Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Skkn một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 dtts học tốt môn tiếng việt...

Tài liệu Skkn một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 dtts học tốt môn tiếng việt

.PDF
24
1967
52

Mô tả:

Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt MỤC LỤC TT I 1 2 3 4 5 II 1 2 2.1 2.2 2.3 2.4 2.5 3 3.1 3.2 3.3 3.4 3.5 4 III 1 2 Nội dung PHẦN MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài Đối tượng nghiên cứu Giới hạn phạm vi nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu PHẦN NỘI DUNG Cơ sở lý luận Thực trạng Thuận lợi, khó khăn Thành công, hạn chế Mặt mạnh, mặt yếu Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt Giải pháp, biện pháp Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ Kết luận Trang 2 2 2 2 2 3 3 3 4 4 5 5 5 6 7 7 8- 16 16 16 16 17 18 Kiến nghị 18 18 Tài liệu tham khảo 20 1 Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề đề tài Xuất phát từ mục tiêu giáo dục Tiểu học: Hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để các em tiếp tục học lên Trung học cơ sở, các cấp học khác và áp dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống lao động. Trong đó môn tiếng Việt là môn học đóng vai trò quan trọng trong góp phần hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của trẻ. Nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt là công cụ để học tập các môn học. Nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt tạo ra hứng thú và động cơ học tập, nó là khả năng không thể thiếu. Vả lại tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai của các em học sinh dân tộc thiểu số. Căn cứ vào thực tế của việc học môn tiếng Việt đối với học sinh dân tộc thiểu số còn gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy làm thế nào để giúp các em học sinh lớp 1 học tốt môn tiếng Việt nhất là học sinh dân tộc thiểu số quả là một việc hết sức cần thiết. Đây là vấn đề mà được nhiều người quan tâm và trăn trở. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy trên địa bàn với 98% học sinh là người dân tộc thiểu số, với mong muốn tìm ra các biện pháp khắc phục để đạt được mục đích giáo dục ở bậc Tiểu học nói chung và ở môn tiếng Việt nói riêng, đó chính là lí do tôi chọn đề tài “ Một vài kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số học tốt môn tiếng Việt”. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài Thực hiện đề tài này với mục đích nâng cao khả năng đọc đúng và tìm ra biện pháp hữu hiệu khắc phục, giải quyết triệt để lỗi phát âm sai tiếng Việt của học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số. Từ đó góp phần nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân, nâng cao chất lượng đọc của học sinh nhất là đọc hiểu tiếng Việt, dần dần nâng cao chất lượng môn học tiếng Việt của học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số, góp phần đưa chất lượng giáo dục ngày một tốt hơn. Tìm ra được biện pháp sửa sai trong quá trình phát âm tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số để giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt. Khắc phục được những lỗi mà học sinh thường mắc phải để mỗi giáo viên có hướng rèn luyện, bồi dưỡng hiệu quả việc phát âm tiếng Việt của học sinh dân tộc thiểu số khi bắt đầu bước vào lớp đầu cấp. 3. Đối tượng nghiên cúu Việt. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số học tốt môn tiếng 4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu Học sinh lớp 1A, Trường Tiểu học Võ Thị Sáu năm học 2013 – 2014, 2 Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt 2014 – 2015. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tài liệu - Phương pháp trải nghiệm thực tế - Phương pháp quan sát - Phương pháp thống kê, tổng hợp II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận Với đặc điểm tâm, sinh lí học sinh Tiểu học, các em đang phát triển cả về thể lực lẫn thể chất. Trong đó, cơ quan phát âm, ngôn ngữ phát triển mạnh, phù hợp với sự tiếp nhận và thực hiện dễ dàng các hoạt động mới theo chức năng của chúng: chức năng phát âm - tập đọc. Khả năng nhận thức, tư duy, tưởng tượng, tình cảm, trí nhớ và nhân cách học sinh đang được hình thành. Học sinh Tiểu học hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng, hiếu động, tò mò, thích hoạt động, thích khám phá, thường độc lập, tự lực làm việc theo hứng thú của mình. Thầy cô là hình tượng mẫu mực nhất được trẻ tôn sùng nhất, mọi điều trẻ đều nhất nhất nghe theo, sự phát triển nhân cách của học sinh Tiểu học phụ thuộc phần lớn vào quá trình dạy học và giáo dục của thầy, cô giáo trong nhà trường. Nghe, nói, đọc, viết là bốn kĩ năng cơ bản của môn Tiếng Việt, để đạt các yêu cầu so với chuẩn kiến thức kĩ năng theo quyết định số 16/2006/ QĐ- BGD& ĐT ban hành ngày 15 tháng 5 năm 2006. Rèn phát âm cho học sinh Tiểu học bước đầu đem đến sự vận động khoa học cho não bộ và các cơ quan phát âm, ngôn ngữ đem đến những tinh hoa văn hoá, văn học nghệ thuật trong tâm hồn trẻ, rèn kĩ năng đọc, hiểu, cảm thụ văn học, rèn luyện tình cảm đạo đức, ý chí, ý thức, hành động đúng cho trẻ, phát triển khả năng học tập các môn học khác là điều kiện phát triển toàn diện cho học sinh Tiểu học trong giai đoạn hiện nay. Nhân cách học sinh Tiểu học phát triển đúng đắn hay lệch lạc phụ thuộc vào quá trình giáo dục của người thầy mà trong đó phương tiện chủ yếu là nghe, nói, đọc, viết có được trong quá trình học tập. Dạy đọc đặc biệt là chú trọng việc rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số, đòi hỏi người thầy phải phát âm chuẩn và có phương pháp dạy học phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học. Ngày nay với sự phát triển tiến bộ của khoa học, xã hội, giáo dục cần đáp ứng nhu cầu ham hiểu biết của học sinh Tiểu học và tăng cường giáo dục đạo đức, nhân cách, rèn kỹ năng sống cho trẻ. Trường tiểu học Võ Thị Sáu có 97,5% học sinh dân tộc thiểu số. Các em gặp không ít khó khăn trong cuộc sống, sinh hoạt, học tập đó là: thiếu điều kiện học tập,quá trình học không liên tục, kiến thức nắm không vững chắc, thiếu động cơ học tập. Biết đọc, biết viết là mục tiêu số một ở học sinh Tiểu học. Vốn tiếng Việt 3 Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt là rất cần thiết trước khi học chữ. Không biết hoặc biết ít tiếng Việt là trở ngại lớn nhất cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số. Tập nói tiếng Việt là nhiệm vụ đầu tiên với các em. Học sinh dân tộc cần có vốn tiếng Việt trước để học chữ. Bộ giáo dục đã có nhiều văn bản chỉ đạo như công văn 9832/ BGD&ĐT - GDTH ngày 1 tháng 9 năm 2006, công văn 9890/ BGD&ĐT – GDTH ngày 17 tháng 9 năm 2007 về việc hướng dẫn nội dung, phương pháp giáo dục cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Ngày 9 tháng 8 năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức hội nghị "Triển khai các phương án tăng cường tiếng Việt (lớp 1) cho học sinh dân tộc thiểu số ". Tại hội nghị, xuất phát từ những quan điểm, lý luận giáo dục và cách tiếp cận gắn với đặc điểm học sinh dân tộc các vùng miền, năm phương án về chủ đề này đã được trình bày, và trao đổi ý kiến rộng rãi. Đó là: Chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo trước tuổi đến trường (Vụ GD Mầm non). Dạy tiếng Việt trên cơ sở tiếng mẹ đẻ trong chương trình song ngữ Ê-đê - Việt (Vụ GD Dân tộc). Nghiên cứu thử nghiệm giáo dục song ngữ dựa trên tiếng mẹ đẻ (Trung tâm Nghiên cứu GD dân tộc). Dạy học tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 1(Nhóm tăng cường năng lực dạy và học- Dự án PEDC). Dạy học lớp 1 cho học sinh dân tộc chưa biết nói tiếng Việt (Trung tâm Công nghệ GD). Công văn số 8114/ BGD&ĐT- GDTH V/v nâng cao chất lượng dạy học cho học sinh dân tộc thiểu số ban hành ngày 15 tháng 9 năm 2009. 2. Thực trạng 2.1 Thuận lơi, khó khăn * Thuận lợi Được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo nhà trường nên ngay từ đầu năm học các em học sinh lớp 1 đã được làm quen với môi trường học tập mới. Bản thân nhiều năm liền dạy lớp 1. Học sinh dân tộc thiểu số được Đảng và nhà nước quan tâm cấp phát đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập. 100% học sinh được học 8 buổi / tuần. * Khó khăn - Về nhà trường: Cơ sở vật chất chưa đáp ứng với nhu cầu giảng dạy. - Về giáo viên: Năng lực không đồng đều, số giáo viên là người dân tộc thiểu số trong khối chiếm 60% năng lực còn hạn chế. - Về học sinh: Lớp chiếm 100% là người đồng bào dân tộc thiểu số, nhiều em chưa biết cách cầm bút, chưa nhớ các chữ cái, không có khả năng ghi nhớ, thiếu sự quan tâm của cha mẹ. Do các em không muốn đi học chỉ muốn ở nhà vui chơi. Các em chưa có ý thức trong học tập. 4 Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt 2.2 Thành công, hạn chế * Thành công Đội ngũ giáo viên được trau dồi nâng cao năng lực chuyên môn, đa số giáo viên có ý thức tự học tự rèn, nắm vững phương pháp dạy học, vốn kiến thức được nâng cao. Tìm ra được cách giảng dạy mới để giúp các em dễ ghi nhớ, nhớ lâu và phát âm đúng, đọc được bài ngay tại lớp. Học sinh hứng thú, thích đọc bài, hiểu được một số từ ngữ đơn giản. * Hạn chế Tuy nhiên, vẫn có giáo viên còn hạn chế về kiến thức, về kỹ năng sư phạm trong việc sử dụng các hình thức tổ chức, phương pháp dạy học, …Một số học sinh do hay nghỉ học nên chưa tiếp thu bài học một cách liền mạch dẫn đến khả năng đọc chưa tốt. 2.3 Mặt mạnh, mặt yếu * Mặt mạnh Học sinh thích đọc bài. Giáo viên biết khắc phục những khó khăn trong việc dạy tiếng Việt cho HSDTTS, nghiên cữu kĩ chương trình môn học. * Mặt yếu Một số em còn thụ động khi tiếp thu kiến thức, đọc còn chưa rõ ràng rụt rè khi được gọi đọc bài, khả năng ghi nhớ chưa cao. 2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Trong những năm gần đây nhờ sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Phòng GD&ĐT, sự quan tâm phối hợp của địa phương, sự chỉ đạo linh hoạt của Ban lãnh đạo nhà trường, sự nỗ lực của các anh chị em giáo viên và sự hợp tác của cha mẹ học sinh đã tạo nên nguồn động lực lớn thúc đẩy việc dạy và học ngày càng đi vào khuôn khổ, nề nếp đối với thầy và trò. Bên cạnh đó việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ ở một số giáo viên còn hạn chế, bởi: Một vài đồng chí giáo viên tuổi cao, một số giáo viên là người dân tộc thiểu số khả năng ứng dụng công nghệ thông tin hạn chế. Một số giáo viên chưa biết vận dụng các nguyên tắc dạy học môn Tiếng Việt trong thực hành giảng dạy. Việc chuẩn bị bài và lập kế hoạch bài dạy chưa cụ thể, vận dụng phương pháp dạy học chưa linh hoạt, chưa đảm bảo quy trình và đặc trưng bộ môn. 5 Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt Việc hướng dẫn học sinh sửa sai chưa kịp thời, chưa tỉ mỉ, chưa quan tâm đến việc học tập và sử dụng tiếng phổ thông cho các em ở tại gia đình và trong cộng đồng. Việc sử dụng đồ dùng, thiết bị trong quá trình dạy của thầy và học của trò chưa hiệu quả. Một số giáo viên chưa đầu tư về chuyên môn. Một số giáo viên chưa coi trọng việc đọc mẫu nên phát âm (đọc mẫu) chưa đúng với chuẩn. Một số giáo viên còn phát âm theo ngôn ngữ địa phương các vùng miền của mình nên rất khó khăn khi rèn đọc tiếng Việt cho học sinh. Một số giáo viên chưa chú ý đến việc đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học làm thế nào để các đối tượng học sinh nắm được kiến thức biết đọc biết viết. Nguyên nhân là do giáo viên phải dạy nhiều môn, một số giáo viên còn gặp khó khăn trong cuộc sống nên thời gian dành để nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp dạy học đối với học sinh còn hạn chế. Vì thế chưa tạo hứng thú lôi cuốn được sự tập trung chú ý nghe giảng của học sinh. Bên cạnh đó tiếng Việt lại là ngôn ngữ thứ hai của các em học sinh dân tộc thiểu số, đây là kiến thức mới mẻ đối với các em. 2.5 Phân tích đánh giá các yếu tô tác động Năm học 2013 – 2014 đến nay, tôi được phân công dạy lớp 1 và trực tiếp giảng dạy môn Tiếng Việt. Khả năng học tập của các em chưa đồng đều, cuối năm học có em đọc viết rất tốt nhưng vẫn có em chỉ biết đánh vần, có em chưa biết đọc. Tuy nhiên với các em học sinh lớp Một dân tộc thiểu số thì tiếng Việt là môn học mà các em gặp rất nhiều khó khăn. Cho nên, khi dạy môn Tiếng Việt nhất là trong thời gian đầu năm, các em rất lúng túng khi sử dụng đồ dùng học tập và tham gia đọc, viết bài. Thực tế cho ta thấy việc giúp học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số học tốt tiếng Việt là việc làm cần thiết. Rèn phát âm tiếng Việt là nhiệm vụ rất quan trọng đối với giáo viên Tiểu học. Do đó, vấn đề dạy rèn phát âm tiếng Việt hiện nay đang được quan tâm, chú trọng. Có nhiều chuyên đề, phương pháp đặt ra nhằm nâng cao chất lượng phát âm tiếng Việt, chất lượng đọc cho sinh lớp 1. Đối với học sinh dân tộc thiểu số, tiếng Việt không phải là ngôn ngữ duy nhất để các em tiếp thu kiến thức và nhận biết thế giới xung quanh, các em đến trường với một ngôn ngữ hoàn toàn khác ngôn ngữ thường sử dụng tiếng mẹ đẻ, bởi vậy tiếng mẹ đẻ ảnh hưởng nhiều đến quá trình học tiếng Việt của trẻ. Một số giáo viên chưa chú ý đến việc rèn phát âm cho học sinh, chưa thấy được tầm quan trọng của việc đọc đúng, đọc tốt có tác dụng cao trong quá trình dạy học và chưa hiểu hết tầm quan trọng của môn học Tiếng Việt trong hệ thống giáo dục quốc dân. Một số giáo viên thì đã thực hiện tuy nhiên việc thực hiện chưa đúng cách, chưa phù hợp với thực tế dẫn đến hiệu quả đạt được chưa cao. Đa số học sinh mặc dù đã được học qua trường mầm 6 Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt non nhưng chưa nắm được 29 chữ cái, chưa biết cách cầm bút, chưa nhận biết được dòng kẻ trên bảng con và vở viết. Một số em gia đình khó khăn cha mẹ đi làm xa không quan tâm nhắc nhở các em học tập. Một số em bố mẹ mất sớm phải ở với ông bà nên thiếu sự giúp đỡ, an ủi khi học tập. Một số em hay nghỉ học theo cha mẹ đi làm nên tiếp thu kiến thức không liền mạnh dẫn đến không đọc, viết được. Một số em do tuổi lớn, khó khăn về học khả năng tiếp thu bài hạn chế. Nhận thức được sự cần thiết của việc nghe, nói, đọc viết tiếng Việt đối với các em học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số, tôi đã tìm tòi đổi mới hình thức tổ chức, đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả học môn tiếng Việt đối với học sinh dân tộc thiểu số. Việc học tiếng Việt với học sinh dân tộc thiểu số đặc biệt là học sinh lớp 1 chủ yếu học qua các hoạt động ở trường. Ở nhà, các em ít được giao tiếp bằng tiếng Việt bởi lẽ vốn tiếng Việt của bố mẹ, anh, chị và những người sống xung quanh các em còn hạn chế. Chính vì vậy các em không được tiếp cận vốn tiếng Việt do người thân mang lại cho nên việc dạy học tiếng Việt đối với học sinh lớp 1 càng khó khăn đối với các thầy, cô giáo, những người tâm huyết với nghề dạy trẻ nhất là những người đang trực tiếp tham gia giảng dạy trong vùng dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó một số gia đình còn cho con em nghỉ học đi nương đi rẫy trong dịp mùa màng. Một số em ít được cha mẹ quan tâm nhắc nhở các em đi học, còn đổ lỗi và đẩy trách nhiệm cho giáo viên. Việc đi học không đều cũng ảnh hưởng đến việc học tập của các em. Lớp học có nhiều đối tượng khác nhau, việc phân chia kiến thức trong một tiết học còn nhiều khó khăn và hạn chế. Đặc biệt ở lớp tôi dạy với 100% là học sinh dân tộc thiểu số, hoàn cảnh gia đình nhiều em gặp không ít khó khăn do đó các em đi học còn thiếu thốn nhiều thứ cụ thể có em chưa có bộ quần áo đồng phục, có em đến lớp quên bút, quên chì, quên bảng con. Thậm chí có em còn không có cặp đựng sách mà chỉ đựng sách vở bằng chiếc túi ni lông nên việc mất đồ dùng học tập xảy ra thường xuyên,… Do ảnh hưởng của tiếng mẹ nên đa số các em tiếp thu bài chưa tốt, khả năng ghi nhớ chậm. Do đó việc dạy học tiếng Việt cho các em lại càng khó hơn. 3. Giải pháp, biện pháp 3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Việc dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số là việc làm cấp bách nhằm giúp các em phát triển các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Giúp học sinh củng cố, hệ thống hoá kiến thức được học, mở rộng vốn từ, khắc sâu kiến thức, nắm chắc âm vần vừa học, biết vận dụng vào từng trường hợp cụ thể. Từ đó nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số, biết sử dụng tiếng phổ thông vào trong cuộc sống hằng ngày, giúp các em hòa nhập với cộng đồng. Đó cũng là giúp các em có kĩ năng giao tiếp tốt trong cuộc sống hằng ngày. 7 Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt 3.2 Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp, biện pháp Biện pháp thứ nhất. Vận dụng linh hoạt phương pháp dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh * Phương pháp dạy học theo nhóm đối tượng Thực hiện công văn 9832/ BGD&ĐT - GDTH ngày 1 tháng 9 năm 2006, CV 9890/ BGD&ĐT – GDTH ngày 17 tháng 9 năm 2007 về việc hướng dẫn nội dung, phương pháp giáo dục cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn, CV 5842/BGD&ĐT – VP ngày 01 tháng 09 năm 2011 hướng dẫn điều chính nội dung dạy học, thông tư 30/ TT – BGD&ĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 hướng dẫn đánh giá xếp loại học sinh. Được lãnh đạo nhà trường giao quyền chủ động cho giáo viên nên ngay từ đầu năm học, sau khi nhận lớp được một tuần, tôi tiến hành kiểm tra khảo sát, lập kế hoạch dạy học, xin ý kiến chỉ đạo của tổ chuyện môn và nhà trường và phân loại học sinh trong lớp thành những nhóm đối tượng như sau: Nhóm 1: Gồm những học sinh khó khăn ( khó khăn về đọc viết, khó khăn về hoàn cảnh gia đính) Nhóm 2: Gồm những học sinh đạt chuẩn Nhóm 3: Gồm những học sinh năng khiếu Căn cứ vào các đối tượng học sinh, trong các giờ học, tôi luôn luôn gần gũi, thân thiện, quan tâm tất cả HS nắm bắt đặc điểm tâm sinh lý từng em. Kiểm tra sĩ số hàng ngày và giành thời gian giúp đỡ HS khó khăn. Các giờ ôn của buổi chiều tôi yêu cầu các em thực hiện nhiệm vụ với 4 mức khác nhau trong cùng một giờ học. Đối với nhóm 1, trong mỗi tiết học tôi hướng dẫn thật kĩ rồi phát âm mẫu sau đó gọi các em đọc nhiều lần hơn các em ở nhóm 3. Khi viết tôi chỉ yêu cầu các em viết 1 dòng. Các dạng bài đọc và viết về vần, các bài luyện tập tổng đều có thể vận dụng phương pháp này. Ví dụ; Khi dạy bài 7 âm / ê /, / v / trang 16 Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 Tập 1: Tôi phát âm mẫu, hướng dẫn cách mở miệng để phát âm, tôi cho các em ở nhóm 3 phát âm lại rồi gọi các em ở nhóm 1 phát âm, lúc này tôi quan sát xem phát hiện những khó khăn mà các em thường gặp khi phát âm để uốn nắn kịp thời. tôi cho các em đó phát âm lại 2 đến 3 lần rồi mới chuyển sang em khác. Trước khi chuyển sang phần viết, tôi lại cho các em ở nhóm 1 phát âm lại sau đó yêu cầu viết chữ ghi âm ê, v mỗi chữ chỉ một nửa dòng, trong khi đó các em ở nhóm 2 viết thêm chữ ứng dụng mỗi chữ một nửa dòng còn các em ở nhóm 3 viết cả chữ ghi âm lẫn chữa ứng dụng nhiều hơn mỗi loại như trên từ 1 dòng. Sau khi học xong phần âm, tôi hướng dẫn các em ôn tập phát hiện xem âm nào còn nhiều em chưa phát âm được đưa ra biện pháp giúp đỡ trong các tiết học sau. Hoặc dạy bài 29 vần /ia/ trang 60 Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 Tập 1, lúc này chuyển sang phần vần, tôi hướng thật 8 Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt kĩ cách ghép âm thành vần rồi yêu cầu các em nhóm 1 đọc đi đọc lại nhiều lần và viết vần mỗi loại một nửa dòng. Các em nhóm 2 viết thêm từ khóa, còn các em nhóm 3 viết vần, từ khóa mỗi loại 2 dòng. Trong lúc các nhóm thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu thì tôi theo dõi quan sát, nhắc nhở và giúp đỡ khi các em gặp khó khăn mà nhát là đối với các em chưa biết cầm bút, tôi hướng dẫn tỉ mỉ cách cầm bút, điểm đặt bút và bắt tay các em đưa bút viết. Khi dạy Tập đọc bài Hoa ngọc lan, trang 64 sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập 2. Tôi đọc mẫu rồi hướng dẫn các em đọc từ khó. Nếu em nào chưa đọc được thì gợi ý phân tích tiếng sau đó đánh vần, đọc trơn từ rồi giúp các em dùng bút chì chia câu. Các em khó khăn chỉ cần đọc một câu. Còn các em khác đọc đoạn, đọc cả bài. Nắm chắc nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy môn học, vận dụng phương pháp dạy học linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với học sinh lớp mình dạy. Giờ học sinh động hấp dẫn, diễn ra thoải mái hơn khi giáo viên biết tổ chức các hoạt động dạy - học phong phú. Vi dụ trong một giờ học vần, tôi đã tổ chức cho các em hoạt động cá nhân khi ghép, đọc, viết; hoạt động nhóm khi đọc, … , tổ chức xen lẫn các trò chơi học tập nhằm khắc sâu kiến thức. Như vậy em nào cũng được hoạt động, không có em nào ngồi chơi. Thực hiện theo tài liệu hướng dẫn tăng thời lượng dạy môn Tiếng Việt lớp 1 cho học sinh dân thiểu số. Mỗi bài Học vần dạy tăng từ 2 tiết thành 3 tiết, mỗi bài Tập đọc dạy tăng từ 2 tiết thành 3 tiết. Với thời lượng như vậy nên trong mỗi tiết dạy, tôi có thời gian giúp các em luyện tập nhiều hơn. Vì thế, trong mỗi tiết dạy, tôi theo dõi phát hiện ngay những chỗ các em yếu kém để luyện tập ngay. Tôi đưa ra các câu hỏi ngắn gọn phù hợp đảm bảo tất cả học sinh hiểu và làm theo được. Nếu học sinh chưa biết đọc âm vần thì tôi chưa chuyển sang dạy đọc từ ngữ ứng dụng, đọc câu ứng dụng hoặc luyện nói. Trong quá trình dạy, tôi luôn luôn theo dõi khen ngợi và có biện pháp hỗ trợ các em ngay. Có như vậy các em mới nhận thấy mình đã làm được việc gì và việc gì chua làm được từ đó các em cố gắng hơn. Ví dụ: dạy bài 58 vần /inh/, /ênh/ trang 118 Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 Tập 1, sau khi đã cho các em nhận biết vần /inh/, tôi yêu cầu tất cả các em trong lớp đều đọc vần /inh/, theo dõi phát hiện những em chưa đọc được, lúc này tôi tiếp tục cho các em phân tích lại vần, tiếng rồi cho các em đọc đi đọc lại nhiều lần đến khi các em đã đọc đúng thì mới chuyển sang dạy vần /ênh/, từ ngữ ứng dụng,… Trước khi vào học tiết học sau phải kiểm tra các em học sinh khó khăn hoặc kiểm tra xen lẫn trong tiết học. Khi dạy phần luyện tập tổng hợp, đây là kết quả của việc dạy phần âm và vần. Nếu các em phát âm và đọc đúng các phụ âm, nguyên âm và vần thì phần luyện tập tổng hợp sẽ dễ dàng hơn. Nhưng không phải em nào cũng đọc và phát âm tốt. Vì vậy, tôi lựa chọn phương pháp hình thức dạy học sao cho tất cả các em đều đọc được. 9 Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt Ví dụ dạy bài Trường em: Việc đầu tiên tôi đọc mẫu thật chuẩn, sau đó hướng dẫn đọc tiếng, từ khó. Trường hợp em nào chưa đọc được, tôi lại dùng phương pháp phân tích tổng hợp để các em nhớ lại phụ âm, nguyên âm, vần từ đó ghép thành tiếng và đọc. Khi đã đọc đứng các tiếng từ khó, tôi tiếp tục hướng dẫn xác định câu rồi tổ chức luyện đọc cá nhân, đọc nhóm, đọc đồng thanh. Em khó khăn đọc theo em năng khiếu, dần dần đọc đúng và tốt hơn. * Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan Như chúng ta biết học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp Một nói riêng và nhất là đối với học sinh dân tộc thiểu số khả năng tư duy trừu tượng còn hạn chế, các em hay bắt chước và làm theo. Đa số các em tiếp thu kiến thức phải dựa trên những mô hình vật thật, tranh ảnh, do vậy việc chuẩn bị và sử dụng đồ dùng dạy học giúp tôi chuyển tải thông tin và truyền thụ kiến thức giáo dục tư cách, rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh. Nó có tác dụng điều khiển hoạt động của học sinh từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, kích thích hứng thú cho học sinh học tập. Trong tiết học mà không sử dụng đồ dùng dạy học thì tiết học đó diễn ra rất đơn điệu, các em không hứng thú, không tập trung, kết quả học tập không cao. Vì thế đồ dùng dạy học đóng vai trò rất lớn quyết định hiệu quả trong mỗi giờ học, môn học nhất là đối với các em học sinh khó khăn. Ví dụ: Khi dạy bài 55 vần /eng/, / iêng/ trang 112 Sách giáo khoa Tiếng Việt 1, Tập 1: Để giúp học sinh nhận diện được vần và từ khóa một cách chắc chắn, tôi yêu cầu các em tìm trong bộ chữ ghép vần eng. Qua việc thực hành trên đồ dùng các em nhận ra được ngay vần eng gồm hai âm /e/và /ng/, âm /e/ đứng trước, âm /ng/ đứng sau rồi đánh vần e – ngờ - eng. Sau đó nêu câu hỏi gợi mở giúp các em tìm thêm phụ âm đầu và dấu thanh tiếp tục ghép tiếng xẻng rồi phân tích tiếng. Trên cơ sở thực tế được thao tác, các em nắm chắc cấu tạo tiếng từ đó đánh vần đúng hơn. Sau khi đã hình thành được tiếng khóa, lúc này tôi giới thiệu chiếc lưỡi xẻng thật, các em được quan sát nhận xét nêu ra từ khóa. Sẽ có nhiều lời nhận xét đưa ra, lúc này tôi giải thích để các em hiểu rõ lưỡi xẻng là vật dụng trong gia đình làm bằng sắt dùng để xúc, đào. Để khắc sâu kiến thức, tôi tổ chức cho các em tìm tiếng, từ có vần /eng/ bằng cách phát cho mỗi nhóm một cái hộp trong đó có các từ ngữ chứa vần vừa học và các từ ngữ đã học ở bài trước rồi gắn tranh lên bảng, yêu cầu các em nhìn tranh gắn được từ ngữ tương ứng dưới mỗi tranh. Được thực hành, được quan sát từ những hình ảnh như thế các em sẽ dễ nhớ và nhớ chính xác hơn các vần và các từ được học bởi các em có sự liên tưởng từ vật thật đến vần của bài học. Như vậy dùng tranh, ảnh, vật thật trong các giờ Tiếng Việt giúp học sinh nhớ vần và từ tốt hơn. Tranh, ảnh, vật thật không chỉ đóng vai trò trong quá trình hình thành kiến thức mới mà nó còn có vai trò rất lớn trong phần luyện nói ở các tiết Tập đọc môn Tiếng Việt lớp 1, tập 2. 10 Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt Ví dụ: Bài Quà của bố – Trang 86 Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 tập 2. Sau phần luyện đọc, tôi tiến hành cho các em nói câu chứa tiếng có vần /oan/, /oat/. Nếu cứ dạy chay không có tranh thì đối với các em sẽ rất khó nói được một câu đầy đủ. Tôi lần lượt treo tranh chụp cảnh các bạn đang quay quần bên mâm hoa quả bánh kẹo cùng một ngọn đuốc. Sau khi quan sát, với sự gợi ý của tôi, các em khó khăn cũng nói được câu hoàn chỉnh Chúng em vui liên hoan và phát hiện tiếng hoan chứa vần oan. Còn các em năng khiếu không những nói được câu theo tranh mà còn nói câu khác cũng có tiếng chứa vần /oan/ mà không cần dựa vào tranh. Như vậy rõ ràng trong cùng một giờ học, tôi đã vận dụng khéo léo tranh, ảnh nên vừa phát huy được tính sáng tạo chủ động cho học sinh năng khiếu lại vừa tạo sự hứng thú cố gắng vươn lên cho học sinh học chậm, khó khăn. Thường xuyên kiểm tra việc học tập của học sinh. Hệ thống kiến thức cơ bản cho học sinh theo từng chương, từng chủ đề. Học sinh quên chỗ nào, không rõ chỗ nào tôi bổ sung kịp thời chỗ đó. Cho học sinh thực hành nhiều lần, nhiều bài để khắc sâu kiến thức. Đối với những bài ôn tập, hệ thống kiến thức cơ bản, tôi đã sử dụng bảng phụ ghi những nội dung cần ghi nhớ. Ví dụ : Tôi ghi tất cả các âm, vần đã học vào bảng phụ treo cạnh bảng. Yêu cầu học sinh tự nhẩm đọc và đọc đồng thanh cả lớp trước khi vào bài mới. Những lúc quên, các em có thể nhìn vào bảng phụ để nhớ lại. * Phương pháp trò chơi Như chúng ta đã biết học sinh lớp Một rất hiếu động hay bắt chước và học theo. Trò chơi học tập là một loại hoạt động không thể thiếu được trong mọi lứa tuổi. Trò chơi giúp các em phát triển cả về năng khiếu lẫn tư duy. Trò chơi học tập là hình thức học tập thông qua trò chơi. ''Học mà chơi, chơi mà học '' tạo ra sự hứng thú và niềm tin trong học tập, duy trì được khả năng chú ý của các em trong tiết học. Trò chơi học tập không chỉ nhằm giải trí mà còn góp phần củng cố tri thức, kĩ năng học tập cho học sinh. Việc sử dụng trò chơi học tập trong quá trình dạy học nhằm làm cho việc tiếp thu tri thức, rèn kĩ năng bớt đi khó khăn, có thêm sự sinh động, hấp dẫn, phát huy tính tự giác, tích cực, rèn cho học sinh tính mạnh dạn, tính thi đua, tính kỉ luật... do đó hiệu quả học tập của các em cao hơn. Vì vậy khi tổ chức trò chơi học tập, tôi đã soạn thảo nội dung trò chơi gắn liền với mục tiêu của bài học, luật chơi đưa ra rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện, điều kiện và phương tiện tổ chức trò chơi phong phú, hấp dẫn, sử dụng trò chơi đúng lúc, đúng chỗ. Có như vậy mới kích thích sự thi đua giành phần thắng cho các em bên tham gia. Ví dụ : Dạy bài 64 /im/, /um/ trang 130 sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1, tập 1. Tôi tổ chức cho các em trò chơi Tìm chữ bí ẩn. Đầu tiên, tôi giới thiệu tên trò chơi, hướng dẫn cách chơi, phổ biến luật chơi, chia nhóm rồi phát cho mỗi nhóm một hộp có đựng các tiếng, từ chứa vần /im/, /um/, quy định thời gian chơi và tiến 11 Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt hành cho các em chơi. Ngoài những tiếng từ có sẵn trong hộp, tôi khuyến khích các em học sinh năng khiếu tự tìm ghép tiếng, từ khác. Trong thời gian học sinh chơi, tôi theo dõi nhắc nhở các em. Sau khi hết thời gian chơi, tôi tiến hành đánh giá kết quả chơi. Tôi động viên, khen ngợi tinh thần khi tham gia trò chơi của các em, rồi cho các em đọc lại tiếng, từ vừa tìm được như vậy các em sẽ nắm chắc kiến thức vừa học. Hay khi dạy bài 69 /ăt/, /ât/ trang 140 sách giáo Tiếng Việt lớp 1 tập 1, tôi tổ chức cho các em chơi trò chơi nhìn tranh, vật thật đoán chữ. Tôi lần lượt chỉ vào đôi mắt mình, bắt tay một em học sinh và đưa ra chai mật ong sau mỗi lần như vậy gọi các em lên bảng gắn từ tương ứng. Qua trò chơi này giúp các em nhớ vần mới, phát triển tư duy sáng tạo tìm nhanh các tiếng có vần mới, đọc và viết các tiếng, từ đó . Hoặc khi dạy bài 103: Ôn tập, tôi đã tổ chức cho các em trò chơi hái hoa dân chủ. Tôi chuẩn bị một số bông hoa bằng giấy trên mỗi bông hoa ghi một từ có âm hoặc vần mới học ở mặt giấy phía trong. Các em lần lượt lên hái rồi đọc từ ghi ở bông hoa. Đối với các em năng khiếu sau khi đọc xong học sinh phải nói một cụm từ hoặc một câu trong đó có các từ đã học. Thông qua trò chơi giúp các em luyện nhẩm đánh vần nhanh để đọc trơn cả tiếng, cả từ, dùng từ đã học để tạo từ ngữ hoặc câu ngắn. Với những trò chơi mà tôi đã tổ chức trong các giờ học đã tạo cho các em sự chú ý, tinh thi đua, khắc sâu kiến thức. Thông qua việc tổ chức các trò chơi này, tôi nhận thấy để trò chơi có hiệu quả, ngoài việc chuẩn bị trò chơi thì việc lựa chọn sao cho phù hợp với nội dung bài cũng là điều quan trọng. * Phương pháp làm mẫu Làm mẫu cũng là việc làm quan trong khi dạy tiếng Việt đối với học sinh dân tộc thiểu số. Nếu thầy phát âm chuẩn thì trò cũng phát âm chuẩn. Bởi vậy trong mỗi giờ dạy tiếng Việt, tôi đều chú ý đến khâu phát âm mẫu, khâu rèn kỹ năng đọc (kỹ năng phát âm) cho học sinh. Chú ý lắng nghe, quan sát và kịp thời hướng dẫn sửa sai cho các em, vì đọc mẫu và rèn kỹ năng đọc không tốt dẫn đến học sinh bắt chước đọc sai, đọc ngọng lâu dần thành quen rất khó sửa. Học sinh các dân tộc khác nhau thì cách phát âm cũng khác nhau. Ví dụ học sinh dân tộc Ê- đê khi phát âm các âm lưỡi đều uốn cong và bật mạnh dẫn đến các âm phát ra gần như đều có thêm dấu nặng. Vì vậy khi dạy phát âm, tôi chú ý làm mẫu để học sinh quan sát được các cơ quan phát âm như môi, răng, lưỡi... Ví dụ khi dạy bài 13: /n/, /m/ trang 28 sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập 1, sau khi viết âm /n/ lên bảng tôi phát âm mẫu và hướng dẫn cách phát âm rồi gọi từng em phát âm và sửa sai ngay. Tôi chú ý rèn học sinh bắt đầu từ phần âm tiếng Việt nhất là các phụ âm tiếng Việt, rèn kỹ việc phát âm khi học ở phần âm như sau: 12 Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt Đối với các âm học sinh phát âm sai nhiều như âm: b/v, p/ph, t/th ch/ tr...Thì tôi đã phân loại đưa về nhóm âm có đặc điểm phát âm giống nhau, sau đó mô tả và dùng các bộ phận cấu âm để phát âm mẫu một cách tỉ mỉ. Ví dụ phụ âm b là phụ âm tắc hơi bị cản lại sau thoát ra đường miệng vào mũi như phụ âm v lại là phụ âm hữu thanh dây thanh rung hay (phụ âm p là phụ âm sát hơi đi qua kẽ hở miệng, nhưng phụ âm ph lại là phụ âm tắc hơi bị cản lại sau thoát ra đường miệng vào mũi, dây thanh rung) hoặc (phụ âm t thì luồng hơi ra đằng mũi còn phụ âm th thì luồng hơi sẽ ra theo miệng), học sinh quan sát tôi phát âm và thực hành theo. Trong khi học sinh phát âm, tôi quan sát phát hiện kết hợp sửa sai kịp thời. Phải luyện phát âm thật kỹ nhiều lần, đúng mới thôi. Chú ý hướng dẫn các em cách lấy hơi, nhấn giọng. Đối với các vần học sinh hay phát âm sai như vần: ui/iu, eo/oe, ưu/ươu, eng/anh/em, ua/ươ, êch/êt, it/uyt, ăm/ ăp,…thì tôi cho học sinh phân tích kỹ cấu tạo, đánh vần, đọc trơn thành thạo từng vần rồi mới so sánh sự giống và khác nhau giữa các vần đã học, so sánh rồi rút ra cách đọc. Điểm mấu chốt ta có thể cho học sinh dùng thẻ để tạo từ, dùng đồ dùng trực quan để giải nghĩa từ kết hợp với sự hỗ trợ có hiệu quả của tiếng mẹ đẻ. Học sinh nắm vững cấu tạo vần, tiếng, hiểu nghĩa từ kết hợp quan sát khẩu hình, luyện dần sẽ đọc đúng. Đa số các em đọc còn nhầm lẫn các dấu thanh, tiếng có thanh thì đọc không thanh, tiếng không có dấu thanh thì đọc có dấu thanh. Ví dụ: bình tĩnh/ bình tính; nương rẫy / nương rấy, nhà trường/ nhà trương, ý muốn/ ý muộn …Thì tôi cho các em nắm vững cấu tạo, cách phát âm từng dấu, dùng thẻ tạo từ, nắm nghĩa của từ qua đồ dùng trực quan hoặc bằng hành động trực tiếp để từ đó phát âm đúng và tự sửa sai các dấu thanh. Trong khi học sinh đọc, nói (phát âm) tiếng Việt tôi theo dõi quan sát từng em, phát hiện chỗ các em đọc sai để kịp thời sửa ngay và hướng dẫn các em đọc theo tốc độ quy định, không quá chậm hoặc quá nhanh, đọc, nói đủ to cho tất cả các bạn trong lớp nghe được, rèn tư thế đứng tự tin, thỏa mái khi đọc, nói tiếng Việt. Đối với những em đọc sai chính âm tiếng Việt, tôi đã rèn luyện để các em đọc đúng, đọc đủ, không đọc thừa, đọc sót âm, tiếng, từ,…Đọc với tốc độ vừa phải, giọng đọc phải phù hợp với yêu cầu và nội dung từng bài. Bên cạnh đó vẫn có những em phát âm bị khuyết âm trong tiếng tiếng Việt, còn lẫn lộn giữa vần ưng/ ưn, uông/ uôn, iêng/iên. Ví dụ khi dạy đọc từ ngữ ứng dụng bài 75: ang, anh có em đọc "bánh chưng" thành "bánh chưn". Nguyên nhân chính là các em chưa biết vị trí các cơ quan phát âm và phối hợp giữa các cơ quan đó. Vì thế tôi yêu cầu các em quan sát kĩ tôi phát âm mẫu rồi gọi các em phát âm lại. Nếu phát âm đúng "bánh chưng" hơi sẽ bị chặn lại ở một vị trí trong khoang miệng, Khi các em làm sai hay chưa làm được, tôi không la mắng hoặc phê bình các em, mà nhẹ nhàng chỉ bảo cho các em. Trong giờ học, tôi đi xuống bên học sinh xem em nào đã làm được còn em nào làm chưa làm được để kịp thời giúp đỡ 13 Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt các em, chỉ cụ thể cho các em. Nhất là với các em khó khăn về đọc và viết, tôi đọc lại cho các em nghe rồi gợi ý để các em phân tích nhớ lại cấu tạo của tiếng hay bắt tay các em viết cho đúng. Hướng dẫn chi tiết cho các em tư thế ngồi học đúng, cách cầm sách khi đọc, cách cầm bút viết, cách trình bày bài vở, cách học tập ở lớp, ở nhà. Tất cả cần làm mẫu và yêu cầu học sinh làm theo. Dần dần các em có thói quen, có kĩ năng kĩ xảo trong việc học tập. Từ đó tạo ra không khí thoải mái, tự tin, mạnh dạn hơn khi tham gia hoạt động học. Qua đó, tôi nắm được một phần nào những sở thích, những niềm vui hoặc những khó khăn của các em trong học tập hay trong sinh hoạt hàng ngày. Biện pháp thứ hai: Vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học Việc vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học sẽ có tác dụng rất lớn đến hiệu quả giảng dạy. Học sinh được luyện tập kĩ năng đọc, viết theo nhiều hình thức, chống học vẹt. Giúp các em ghi nhớ bằng nhiều giác quan cách đọc, cách viết mà không nhàm chán và ghi nhớ bài học tốt hơn. Là cơ hội để các em đều được luyện đọc, luyện viết, luyện nói, được làm việc tập thể theo nhóm, học cách hợp tác với bạn bè trong học tập. Nó tạo môi trường thuận lợi cho việc giao tiếp, cho việc rèn luyện bốn kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết). Khi dạy một tiết học vần, tôi đã cho các em đọc thành tiếng trên bảng lớp, trong sách giáo khoa bằng nhiều hình thức đọc nhẩm, đọc thành tiếng . Thực hiện song song với việc luyện đọc thì luyện viết cũng không kém phần quan trọng. Các em được luyện viết vào bảng con, viết trên bảng lớp, viết trong vở tập viết. Sau khi đọc, viết thành thạo, tôi tổ chức cho các em tập nói câu, nói theo chủ đề. Khi tổ chức các hình thức học tập, tôi đã kết hợp sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, tận dụng thế mạnh của mỗi hình thức học tập trong quá trình dạy học như học cá nhân - theo nhóm - cả lớp thích hợp với các nội dung học tập. Trong quá trình thực hiện, tôi luôn luôn gần gũi, kịp thời khen ngợi, ghi nhận những tiến bộ của học sinh, động viên các em tiếp tục phát huy, tạo sự tự tin trong học tập cho các em. Đối với các em năng khiếu tôi khuyến khích, gợi mở bằng những câu hỏi khái quát hơn. Với những em học sinh khó khăn tôi đưa ra câu hỏi nhỏ sát với nội dung cần trả lời. Ví dụ khi dạy Tập đọc bài Tặng cháu trang 49 sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập 2. Tôi hỏi + Bác Hồ tặng vở cho ai? + Bác mong các cháu làm điều gì? + Em đã làm gì để tỏ lòng kính yêu Bác? Thông qua các câu hỏi, các em hiểu nội dung bài đọc, biết liên hệ thực tế và rèn kĩ năng sống. 14 Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt Biện pháp thứ ba: Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà Đến trường các em được vui chơi và khám phá chiếm lĩnh kiến thức. Thế còn ở nhà các em làm gì để kiến thức luôn được khắc sâu. Việc ôn bài cũ, chuẩn bị bài mới tại nhà cũng vô cùng quan trọng. Đa số các em đi học về là vứt cặp sách vào một chỗ rồi đi chơi. Góc học tập chưa có, chưa biết sắp xếp thời gian học tập ở nhà. Bên cạnh đó một số cha mẹ lại chưa biết chữ, nhận thức còn hạn chế, họ cho rằng việc dạy học con em họ là của nhà trường nên không quan tâm nhắc nhở các em học bài ở nhà. Điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của các em. Làm thế nào giúp các em có thói quen tự học ở nhà? Tôi đã dành thời gian đến gặp gỡ cha mẹ các em trao đổi nhờ sự hợp tác của họ để hướng dẫn cách học cho các em. Gia đình tạo điều kiện cho con em mình có góc học tập phù hợp sao cho sáng sủa và thoáng mát về ban ngày, đầy đủ ánh sáng về ban đêm. Sách vở, đồ dùng học tập sắp xếp ngăn nắp, tiện lợi, phía trên góc học tập dán thời khóa biểu. Mặt khác đa số các em chưa ý thức được việc nào nên làm và làm vào thời gian nào. Vậy làm thế nào để hướng các em có thói quen sinh hoạt phù hợp, kĩ năng sống từng bước được phát triển đảm bảo kết quả học tập được nâng cao . Tôi hướng dẫn các em lập thời gian biểu và yêu cầu cha mẹ kí xác nhận. Thời gian biểu sẽ là cẩm nang nhắc nhở các em thực hiện tốt các công việc trong ngày, dần dần các em có thói quen trong sinh hoạt, không mải chơi nữa mà chú tâm đến việc học tập hơn. Nhờ đó mà cha mẹ các em cũng yên tâm hơn khi mình vắng nhà. THỜI GIAN BIỂU Thời gian Công việc Buổi sáng Ngủ dậy, đánh răng, 5 giờ 30 phút rửa mặt, tập thể dục, - 6 giờ 10 phút vệ sinh cá nhân 6 giờ 10 phút Ăn sáng 6 giờ 30 phút 6 giờ 40 phút Đến trường học tập - 9 giờ Đi học về, nghỉ ngơi 10 giờ 10 phút giúp đỡ cha mẹ quét đến 11 giờ nhà, nhặt rau. 11giờ đến 11 giờ 30 phút 11 giờ 30 phút đến 1 giờ chiều Ăn cơm trưa Nghỉ trưa Thời gian Công việc Buổi chiều 1 giờ chiều 1 giờ 15 phút 4 giờ 30 phút 4 giờ 30 phút5 giờ Thức dậy. Học ở trường Đi chơi thể thao 5 giờ - 7 giờ Tắm rửa, ăn tối. 7 giờ - 8 giờ Ôn lại bài cũ, chuẩn bị đồ dùng, sách vở bài mới cho hôm sau 8 giờ - 9 giờ Xem ti vi rồi đi ngủ. 15 Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt Thời gian biểu được dán trên góc học tập ở nhà bên cạnh thời khóa biểu để các em tiện theo dõi. Căn cứ vào thời gian biểu, cha mẹ các em theo dõi những việc các em làm ở nhà, còn tôi theo dõi những việc làm ở trường. Đây chính là cơ sở để tôi hoàn thành phiếu đánh giá của cha mẹ học sinh. Ngoài ra còn tiện lợi cho tôi trong việc lên kế hoạch đi thăm hỏi liên lạc với cha mẹ học sinh. Thông qua những lần thăm hỏi đó tôi trao đổi với cha mẹ các em được chi tiết cụ thể về quá trình rèn luyện học tập của từng em và tiện lợi cho việc kiểm tra, hướng dẫn các em tự học ở nhà. Việc kiểm tra các em học bài ở nhà được tôi thực hiện 1 lần/ tháng và duy trì thường xuyên. Tôi trực tiếp kiểm tra và hướng dẫn tỉ mỉ phương pháp học tập cho từng học sinh của lớp. Dần dần việc học bài ở nhà của học sinh đi vào nề nếp. Lúc đó việc giảng dạy của tôi nhẹ nhàng hơn vì các em đã chuẩn bị bài tốt khi đến lớp được cô hướng dẫn giảng giải thêm các em hiểu bài ngay. Nếu phát hiện thấy em nào lơ là, tôi tăng cường kiểm tra ngay. Được quan tâm chỉ bảo tận tình việc học ở nhà của con em mình nên cha mẹ các em cũng nhiệt tình phối hợp cùng tôi nhắc nhở, kiểm tra và tạo điều kiện cho các em học tập ở nhà. Sự tiến bộ của học sinh “ khó khăn” được tôi thường xuyên thông báo cho gia đình biết qua điện thoại. Vì vậy, cha mẹ các em rất vui và càng quan tâm đến việc học của các em. 3.3. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp Để thực hiện các giải pháp, biện pháp trên đòi hỏi giáo viên phải chủ động, sáng tạo, lập kế hoạch phù hợp cho từng công việc, đặc biệt là đối với từng đối tượng học sinh trong lớp. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học phải đầy đủ. Giáo viên phải xây dựng kế hoạch dạy học cụ thể phù hợp với lớp mình chủ nhiệm. Phải được sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường, sự phối hợp giữa các giáo viên dạy luân phiên, dạy bộ môn và sự giúp đỡ của bạn bè đồng nghiệp. 3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Các giải pháp, biện pháp trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, giải pháp này thúc đẩy sự phát triển của giải pháp kia và ngược lại. Chúng là cầu nối tạo nên thành công trong công tác giảng dạy nhằm giúp các em học tốt môn Tiếng Việt. Nếu như giáo viên sử dụng linh hoạt các phương pháp hình thức dạy học mà không sử dụng đồ dùng dạy học, không hướng dẫn học sinh học ở nhà thì hiệu quả giảng dạy, học tập sẽ không cao. Có sử dụng đồ dùng dạy học mà không biết tổ chức tốt các hoạt động học tập, không kiểm tra đánh giá, khen thưởng kịp thời cũng không tạo hứng thú học tập cho các em. Chính vì thế các biện pháp luôn hỗ trợ cho nhau. 3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu Nhờ các biện pháp trên mà chất lượng đọc, viết của các em nâng lên. Cụ thể qua các lần đánh giá, kết quả cụ thể như sau: 16 Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt Thời gian Giỏi TSHS Tỉ lệ SL SL Năm học 2013 2014 Cuối học kì I - Cả năm Khá Tỉ lệ Cuối học kì I - Cả năm SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ 2 10,0 3 15,0 12 60,0 4 20,0 3 15,0 4 20,0 12 60,0 1 5,0 20 Hoàn thành Năm học 2014 2015 Yếu T. Bình 27 SL 24 27 Tỉ lệ % 88,9 100% Chưa hoàn thành SL 3 0 Tỉ lệ % 11,1 0 - Giá trị khoa học: Với mục tiêu phát hiện những yếu kém trong việc học tập, kĩ năng đọc, viết cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số, khắc phục những khó khăn trong giảng dạy, từng bước nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số. Sau khi nghiên cứu và thực hiện các giải pháp trên cho thấy chất lượng đọc, viết của các em từng bước nâng lên. Khả năng sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt và kĩ năng sống trong giao tiếp tốt hơn. 4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu Mặc dù với 100% học sinh là người dân tộc thiểu số, khả năng nhận thức của các em còn gặp nhiều khó khăn nhưng tôi đã mạnh dạn đổi mới và vận dụng những kinh nghiệm giảng dạy nên lớp tôi chủ nhiệm vẫn đạt được một số kết quả khả quan. - Kết quả tham gia các hội thi Thi “Đố vui để học” cấp trường đạt giải nhất. Thi chữ viết đẹp cấp trường đạt 8/8 em dự thi trong đó 1 giải nhất, 1 giải ba Thi chữ viết đẹp cấp huyện đạt 3/3 em dự thi. Kết quả cuối năm của từng năm học nâng cao lên, số em hoàn thành chương trình lớp học của năm sau cao hơn năm trước. Tỉ lệ học sinh được Hiệu trưởng tặng giấy khen cũng tăng dần. Năm học nào lớp cũng xếp loại xuất sắc được Hiệu trưởng nhà trường tặng giấy khen. - Giá trị khoa học mang lại khi thực hiện đề tài: Đề tài được áp dụng có hiệu quả trong trường cũng như đối với những trường có học sinh dân tộc thiểu số. Giờ học sôi nổi, khả năng đọc, viết được nâng lên, học sinh đọc đúng, tích cực chủ động, hứng thú học tập, chất lượng dạy học nâng cao. Phát huy được tính năng 17 Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt động sáng tạo của giáo viên. Rõ ràng qua cách làm này, tôi thấy kết quả giáo dục của học sinh ngày càng tiến bộ rõ rệt. Tạo điều kiện để học sinh phát huy tối đa những khả năng vốn có của mình trong học tập cũng như trong giao tiếp. III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Nhiệm vụ và mục tiêu đào tạo trong trường Tiểu học là tạo ra những con người toàn diện làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại có tư duy sáng tạo biết áp dụng vào thực tiễn để học tập, lao động. Để nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số không phải là việc làm một sớm, một chiều mà là cả một quá trình rèn luyện gian nan, bền bỉ, một mình ngành Giáo dục và Đào tạo không thể làm được mà cần phải có sự tham gia tích cực của cộng đồng phối hợp với các thầy, cô giáo trong việc vận động học sinh ra lớp và giáo dục học sinh; đặc biệt là sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo của các cấp chính quyền địa phương trong việc chỉ đạo, quan tâm xây dựng cơ sở vật chất, hỗ trợ sách, vở, đồ dùng học tập,... cho học sinh dân tộc. Dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số là một vấn đề lớn và khó, là việc làm thường xuyên và lâu dài. Yêu cầu người giáo viên phải có lòng yêu nghề mến trẻ, tâm huyết với nghề, luôn sự tìm tòi đổi mới phương pháp hình thức giảng dạy, rút kinh nghiệm từ thực tiễn giảng dạy, lập kế hoạch phù hợp. Biết lắng nghe và thu nhận thông tin phản hồi từ PHHS của lớp trong giảng dạy. Giữ mối liên hệ tốt giữa nhà trường – gia đình – xã hội. Phối kết hợp với Tổng phụ trách đội tổ chức các trò chơi dân gian để nâng cao vốn Tiếng Việt cho các em. 2. Kiến nghị Với nhà trường: Cần lựa chọn giáo viên dạy lớp 1. Cần khen thưởng kịp thời những giáo viên dạy lớp 1 có chất lượng cao. Trang bị, tu bổ đồ dùng dạy học, hỗ trợ nguồn kinh phí cho giáo viên làm thêm đồ dùng dạy học trong các tiết dạy. Với địa phương: Quan tâm, làm tốt công tác khuyến học khuyến tài ở địa phương, phối hợp chặt chẽ với nhà trường để vận động các em có nguy cơ bỏ học đi học chuyên cần hơn. Với cha mẹ học sinh: Cần dành thời gian giúp đỡ các em học ở nhà, cần chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập cho các em, cần nhắc nhở các em đi học chuyên cần. Cần quan tâm phối kết hợp, thực hiện tốt thông tin hai chiều với giáo viên kịp thời giúp đỡ khi các em gặp khó khăn trong học tập. Với giáo viên: Cần nhiệt tình, quan tâm học sinh, tăng cường công tác tự học tự rèn. Trên đây là một vài kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số học tốt môn Tiếng Việt mà tôi đã thực hiện. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định 18 Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt nhưng tôi hy vọng với kết quả đạt được ở trên sẽ góp phần nhỏ bé nâng dần chất lượng dạy và học của nhà trường ngày một tốt hơn. Rất mong được sự góp ý của lãnh đạo và các đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn! Ea Bông, ngày 15 tháng 2 năm 2016 Người thực hiện Trần Thị Minh 19 Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt TÀI LIỆU THAM KHẢO STT TÊN TÀI LIỆU 1 Giáo trình Giáo dục học 2 Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học 3.Tài liệu bồi dưỡng chuyên môn theo chuẩn kiến thức, kĩ năng Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên Trò chơi thực hành Tiếng Việt lớp một Tài liệu hướng dẫn tăng cường Tiếng Việt cho HS Dân tộc lớp 1 3 4 5 6 7 8 9 Dự án GD tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn Chuyên đề : Một số PP và Hình thức tổ chức dạy học Các công văn hướng dẫn: công văn 9832/ BGD&ĐT GDTH ngày 1 tháng 9 năm 2006, CV 9890/ BGD&ĐT – GDTH ngày 17 tháng 9 năm 2007 về việc hướng dẫn nội dung, phương pháp giáo dục cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn, CV 5842/BGD&ĐT- VP ngày 01 tháng 09 năm 2011 hướng dẫn điều chính nội dung dạy học, thông tư 30/ TT – BGD&ĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 hướng dẫn đánh giá xếp loại học sinh. TÁC GIẢ/ NHÀ XUẤT GHI BẢN CHÚ Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng; Nguyển Sinh HuyNXBGD- 1997) Vụ Giáo dục Tiểu học –NXB Giáo dục Việt Nam NXB Giáo dục; hè 2009 BGD-ĐT NXB Giáo dục, tác giả Vũ Khắc Tuân; Ban chỉ đạo thử nghiệm chương trình Tiếu học năm 2000 thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo Bộ GDSX năm 2005 Nguyễn Đức Hoành -2006 Bộ Giáo dục và Đào tạo 20 Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan