen truyền thống, việc sử dụng đồ dùng dạy học điện tử sẽ làm cho bài giảng được thực hiện một cách sinh động, gây hứng thú và phát huy được tính tích cực của cả giáo viên và học sinh. Cái được lớn nhất ở mỗi tiết giảng có sử dụng đồ dùng dạy học điện tử chính là mang lại một lượng lớn kiến thức, hình ảnh trực quan sinh động được chuyển tải đến học sinh. Nguyên tắc trực quan trong dạy học Lịch sử đóng vai trò quan trọng, nó làm cho học sinh hứng thú và nhận thức một cách chính xác các sự kiện quá khứ và ghi nhớ lâu hơn. Bằng những hình ảnh tư liệu, sơ đồ, lược đồ, đoạn phim minh hoạ trên máy tính sẽ tái hiện lại quá khứ, giúp cho bài giảng thu hút được sự chú ý và tạo hứng thú cho học sinh, hỗ trợ học sinh tiếp thu kiến thức, giảm tính trừu tượng của nội dung bài học, vì vậy học sinh hứng thú hơn trong giờ học bởi các em có thể được sống lại cùng lịch sử qua các hình ảnh tư liệu...tạo điều kiện cần thiết cho học sinh thực hành để hình thành và rèn luyện các kỹ năng, góp phần đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Trợ giúp cho giáo viên trong việc hướng dẫn học sinh học kiến thức mới, phát huy tính tìm tòi, khám phá của học sinh. Khi sử dụng hình ảnh, phim tư liệu, các bản đồ điện tử… để minh họa, chắc chắn sẽ tạo được ấn tượng mạnh mẽ cho các em. Chính những điều này sẽ thổi một luồng gió mới vào lớp học, vào nhiệt huyết nghề nghiệp của giáo viên và vào cả tinh thần hăng say học tập của học sinh để mang lại hiệu quả giáo dục cao hơn. 2. Yêu cầu của việc sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong dạy lịch sử Trong dạy học yêu cầu mỗi giáo viên phải có sự thích ứng sáng tạo khi sử dụng đồ dùng trực quan trong các bài giảng. Tuy nhiên không phải bài nào cũng sử dụng đồ dùng trực quan điện tử có hiệu quả. Bởi trong thực tế hiện nay nhiều giáo viên quá lạm dụng sử dụng đồ dùng trực quan điện tử vào dạy học, dạy tràn lan không định hướng được lượng kiến thức cần truyền đạt cho học sinh. Để làm tốt điều này, giáo viên phải dựa vào nội dung và rèn kĩ năng để đạt mục đích đề ra. Vì thế giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ bài dạy, sử dụng đồ dùng trực quan điện tử phù hợp mang lại hiệu quả cao cho bài giảng.giáo viên phải xác định được sử dụng đồ dùng trực quan chỉ là công cụ hỗ trợ hữu ích cho dạy học. Giáo viên tránh đưa ra nhiều hình ảnh màu sắc lòe loẹt hoặc những thước phim tư liệu quá dài khiến học sinh chỉ chú ý đến việc xem mà không phát huy được sự chủ động, tích cực tư duy. Ngoài ra, ứng dụng sử dụng đồ dùng trực quan điện tử hình thành kiến thức cho học sinh trong dạy học lịch sử còn làm cho giờ học trở nên sinh động, không bị khô khan, tẻ nhạt, lôi cuốn được học sinh tham gia học tập tích cực, chủ động, tạo cho các em động cơ và không khí học tập thoải mái. Đây là nền tảng cho việc tiếp thu kiến thức khoa học lịch sử một cách hiệu quả. Khi sử dụng những bức ảnh lịch sử có kích thước nhỏ, giáo viên phải đi xuống lớp hướng dẫn học sinh quan sát, sử dụng lược đồ treo tường giáo viên phải mất công treo, hoặc nếu lập niên biểu, vẽ sơ đồ, đồ thị lịch sử trên bảng đen thì giáo viên cũng mất khá nhiều thì giờ, trong khi đó độ chuẩn xác và tính thẩm mĩ lại không cao. Ngược lại, nếu giáo viên sử dụng đồ dùng trực quan điện tử, sẽ giúp giáo viên đỡ vất vả và đơn giản hơn rất nhiều, thời gian được tiết kiệm tối đa mà tính trực quan, thẩm mĩ lại cao. Ở đây, giáo viên chỉ cần “nhấn chuột” để trình chiếu và hướng dẫn học sinh khai thác nội dung kiến thức, trong mỗi hình ảnh, kênh hình sẽ được phóng to trên màn hình lớn đủ để học sinh cả lớp quan sát. Những mũi tên chuyển động khi tường thuật về một trận đánh, hướng tấn công, hoặc việc sơ đồ hóa các mốc thời gian quan trọng, cụ thể hóa cho đối tượng cần miêu tả trên màn hình lớn kèm theo lời trình bày sinh động của giáo viên sẽ có tác động lớn tới tâm lí học sinh, các em cảm thấy học tập hứng thú hơn, hiệu quả tiếp nhận và ghi nhớ kiến thức tốt hơn. 3. Các biện pháp tiến hành sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong dạy lịch sử Để việc sử dụng đồ dùng trực quan điện tử vào dạy học lịch sử hiệu quả, có rất nhiều hình thức nhưng trong khuôn khổ của đề tài này tôi đưa ra 1 số vấn đề như sau: 3.1. Sử dụng hình ảnh điện tử để minh họa cho nội dung bài học: Một trong những lợi thế của môn học Lịch sử là có rất nhiều tư liệu bằng hình ảnh. Học lịch sử là học quá khứ nên học sinh rất thích được xem những hình ảnh thực tế của quá khứ làm cho các em có cảm giác như đang sống cùng với thời kì lịch sử đó. Hình ảnh là nguồn tư liệu phong phú nhất khi sử dụng đồ dùng trực quan điện tử vào dạy học, bài học nào có sử dụng đồ dùng trực quan điện tử thì bài học đó có hình ảnh minh họa. Nếu khai thác tốt hình ảnh sẽ hấp dẫn được học sinh, giúp học sinh hiểu sâu hơn bàì học hơn. Tuy nhiên giáo viên không nên đưa quá nhiều hình ảnh hoặc hình ảnh không gần với nội dung bài học, điều đó khiến cho học sinh khó nhận biết và khắc sâu kiến thức. Có hai hình thức sử dụng hình ảnh: a. Hình ảnh điện tử minh họa cho nội dung kiến thức: Sau khi đã trình bày song phần nội dung kiến thức của từng mục, từng bài giáo viên đưa ra các hình ảnh minh họa cho nội dung bài hoc. Ví dụ : Khi dạy Tiết 29 - Bài 24: Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân .Phần I: Tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám. Giáo viên đặt câu hỏi: Tại sao nói, nước VNDCCH ngay sau khi thành lập đã ở vào tình thế “ ngàn cân treo sợi tóc”? Sau khi học sinh trả lời, giáo viên chốt lại những khó khăn của Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa sau CM tháng Tám: Giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt, khó khăn về tài chính, tệ nạn xã hội... Sau đó giáo viên cho học sinh xem một số hình ảnh để minh họa thêm, giúp học sinh hiểu được kiến thức trọng tâm bài học. Khi nói đến nạn đói, giáo viên cho học sinh quan sát những bức ảnh sau: Những hình ảnh trên sẽ giúp HS hình dung một cách chân thực, rõ nét về nạn đói của nước ta trong năm 1945, đồng thời cũng thấy được sự độc ác của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật, dưới sự thống trị tàn bạo của chúng đã làm cho khoảng 2 triệu đồng bào ta bị chết đói. Khi nói đến nạn dốt, giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh sau: Khi xem những bức ảnh trên học sinh sẽ thấy được chính sách thống trị nô dịch của Nhật – Pháp đã làm cho trên 90% dân số nước ta bị mù chữ, cùng các tệ nạn xã hội tràn lan. Những khó khăn đó không chỉ làm cho dân số, nguồn nhân lực nước ta bị suy giảm mà còn gây ra hậu quả lâu dài về mặt xã hội cho đất nước ta mà chúng ta còn phải khắc phục sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Khi nói đến nạn ngoại xâm, giáo viên cho học sinh quan sát những bức ảnh sau: Ở miền Bắc nước ta có 20 vạn quân Tưởng dưới danh nghĩa quân đồng minh làm nhiệm vụ giải giáp phát xít Nhật, kéo vào theo chúng là bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách với âm mưu phá hoại cách mạng nước ta thể hiện qua khẩu hiệu "Diệt cộng của chúng. Bọn Tưởng muốn tiêu diệt chính quyền non trẻ của chúng ta. Đây là một nguy cơ lớn đối với chính quyền cách mạng. Ở phía Nam là hàng vạn quân Anh và núp bóng chúng là hàng nghìn tên lính Pháp đang lăm le quay trở lại xâm lược nước ta. Đến ngày 23/9 được quân Anh tạo điều kiện thì thực dân Pháp đã chính thức nổ súng xâm lược trở lại nước ta ở Nam Bộ.Như vậy thực chất quân đồng minh vào nước ta là để lật đổ chính quyền cách mạng phục vụ mưu đồ cho bọn đế quốc, thực dân. Đây là một thách thức rất lớn mà chính quyền cách mạng non trẻ phải đối mặt. Những hình ảnh này giúp học sinh hiểu rõ hơn những khó khăn, thử thách mà Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh phải đương đầu sau cách mạng. Như vậy có thể so sánh nếu như khi dạy bài trên nếu không sử dụng đồ dùng dạy học thì giáo viên vẫn có thể truyền đạt hết kiến thức cho học sinh nhưng để học sinh hình dung được bộ mặt thật, những khó khăn thách thức của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa sau cách mạng tháng Tám là rất khó, bởi học sinh có thể chỉ biết được trên sách vở, lý thuyết. Qua các hình ảnh trên học sinh mới nắm bắt nhanh và khắc sâu kiến thức của bài học, biết được sự thật của lịch sử và biết so sánh với tình hình nước ta hiện nay. b. Hình ảnh điện tử khắc sâu kiến thức: Giáo viên đưa ra hình ảnh và hướng dẫn học sinh khai thác hình ảnh. Sau đó rút ra những vấn đề kiến thức của bài học, nhằm khắc sâu kiến thức trọng tâm. Vấn đề này không khó nhưng giáo viên lại không hay chú ý thường bỏ qua hoặc làm thay cho học sinh. Ví dụ: Khi dạy Tiết 29 - Bài 24. Phần III. Giải quyết giặc đói, giặc dốt và khó khăn về tài chính. Giáo viên cho học sinh quan sát hình 42 ( SGK – Nhân dân góp gạo chống giặc đói) trên màn hình lớn. Giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác nội dung kiến thức cơ bản, kèm theo câu hỏi gợi mở như sau: - Bức ảnh trên chụp ở đâu? - Bức ảnh trên chụp trong thời gian nào? - Nội dung của bức ảnh là gì ? - Quan sát bức ảnh trên em có nhận xét gì về tinh thần chống giặc đói của nhân dân ta ? Sau khi học sinh trao đổi, trả lời xong, giáo viên nhận xét và kết luận về nội dung bức hình: Bức hình trên chụp năm 1945, nhân dân ta góp gạo cứu đói trong những ngày đầu sau cách mạng Tháng Tám năm 1945. Giáo viên cụ thể hoá kiến thức bằng lời giảng, hình ảnh để bài giảng thêm sinh động hấp dẫn: Tất cả mọi người, tất cả mọi nhà đều“ lập hũ gạo cứu đói", đều thực hiện“ Ngày đồng tâm" khi hũ gạo nhà mình đầy, đem tới nơi quyên góp gạo chung của cả làng .Chỗ gạo quý hiếm chắt chiu ấy, sẽ được đưa tới nơi đói gay gắt hơn, để đồng bào có được miếng cơm, bát cháo cho qua đi những ngày khốn khó. Tiếp đó giáo viên kể những câu chuyện về tấm gương“ Nhịn ăn của chủ tịch nước" trong những ngày khó khăn để giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho các em. Đấy chính là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta . Trong gian nan, khốn khó, càng sáng bừng lên nghĩa cử :“ Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn." Qua đó sẽ cho các em thấy nhân dân hưởng ứng lời kêu gọi ''Nhường cơm sẻ áo'' và ''Hũ gạo cứu đói'' của chủ tịch Hồ Chí Minh một cách sôi nổi, nhiệt tình thể hiện sự đoàn kết, đồng lòng của nhân dân ta cùng nhau đùm bọc qua những ngày khốn khó với tinh thần tương thân, tương ái đồng bào ta đã chia sẻ từng nắm gạo giúp đồng bào vượt qua cơn hoạn nạn. Khi xem bức ảnh trên kết hợp vời lời giảng và các câu chuyện, các em sẽ được hoà mình sống cùng với toàn dân tộc trong những ngày khó khăn và cảm nhận được sự ấm áp của lòng nhân ái, sự phấn khởi tin tưởng của toàn dân tộc vào sự lãnh đạo của Đảng, của chủ tịch Hồ Chí Minh. Tương tự khi dạy về giải quyết nạn dốt: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bức ảnh trên màn hình lớn và cùng trao đổi thảo luận theo hệ thống câu hỏi đã định trước. Sau khi giới thiệu sự kiện ngày 8/9/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh thành lập nha Bình dân học vụ và kêu gọi xoá nạn mù chữ. Giáo viên giải thích cho học sinh hiểu: “ Bình dân học vụ" là học tập, là nghĩa vụ của mọi người dân. Vì có học mới có được kiến thức để xây dựng chính quyền mới, cuộc sống mới . Giáo viên cho HS xem bức ảnh trên kết hợp với lời giảng sinh động, để các em thấy sự hưởng ứng nồng nhiệt của nhân dân ta thông qua việc có hàng vạn người tham gia cổ vũ rầm rộ cho phong trào diệt giặc dốt. Một lớp bình dân học vụ ban đêm : Có trẻ, có già, có trai, có gái, đầy đủ mọi lứa tuổi đang say sưa học bài, lần đầu tiên nắn nót viết chữ “ o tròn như quả trứng gà”, mà miệng cũng tròn, mắt cũng tròn vì ngạc nhiên và sung sướng. Tiếng đánh vần i tờ từng chữ cái của những học viên lớp Bình dân học vụ cho ta thấy niềm xúc động, sự náo nức của một thời kì lịch sử của dân tộc trong những ngày đầu mới giành độc lập... ánh sáng của những ngọn đèn dầu hôm nay, sẽ làm bừng sáng tương lai của dân tộc ở ngày mai...(giáo viên có thể kể thêm chuyện :"Cổng mù" trong phong trào xoá nạn mù chữ trong những ngày đầu tiên này…) Một lần nữa bức ảnh này sẽ tạo cho các em ấn tượng sâu đậm về bối cảnh đất nước trong những năm 1945 - 1946. Qua đó giúp các em thêm phấn khởi, tin tưởng vào công cuộc kháng chiến của nhân dân ta đồng thời ra sức học tập để noi gương thế hệ cha anh đi trước. Như vậy, việc trình chiếu bức ảnh trên màn hình lớn để hướng dẫn học sinh quan sát, miêu tả, kể chuyện, kết hợp với câu hỏi gợi mở sẽ giúp học sinh phát huy tính tích cực, hứng thú trong học tập. Và nếu như không sử dụng đồ dùng dạy học điện tử thì học sinh dễ nhàm chán và giờ học không đạt được kết quả cao. Sau khi học sinh quan sát, suy nghĩ và trả lời, giáo viên kết luận sẽ hình thành cho các em biểu tượng rõ nét, chân thực về hình ảnh phong trào diệt giặc đói, diệt giặc dốt. Nhờ đó, các em sẽ khắc sâu, nhớ lâu kiến thức về những sự kiện lịch sử này, không nhầm lẫn với các sự kiện lịch sử khác. 3.2. Sử dụng âm thanh kết hợp với hình ảnh điện tử minh họa, rút ra nội dung bài học: Tùy theo nội dung của bài giáo viên có thể lồng ghép dung lượng âm thanh phù hợp, kết hợp với hình ảnh làm phong phú thêm bài học, đồng thời thay đổi không khí trong một giờ học Lịch sử: Ví dụ: Tiết 28 - Bài 23: Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 và sự thành lập Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Phần III. Giành chính quyền trong cả nước. Dạy tới phần nội dung của Tuyên ngôn độc lập, giáo viên cho học sinh xem bức ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945, kết hợp cả hình ảnh cùng với âm thanh: " Hỡi đồng bào cả nước, tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ, suy rộng ra câu ấy có ý nghĩa là, tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi, đó là những quyền lợi không ai chối cãi được..... Câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh " Tôi nói đồng bào nghe rõ không" làm cho biển người đang sôi lên dường như lắng xuống... Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế dộ quân chủ cộng hòa. .....Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành 1 nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy". Tiếp đó giáo viên có thể hỏi: Em hãy nêu nội dung bản tuyên ngôn độc lập? Học sinh có thể rút ra được ngay nội dung cơ bản của bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, nó là sự kế thừa và tiếp nối những mặt tích cực của bản tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của Pháp, bản tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ để Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lên một bản Tuyên ngôn hào hùng cho dân tộc Việt Nam, khẳng định với thế giới quyền tự do dân chủ của nhân dân Việt Nam.... Hơn nữa các em được nghe thực tế giọng của Bác Hồ đọc tuyên ngôn, các em sẽ phấn khởi hơn hứng thú hơn khi học những phần sau và dễ khắc sâu kiến thức của bài. Đối với Tiết 31 - Bài 25- Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946-1950). Phần I-Mục 1: Kháng chiến toàn quốc chống Pháp xâm lược bùng nổ. Khi dạy tới nội dung của Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, giáo viên cho học sinh xem bút tích của chủ tịch Hồ Chí Minh, hình ảnh phát đi lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, kết hợp cả hình ảnh cùng với âm thanh: Ngày 20/12/1946 Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch. (Bút tích lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam) Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào!Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta! Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm! Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 1946 Hồ Chí Minh Khi dạy tới đoạn chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến nếu như trước đây dạy bình thường giáo viên chỉ khai thác nội dung này qua đoạn kênh chữ trong sách giáo khoa thì học sinh chỉ biết tới lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến qua giọng đọc của giáo viên, nhưng nếu kết hợp cả hình ảnh cùng với âm thanh về lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến bằng chính nét chữ và lời đọc của của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì học sinh được mắt thấy tai nghe, các em sẽ hứng thú nhiều khi học tập và cô đọng lại kiến thức của bài giảng trong học sinh. 3.4. Sử dụng lược đồ điện tử để khai thác nội dung bài học Bản đồ lược đồ không chỉ có tác dụng minh họa cho nội dung bài học, mà còn là nguồn kiến thức không thể thiếu đựợc trong bài học. Nếu bản đồ lược đồ được sử dụng tốt, sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ hai hệ thống tín hiệu với nhau: tai nghe, mắt thấy, tạo điêù kiện cho học sinh dễ hiểu nhớ lâu, phát huy đựơc năng lực chú ý quan sát, hứng thú của học sinh. Ưu thế của việc sử dụng lược đồ điện tử trong dạy học lịch sử là bằng các hiệu ứng giáo viên có thể làm cho học sinh thấy được sự sinh động trong diễn biến các trận đánh và thấy được sự quyết liệt trong mỗi sự kiện... Một bản đồ động sẽ hứng thú hơn nhiều so với bản đồ tĩnh, tuy nhiên việc thiết kế một bản đồ điện tử là một vấn đề rất khó làm đối với giáo viên. Phương pháp này có thể áp dụng cho rất nhiều bài trong chương trình của bộ môn Lịch sử đặc biệt là các bài có diễn biến của phong trào cách mạng, các trận đánh lớn. Tôi xin nêu ra một trường hợp ứng dụng cụ thể như sau: Ví dụ: Khi giảng bài 27: Cuộc kháng chiến chống thực Pháp xâm lược kết thúc ( 1953 – 1954) phần II. các cuộc tiến công của ta trong chiến cuộc Đông Xuân ( 1953- 1954). Trước tiên giáo viên cho học sinh trực quan bản đồ trên màn hình máy chiếu, lúc đầu chỉ đưa ra vài nét cơ bản về phạm vi lãnh thổ và một số địa danh chính rồi đặt câu hỏi : Vì sao Pháp lại chọn đồng bằng Bắc Bộ là nôi tập trung lực lượng quân cơ động? Nêu tính chất nguy hiểm của kế hoạch NaVa? Hội nghị Bộ chính trị trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch tác chiến trong Đông – Xuân 1953 – 1954 như thế nào? 2 3 1 4 5 Sau đó khi giảng về diễn biến trận đánh đến đâu giáo viên dùng chuột di chuyển đánh dấu các kí hiệu với những mầu sắc khác nhau vào tới đó để thể hiện nội dung kiến thức. Khi tường thuật việc địch tập trung quân ở đồng bằng Bắc Bộ lên tới 44 tiểu đoàn để chủ động đánh ta, thực hiện kế hoạch Nava hòng xoay lại tình thế chuyển bại thành thắng, giáo viên nhấn chuột vào vị trí đồng bằng Bắc Bộ, khi đó sẽ xuất hiện hình tròn màu xanh số 1. Ngày 10 tháng 3 năm 1953 ta tấn công Lai Châu bao vây Điện Biên Phủ. Nava buộc phải điều 6 tiểu đoàn cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ lên tăng cường cho Điện Biên Phủ làm cho Điện Biên Phủ trở thành nơi tập trung binh lực thứ 2 của địch. Giáo viên lại nhấn chuột tạo thành mũi tên mầu đỏ từ đồng bằng Bắc Bộ lên vị trí Điện Biên Phủ (hình tròn màu xanh số 2). Đầu tháng 12 năm 1953 cùng với bộ đội Pha Thét – Lào ta tấn công trung Lào giải phóng thị xã Thà Khẹt, uy hiếp Sê Nô, biến Sê Nô thành tập trung binh lực thứ 3, giáo viên tiếp tục nhấn chuột tạo thành mũi tên mầu đỏ từ đồng bằng Bắc Bộ sang vị trí Sê nô( hình tròn màu xanh số 3) . Đầu tháng 2 năm 1954 ta tấn công địch ở bắc tây Nguyên giải phóng Kom Tum, uy hiếp Plây trở thành nơi tập trung binh lực thứ 4 của địch. Giáo viên nhấn chuột tạo thành mũi tên mầu đỏ từ đồng bằng Bắc Bộ sang vị trí Plâycu ( hình tròn màu xanh số 4) . Cũng trong thời gian này ta tấn công sang thượng Lào. Quân đội nhân dân Việt Nam và Pha Thét Lào tấn công địch và giải phóng vùng Phong Xa Lì, uy hiếp Luông Pha Băng, địch phải tăng cường Luông Pha Băng, Luông Pha Băng trở thành nơi tập trung binh lực thứ 5 của địch. Giáo viên nhấn chột tạo thành mũi tên mầu đỏ từ đồng bằng Bắc Bộ sang vị trí Luông Pha Băng( hình tròn màu xanh số 5). Qua các ký hiệu được nổi lên trên lược đồ trống học sinh hiểu được kiến thức một cách dễ dàng. Qua các đợt tấn công của ta quân địch bị phân tán lực lượng chủ yếu từ một nơi thành 5 nơi. Như vậy địch từ chỗ chủ động tập trung đánh ta, nay lâm vào thế bị động phải phân tán ra để đối phó với ta. Như vậy lực
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng