PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TP PLEIKU
TÊN ĐỀ TÀI :
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP
GIÚP HỌC SINH ĐỌC VÀ CẢM THỤ BÀI TẬP ĐỌC LỚP 4
NĂM HỌC : 2012 - 2013
1
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIÚP HỌC SINH ĐỌC VÀ
CẢM THỤ BÀI TẬP ĐỌC LỚP 4
A- ĐẶT VẤN ĐỀ :
Bậc tiểu học là bậc học nền tảng có vai trò hết sức quan trọng, tạo
những cơ sở ban đầu hết sức cơ bản, bền vững về tri thức, hình thành và phát
triển nhân cách giúp trẻ có thể tiếp tục học lên bậc trên hoặc có thể đi học
nghề, chọn tương lai sau này.
Để đạt được mục tiêu trên, nhà trường tiểu học đã duy trì dạy đủ 9 môn
học. Một trong những phân môn có vị trí hàng đầu trong chương trình Tiếng
Việt ở tiểu học là Tập đọc.
Tập đọc là môn học mang tính chất tổng hợp vì ngoài nhiệm vụ dạy
học nó còn có nhiệm vụ trau dồi kiến thức về Tiếng việt cho học sinh (về phát
âm, từ ngữ, câu văn...) kiến thức bước đầu về văn học, đời sống và giáo dục
tình cảm thẩm mỹ. Môn tập đọc ở tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng đặt
ra một nhiệm vụ quan trọng. Trong các giờ tập đọc, học thuộc lòng học sinh
biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ đã tạo cho các em sự say mê hứng thú và
để lại một vốn văn học đáng kể cho trẻ em. Cũng thông qua các bài văn học
sinh học được hiểu thêm về các vùng miền của đất nước, hiểu được công sức
của các tầng lớp nhân dân đang ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hiểu được
các truyền thống quý báu của dân tộc.
Phân môn tập đọc có tác dụng mạnh mẽ trong giáo dục mỹ cảm, học
sinh yêu cái đẹp, rung cảm trước cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong xã
hội, cái đẹp trong văn chương. Môn này có thể rèn luyện cho học sinh tư duy
trừu tượng và cả tư duy logic. Giờ tập đọc ngoài việc dẫn dắt học sinh và cho
học sinh tìm đại ý để phát triển óc tổng hợp, tìm bố cục để phát triển óc phân
tích. Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện óc tưởng tượng, phán đoán, ghi
nhớ.
Môn tập đọc không chỉ có nhiệm vụ trên mà còn kết hợp chặt chẽ với
chương trình Tiếng việt. Qua các bài văn chọn lọc học sinh vừa cảm thụ tốt
vừa học được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn gàng sinh động,
được luyện về nghĩa âm, chính tả, tập làm văn.
Nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của phân môn tập đọc, tôi luôn
luôn trăn trở: Cần luyện đọc với giọng như thế nào, làm thế nào để các em có
thể đọc đúng, đọc hay, cảm nhận được cái hay, cái đẹp mà nhà văn mang đến.
Từ sự suy nghĩ đó tôi quyết định đem hết khả năng và lòng nhiệt tình của bản
thân ra sức tìm tòi, nghiên cứu và tích luỹ được một số kinh nghiệm trong
nhiều năm được phân công giảng dạy ở lớp 4 . Dưới sự cố gắng tận tâm của
thầy, sự nỗ lực phấn đấu học tập của trò, học sinh có sự tiến bộ rõ rệt điều này
làm tôi rất vui, chính vì lẽ đó tôi quyết định chọn đề tài sáng kiến kinh
nghiệm : “ Một số phương pháp giúp học sinh đọc và cảm thụ bài tập đọc lớp
4 ”.
2
B- NHỮNG BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ :
I- THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH - TÌM HIỂU NGUYÊN NHÂN :
1. Chất lượng đầu năm :
Khi mới nhận lớp tôi rất buồn và lo lắng vì các em đọc yếu, phát âm
chưa chuẩn và dường như các em không cần chú ý lắm đến ngắt nghỉ câu cho
đúng ngữ điệu của bài. Khi tìm hiểu bài, các em ít giơ tay phát biểu và trả lời
câu hỏi một cách miễn cưỡng máy móc và thụ động. Nhà trường khảo sát chất
lượng đầu năm kết quả lớp tôi thật thấp:
BẢNG THỐNG KÊ KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG ĐẦU
NĂM HỌC 2012- 2013- MÔN TIẾNG VIỆT (PHẦN ĐỌC) - LỚP 42
TỔNG SỐ
HỌC SINH
30
GIỎI
TS
%
3
10 %
KHÁ
TS
%
8
26,7 %
TRUNGBÌNH
YẾU
TS
%
TS
%
13
43,3%
6
20 %
Chính sự lo lắng về chất lượng của lớp, các em đọc như vậy thì việc
nắm bắt kiến thức sẽ chậm lại, hơn thế nữa cảm thụ bài văn, bài tập đọc
không tốt thì làm sao các em có thể làm tập làm văn hay và hiểu cặn kẽ hơn
về phân môn luyện từ và câu. Tôi lại một lần nữa sàng lọc, kiểm tra từng đối
tượng học sinh để nắm nguyên nhân cho thật sát.
2. Nguyên nhân :
a. Về phía học sinh:
- Kỹ năng đọc của một số học sinh còn yếu, chưa lưu loát, còn ê a, ngắc
ngứ.Còn có em còn đánh vần, quên bỏ dấu thanh, thêm bớt từ khi đọc.
- Một số học sinh đọc chưa diễn cảm, ngắt nghỉ hơi còn tuỳ tiện không
đúng nghĩa và lôgic của câu, đoạn.
- Một số học sinh đọc còn quá nhỏ, ngược lại một số em đọc còn quá to
(như gào lên) sẽ làm cho học sinh khác nghe và theo dõi một cách mệt mỏi.
- Các em chưa có phương pháp học tập đúng, chỉ nghiêng về đọc văn
bản mà không hiểu và nắm vững nội dung bài.
b. Về phía giáo viên:
Về bản thân mình, phương pháp dạy có lẽ còn đơn điệu, gò bó trong
sách giáo khoa và sách tham khảo mà chưa đi sâu tìm tòi sáng tạo, giảng bài
chưa hay nên chưa khích lệ được việc học của các em chăng?
II – ĐỊNH HƯỚNG :
Sau khi đã xác định được nguyên nhân, tôi nghĩ muốn giờ dạy tốt, học
sinh đạt được kết quả cao thì phải có định hướng nhất định.
Chương trình phân môn Tập đọc lớp 4 gồm 10 chủ điểm : Thương người
như thể thương thân ; Măng mọc thẳng; Trên đôi cánh ước mơ; Có chí thì
3
nên; Tiếng sáo diều; Người ta là hoa đất; Vẻ đẹp muôn màu; những người
quả cảm; Khám phá thế giới; Tình yêu cuộc sống.
Thông qua hệ thống các bài tập đọc theo từng chủ điểm khác nhau cung
cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội, con người, …cung
cấp vốn từ, vốn diễn đạt, những hiểu biềt về tac phẩm văn học như đề tài, cốt
truyện, nhân vật, … qua đó rèn luyện nhân cách cho học sinh
- Giáo viên phải dành thời gian thích đáng cho công việc chuẩn bị lên
lớp. Phải đọc kỹ sách giáo khoa và sách hướng đẫn để hiểu thấu đáo nội dung
bài đọc, xác định đúng mục đích yêu cầu, nội dung và phương pháp giảng dạy
bài tập đọc.
- Coi trọng việc rèn đọc cho học sinh. Dự tính những lỗi mà học sinh dễ
mắc phải khi các em đọc bài để có những biện pháp giúp các em sửa chữa.
- Giáo viên cần chuẩn bị đồ dùng dạy học phục vụ cho giờ học… đồ
dùng trực quan (Tranh ảnh vật thật, tài liệu…)
-Giáo viên cần nắm vững phương pháp dạy học mới và áp dụng
phương pháp tích cực vào tiết dạy. Dựa trên cơ sở mục đích yêu cầu, nội
dung chính của bài và tình hình thực tế của lớp, trình độ tâm sinh lý… Giáo
viên lựa chọn và tìm ra phương pháp giảng dạy phù hợp để giờ học đạt kết
quả cao.
III – MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY PHÂN MÔN TẬP ĐỌC :
Trong quá trình giảng dạy bước đầu tiên tôi chú ý làm thế nào để học
sinh đọc tốt, không còn học sinh nào trong lớp đọc chậm, đọc ê a, phát âm sai,
đọc ngắt nghỉ không đúng. Chính vì vậy trong tất cả các môn học khác và
môn tập đọc, khi đọc bài tôi luôn chú ý sửa sai và nhất là chú trọng đến việc
quan tâm đến học sinh yếu dưới nhiều hình thức. Ví dụ: Yêu cầu các em đọc
bài, đọc quy tắc bài đọc, cho các em nhận xét bài đọc của các bạn khác… Để
từ đó cho các em đọc đúng tốc độ, theo kịp các bạn trong lớp và giúp cho quá
trình cảm thụ bài tập đọc của các em được thuận lợi hơn.
Muốn tiết dạy của mình thành công thì giáo viên phải là người dẫn dắt
các em, phải hiểu được nội dung cơ bản của bài qua hệ thèng từ ngữ, kiểu
câu, bố cục, thể loại để đọc đúng, đọc hay, khơi gợi vốn sẵn có của học sinh
để các em có thể tái hiện bức tranh mà tác giả vẽ lên bằng ngôn ngữ sinh
động, từ đó giúp cho học sinh cảm thụ cái hay, cái đẹp của tư tưởng, tình cảm
của nghệ thuật ngôn từ để thể hiện ra ở cách đọc, giọng đọc diễn cảm.
Để đạt được vấn đề này tôi đã áp dụng vào việc giảng dạy của mình
như sau:
1. Chuẩn bị cho việc đọc :
Tôi luôn chú ý đến tư thế đọc của học sinh: Khi ngồi đọc cần ngồi ngay
ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách khoảng 30 – 35 cm, cổ và đầu thẳng, phải
thở sâu và thở ra chậm để lấy hơi. Khi được cô giáo gọi học sinh phải bình
4
tĩnh, tự tin, không hấp tấp đọc ngay. Giáo viên nhắc nhở các em: đọc không
chỉ mình cô giáo nghe nên cần đọc đủ lớn. Tư thế đứng đọc phải vừa đàng
hoàng vừa thoải mái, sách phải được mở rộng và cầm bằng hai tay.
2. Rèn kỹ năng đọc :
a. Đọc đúng:
Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác,
không có lỗi. Đọc đúng là đọc không thừa, không sót từng âm, vần, tiếng, đọc
đúng các âm thanh, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ.
Khi luyện đọc đúng tôi chú ý rèn cho học sinh thể hiện chính xác các
âm, vần trong tiếng Việt đặc biệt các âm - vần dễ lẫn lộn hay mắc phải của
học sinh ở vùng miền khác nhau như: Âm: l/n, ch/tr, d/r/gi,.. Vần: ươn/ương,
im/iêm; an/ang,….
Ví dụ : “ lo lắng” có em đọc là “ no nắng ”.
Khi sửa cho học sinh giọng đọc cho phụ âm đầu “l” hoặc “n” tôi đã
hướng dẫn học sinh như sau:
- Khi đọc phụ âm đầu “l” lưỡi cong và chạm nhẹ vào hàm trên độ mở
của hàm trên hơi rộng.
- Khi đọc phụ âm đầu “n” lưỡi không cong, hàm trên chạm vào lưỡi
nhiều.
- Độ mở của miệng hẹp.
Khi đọc một bài tập đọc học sinh thường ngắt giọng để lấy hơi một
cách tuỳ tiện. Để học sinh ngắt giọng đúng vị trí tôi đã hướng dẫn học sinh
dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc không tách
từ làm hai. Ngắt hơi cho phù hợp với dấu câu, nghỉ ít ở dấu phẩy. Vì ở vị trí
dấu phẩy, ý nghĩa của câu chưa được hoàn chỉnh, lời văn còn tiếp tục. Nghỉ
lâu ở dấu chấm. Vì ở vị trí dấu chấm lời nói đã trọn vẹn, nghĩa của câu đã đầy
đủ.
*Cách ngắt giọng bài văn:
Ví dụ: bài “Dế mèn bênh vực kẻ yếu”(Tuần 1- Sách Tiếng Việt 4 Tập1 – Trang 3).
“Tôi xoè cả hai càng ra, bảo Nhà Trò:
Em đừng sợ. Hãy trở về cùng với tôi đây: Đứa độc ác không thể cậy
khoẻ ăn hiếp kẻ yếu.”
Khi dạy bài trên tôi chép đoạn văn lên bảng, gọi 1 em đọc.
Hỏi: Đoạn văn trên ngắt nhịp ở vị trí nào, tại sao?
Học sinh: Trả lời và thực hành đoạn văn trên.
Sau khi đọc và trả lời giáo viên khắc sâu về ý nghĩa của dấu chấm và
dấu phẩy cho học sinh.
Giáo viên nói: Đoạn văn trên ta ngắt giọng như sau: Giáo viên vừa nói
vừa thực hành ở vị trí dấu phẩy và ký hiệu ngắt giọng bằng 01 gạch(/), ở vị trí
dấu chấm ta ngắt giọng bằng hai gạch chéo(//).Với cách ngắt nhịp đúng của
5
đoạn văn này, khi đọc lên ta cảm nhận được những điều tác giả muốn gửi gắm
vào bài văn:
Tôi xoè cả hai càng ra, / bảo Nhà Trò: //
Em đừng sợ. // Hãy trở về cùng với tôi đây. // Đứa độc ác không thể
cậy khoẻ ăn hiếp kẻ yếu.//
- Giáo viên đọc mẫu, gọi 2 học sinh thi đọc và nhận xét.
*Cách ngắt giọng của bài thơ:
Thơ thể hiện sắc thái tình cảm, vì vậy phải đọc đúng nhịp điệu mới thể
hiện được sắc thái tình cảm của tác giả gửi gắm vào trong từng từ, từng dòng
thơ để truyền cảm đến người nghe. Khi ngắt nhịp trong thơ, các em dựa vào
quan hệ ý nghĩa ngữ pháp sẽ giúp các em ngắt nhịp đúng.
Ví dụ: Trong bài “Mẹ ốm”(Tuần 1 –Sách Tiếng Việt 4 Tập I – Trang 9 )
Tôi hướng dẫn các em: Toàn bài đọc với giọng nhẹ nhàng, tình cảm.
Khổ 1, 2 kể về mẹ ốm đọc với giọng trầm buồn. Khổ 3 khi mẹ sốt cao, xóm
làng tới thăm cần đọc với giọng lo lắng. Khổ 4, 5 đọc với giọng vui hơn khi
mẹ khoẻ. Khổ 6, 7 cần đọc với giọng thiết tha thể hiện lòng biết ơn của bạn
nhỏ đối với mẹ.
Cách ngắt nhịp đúng nhịp điệu của câu thơ, đoạn thơ, nhấn giọng ở
những từ ngữ gợi tả, gợi cảm như sau:
Lá trầu / khô giữa cơi trầu
Truyện Kiều / gấp lại trên đầu bấy nay.
Sáng nay / trời đổ mưa rào
Nắng trong trái chín / ngọt ngào bay hương
Cả đời đi gió / đi sương
Bây giờ / mẹ lại lần giường tập đi.
Ngắt giọng đúng trong bài thơ, bài văn là mục đích của việc dạy học, từ
đó học sinh tiếp nhận, chiếm lĩnh được nội dung bài học một cách sâu sắc, giờ
học đạt kết quả cao.
* Đối với văn bản kịch:
Tôi hướng dẫn các em đọc đúng nhưng câu hỏi, câu cảm ngắt giọng rõ
ràng, đủ để phân biệt đâu là tên nhân vật, đâu là lời nói của nhân vật ấy?
Ví dụ bài: “ Ở Vương quốc Tương Lai”
(Tuần7 – Sách Tiếng Việt 4 tập I – Trang 70)
Tin –Tin:// - Cậu đang làm gì với đôi cánh xanh ấy?
Em bé thứ nhất:// - Mình sẽ dùng nó vào việc sáng chế trên trái đất
Tin- Tin:// - Cậu sáng chế ra cái gì?
Em bé thứ nhất:// - Khi nào ra đời, mình sẽ chế ra một vật làm cho con
người hạnh phúc.
Mi – tin // – Vật đó ăn ngon chứ? // Nó có ồn ào không?
Với cách hướng dẫn trên sẽ giúp các em khắc phục đọc những cách đọc
thiên về hình thức hoặc “ diễn cảm” tuỳ tiện của học sinh.
b. Rèn đọc nhanh:
6
Khi dạy đọc nhiều em còn ngập ngừng, đọc ê a, ngắc ngứ giáo viên cần
cho học sinh hiểu: Đọc nhanh là đọc lưu loát, trôi chảy, là nói đến kỹ năng về
tốc độ. Vấn đề tốc độ chỉ đặt ra sau khi đọc đúng, Đọc nhanh không phải là
đọc luyến thoắng. Để đạt được yêu cầu về đọc nhanh, tôi đã hướng dẫn các
em cách làm chủ tốc độ, dự tính bài đó đọc trong mấy phút bằng cách đọc
mẫu để học sinh đọc thầm theo, đọc nối tiếp, đọc nhẩm có sự kiểm tra của
giáo viên của bạn để điều chỉnh tốc độ.
Ví dụ : Khi học sinh đọc cá nhân toàn bài hoặc đọc một khổ thơ, một
đoạn văn, tôi đều nhắc cả lớp đọc thầm theo. Tôi còn gây hứng thú cho học
sinh bằng những trò chơi cuối giờ như: Thi đọc tiếp sức, đọc thơ truyền
điện… kết thúc trò chơi bao giờ tôi cũng cho học sinh chọn và tuyên dương
nhóm đọc nhanh nhất, giỏi nhất và gợi ý rút kinh nghiệm cho lần chơi sau.
Muốn học sinh đọc nhanh, đúng tốc độ cần có sự chuẩn bị bài ở nhà tốt,
học sinh phải được đọc trước nhiều lần nên trong phần Củng cố - dặn dò tôi
luôn hướng dẫn và nhắc nhở các em chuẩn bị bài sau một cách chu đáo. Điều
này sẽ giúp các em đọc bài được lưu loát, nắm bắt nội dung bài nhanh hơn,
giảm bớt khó khăn cho giáo viên khi thời lượng của một tiết Tập đọc chỉ có
35- 40 phút. Giáo viên sẽ không mất nhiều thời gian cho phần luyện đọc, tìm
hiểu bài, tạo điều kiện và tăng thời lượng cho rèn đọc nâng cao - đọc diễn
cảm.
Tuy nhiên đối với một vài trường hợp học sinh yếu giáo viên cần
hướng dẫn dùng thứơc kẻ chỉ ngay phía dưới theo từng chữ các em đọc, kiên
trì nghe các em đánh vần đọc từng tiếng và luyện tập cho các em cách đọc
nhanh hơn, giúp đỡ phụ đạo thêm, không bỏ qua nhưng cũng không nôn nóng
đòi hỏi các em đọc đúng, đọc hay ngay tại lớp, luôn động viên khuyến khích
các em khi có tiến bộ cho dù là rất nhỏ hơn là la rầy các em.
c. Rèn đọc hay, đọc diễn cảm :
Đọc hay, đọc diễn cảm là một yêu cầu đặt ra khi đọc những bài có yếu
tố ngôn ngữ nghệ thuật. Đọc hay, đọc diễn cảm không những đạt yêu cầu đọc
đúng mà còn phải đọc đúng ngữ điệu với các yếu tố kèm theo như : Nét mặt,
cử chỉ, lời nói để góp phần diễn tả nội dung bài. Bên cạnh đó còn phải có khả
năng làm chủ ngữ điệu, làm chủ các thông số âm thanh như : Tốc độ, chỗ
ngừng giọng, chỗ biểu đạt đúng ý nghĩa tình cảm mà tác giả gửi gắm trong
bài đọc đồng thời thể hiện sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác
phẩm.
Trong phần luyện đọc diễn cảm, nhằm phát huy tính tích cực giúp các
em có thể tự bản thân mình biết tìm và khám phá cách đọc đúng, đọc hay, tôi
cho các em đọc nối tiếp theo đoạn của để học sinh dễ dàng phát hiện tìm đúng
giọng đọc và từ ngữ cần nhấn giọng trong đoạn đó. Sau đó tôi chốt lại cách
đọc và gọi học sinh đọc thể hiện lại. Để thành công trong luyện đọc diễn cảm
tôi luôn chú ý đến cách thể hiện giọng đọc của các em.
1 . Đối với văn bản nghệ thuật tôi hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm
thông qua dẫn dắt, gợi mở giúp các em thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng
7
đọc phù hợp với sự việc, hình ảnh, cảm xúc, tính cách nhân vật trong bài ...,
Cụ thể là :
* Hướng dẫn học sinh làm chủ giọng đọc nhấn mạnh các từ ngữ
quan trọng trong câu ( từ ngữ gợi tả, gợi cảm, từ ngữ chìa khóa làm nổi
bật ý chính):
Ví dụ : Bài : “Đôi giày ba ta màu xanh” ( Sách Tiếng Việt 4 - tập I –
Trang 81 )
Đoạn 1: Tả vẻ đẹp của đôi giày:
“ Chao ôi! Đôi giày mới đẹp làm sao! Cổ giày ôm sát chân. Thân giày
làm bằng vải cứng, dáng thon thả, màu vải như màu da trời cuối ngày thu”
Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm đúng giọng đọc của đoạn này : Đọc
chậm rãi, nhẹ nhàng hợp với nội dung hồi tưởng lại niềm ao ước ngày nhỏ
của chị phụ trách khi nhìn thấy đôi giày ba ta màu xanh, nhấn giọng những từ
ngữ gợi tả, gợi cảm: đẹp làm sao, ôm sát chân, dáng thon thả.
* Hướng dẫn học sinh biết thể hiện ngữ điệu, sự thay đổi về tốc độ,
cao độ, cường độ, trường độ phù hợp với từng loại câu ( câu kể, câu hỏi,
câu cảm, câu cầu khiến)
Ví dụ: Bài Tập đọc “ Ga - vrốt ngoài chiến lũy”
Khi đọc đoạn miêu tả chi tiết thể hiện lũng dũng cảm của Ga - vrốt ,
giáo viên lưu ý học sinh sự thay đổi giọng đọc như sau :
“ - Cậu làm trò gì đấy ? Cuốc - phây - rắc hỏi ( Câu hỏi thể hiện sự
ngạc nhiên )
- Em nhặt cho đầy giỏ đây !( Câu cảm thể hiện sự bình tĩnh )
- Cậu không thấy đạn réo à ?( Câu hỏi như nhắc nhở Ga- vrốt không
được liều mình)
Ga - vrốt trả lời :
- Có chứ, nó rơi như mưa ấy. Nhưng làm sao nào? ( Khi đọc lên
giọng ở câu hỏi thể hiện sự hồn nhiên )
Cuốc - phây - rắc thột lờn :
- Vào ngay ! (Câu khiến thể hiện sự đề nghị, mệnh lệnh kèm sự lo
lắng)
- Tí ti thôi ! Ga - vrốt nói. ( thể hiện sự tinh nghịnh )
Trong đoạn đọc diễn cảm tôi cũng lưu ý học sinh. Đối với bài văn xuôi
ngoài việc đọc tốt các câu chúng ta còn phải biết ngắt hơi ở chỗ không có dấu
câu nhưng chỗ đó là chỗ tách ý.
* Hướng dẫn các em biết đọc phân biệt lời dẫn chuyện, lời nhân vật
sao cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và tính cách từng nhân vật:
Ví dụ : Truyện “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” ( Tuần 1 – Sách Tiếng Việt
4 tập I – Trang 4 ) Đoạn Nhà Trò kể về cuộc đời của mình:
“Năm trước, gặp khi trời làm đói kém, mẹ em phải vay lương ăn của
bọn nhện. Sau đấy, không may, mẹ em mất đi, còn lại thui thủi có mình em,
kiếm bữa ăn cũng chẳng đủ. Ba năm nghèo túng vẫn hoàn nghèo túng. Mấy
8
bận bọn nhện đã đánh em. Hôm nay bọn chúng chăng tơ ngang đường đe bắt
em vặt chân, vặt cánh ăn thịt em.”
Với đoạn này tôi cho các em thấy được phải đọc với giọng thân thiết,
đáng thương của Nhà Trò.
Hay đoạn văn cần phải có giọng đọc mạnh mẽ, răn đe, đanh thép như
lời lên án và mệnh lệnh thể hiện Dế Mèn như một chàng hiệp sĩ ra tay trừng
trị kẻ ăn hiếp người yếu- chị Nhà Trò bé bỏng tội nghiệp (Truyện dế mèn
bênh vực kẻ yếu, phần II – tuần 2 – Tập 1 - Trang 25)
“ Tôi thét :
- Các người có của ăn của để, béo múp béo míp mà cứ đòi mãi một tý
tẹo nợ đã mấy đời rồi. Lại còn kéo bè, kéo cánh đánh đập một cô gái yếu ớt
thế này. Thật đáng xấu hổ! Có phá hết các vòng vây đi không?”
Với đoạn trên tôi hướng dẫn theo trình tự :
- Giáo viên hướng dẫn các em tìm đúng giọng đọc đoạn văn .
- Giáo viên đọc mẫu đoạn văn đó.
- Học sinh luyện đọc diễn cảm đoạn văn theo cặp.
- Gọi vài học sinh thi đọc trước lớp.
Cả lớp theo dõi, bình chọn bạn có giọng đọc tốt nhất.
* Ngoài ra tôi còn hướng dẫn học sinh biết thể hiện ngữ điệu phù
hợp với tình huống miêu tả trong văn bản hay thái độ, cảm xúc của tác giả
( vui, buồn, trang nghiêm, giận dữ).
Ví dụ : Bài thơ “Mẹ ốm” (Sách Tiếng Việt 4 - Tập 1 - Trang 9). Khổ
thơ 1,2 giọng đọc trầm buồn thể hiện nỗi lòng lo lắng, xót thương mẹ ốm của
nhà thơ. Khổ thơ 4,5 đọc với giọng vui hơn thể hiện niềm vui của nhà thơ khi
mẹ đã dần khỏe lại.
2. Đối với loại hình văn bản phi nghệ thuật
Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định được ngữ điệu đọc sao cho phù
hợp với mục đích thông báo, làm rõ những thông tin cơ bản, giúp người nghe
tiếp nhận được những vấn đề quan trọng hay nổi bật trong văn bản. Điều này
giúp cho học sinh khắc phục được những cách đọc thiên về hình thức hoặc
diễn cảm tùy tiện .
Ví dụ : Bài tập đọc “ Vẽ về cuộc sống an toàn”
Học sinh biết đọc đúng bản tin (thông báo tin vui) đọc rõ ràng, rành
mạch, vui , tốc độ khá nhanh, lưu ý ngắt nghỉ hơi đúng sau các dấu câu, nghỉ
hơi tự nhiên, tách các cụm từ trong những câu khá dài .
“ UNICEF Việt Nam và báo Thiếu niên Tiền phong / vừa tổng kết cuộc
thi vẽ tranh của thiếu nhi với chủ đề / “ Em muốn sống an toàn ”
... Cứ như vậy tôi cho các em thấy được sự khác biệt về giọng đọc ở
mỗi đoạn trong bài hoặc từng bài. Để hiểu được, tìm được vẻ đẹp của bài văn
thì bước đầu tiên ta phải đọc bài văn. Trong bài này tôi không quên đọc mẫu
bài thật tốt, thật diễn cảm và thể hiện được “ cái thần” của bài văn và niềm
xúc động của mình qua giọng đọc. Ngay từ bước đầu ấy tôi đã gợi được sự
9
tập trung hứng thú của học sinh mong mình đọc hay, được giống như giọng
đọc của cô.
Tôi thường mách nhỏ với các em bí quyết đọc tốt đó là: Không những
đọc bài trong sách giáo khoa mà còn phải chịu khó đọc nhiều sách báo để
luyện đọc. Khi đọc không phải chỉ đọc dửng dưng cốt cho xong chuyện mà
đọc là phải gắn liền cảm xúc của mình khi thể hiện bài đọc: Một sắc thái rạng
rỡ tươi vui trên nét mặt, một nụ cười hay một thoáng trầm tư phù hợp với
từng câu, từng đoạn trong bài sẽ góp phần tăng thêm cái hay cái đẹp của tác
phẩm, dễ đi vào lòng người. Ánh mắt không phải lúc nào cũng nhìn chằm
chằm vào sách mà đôi lúc nhìn vào người nghe, lôi cuốn sự chú ý của mọi
người.
Trong quá trình đọc bài của các em, tôi luôn luôn quan tâm đến các
hình thức đọc của các em như: Đọc cá nhân kết hợp với đọc thầm, đọc chuyển
tiếp câu đoạn, đọc phân vai, thi đọc theo cặp, thi đọc giữa các cá nhân, luyện
đọc theo cặp đôi, tổ chức luyện đọc theo nhóm để các em khá, giỏi kèm cặp
các em kém Chính vì những hình thức đó nên em nào cũng được đọc, em nào
cũng bắt buộc phải theo dõi vào sách… với sự theo dõi rất sát của cô. Sau khi
bạn đọc xong tôi luôn đặt ra câu hỏi : “ Bạn đọc thế nào?” “ Bạn đọc đúng
chưa?” cô muốn nghe nhận xét của các em về cách đọc bài của bạn? Và các
em hãy bình chọn bạn đọc tốt nhất. Chính vì vậy mà các em rất tập trung theo
dõi bạn đọc, hăng hái giơ tay phát biểu và cố gắng đọc hay, đọc đúng để các
bạn nhận xét tốt về mình. Kể cả các em học sinh yếu cũng phải nỗ lực vươn
lên.
Nhờ các phương pháp trên chất lượng đọc bài, giọng đọc thể hiện qua
bài của các em nâng lên rõ rệt. Qua ý kiến phản ánh của phụ huynh học sinh:
Thời gian ở nhà các em dành cho tập đọc cũng nhiều lên và chất lượng đọc
của các em cũng tiến bộ nhiều.
Trong phân môn tập đọc không chỉ dừng lại ở tập đọc mà qua đọc các
em cảm thụ được cái hay, cái đẹp của bài văn thông qua sự dẫn dắt gợi mở
của giáo viên đó chính là bước tìm hiểu nội dung bài.
3. Hướng dẫn cảm thụ bài :
Để các em có hứng thú và cảm thụ bài thơ, bài văn tốt, có được niềm
rung động và cảm xúc, những ấn tượng mạnh mẽ khi tìm hiểu về thiên nhiên,
đất nước, con người được tiếp thu qua lời giảng của người giáo viên thì người
giáo viên phải là người dẫn dắt các em tìm hiểu bài một cách nhẹ nhàng, khai
thác nội dung bài lôgic, từ dễ đến khó, gợi mở dần để các em thâm nhập bài
dẫn đến cảm thụ tốt. Bước phân tích các chi tiết, các hình ảnh là bước quan
trọng nhất trên con đường đi tìm vẻ đẹp của bài văn.
a. Cảm thụ văn học thông qua việc tìm hiểu nội dung, ý nghĩa.
10
Mỗi bài văn, bài thơ hay đoạn, câu văn, thơ đều mang một nội dung, ý
nghĩa. Việc khai thác nội dung của nó giúp học sinh cảm nhận được nét tinh
tế, và giá trị nghệ thuật mà tác giả đã nhắn gửi vào . Dựa vào sách giáo khoa,
sách tham khảo của giáo viên, khi chuẩn bị tôi đã phân đoạn, chia ý của bài rõ
ràng giúp học sinh có hướng đi để dễ dàng nắm được mạch của bài. Trong
từng đoạn, từng ý dựa vào câu hỏi sách giáo khoa, tôi có thể tách nhỏ hoặc
thêm những câu hỏi gợi mở để học sinh tìm hiểu và khám phá giá trị nội dung
theo một trình tự hợp lý và lôgic.
Ví dụ: Tìm hiểu đoạn 3 bài “Sầu riêng”(Sách Tiếng Việt 4 - Trang 34 )
“Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ nghĩ mãi dáng cây kỳ lạ này. Thân
nó khẳng khiu, cao vút, cành ngang thẳng đuột, thiếu cái dáng cong, dáng
nghiêng, chiều quằn, chiều lượn của cây xoài, cây nhãn. Lá nhỏ xanh vàng
hơi khép lại, tưởng như lá héo. Vậy mà khi trái chín, hương toả ngạt ngào, vị
ngọt đến đam mê.”
Bốn câu trên tôi chia làm hai nhóm. Nhóm thứ nhất gồm 3 câu đầu.
Nhóm thứ hai có một câu cuối. Đọc 3 câu đầu 1,2,3 học sinh phải biết từ
“dáng, thân, cành, lá” tổng hợp thành “vẻ ngoài” hoặc “cái dáng” hoặc “cái
vẻ” của sầu riêng. Học sinh phải phát hiện ra các từ ngữ: Khẳng khiu thẳng
đuột, thiếu dáng cong, dáng nghiêng, chiều quằn, chiều lượn, khép lại tưởng
như lá héo thành một nghĩa chung là “xấu xí”. Từ đó học sinh rút ra được
nghĩa của ba câu này là dáng vẻ xấu xí của sầu riêng. Nhóm thứ hai gồm một
câu ghép đẳng lập có hai chủ ngữ “hương” “vị” và hai vị ngữ “toả ngào ngạt”,
ngọt đến đam mê học sinh phải tổng hợp được hai ý nhỏ: Hương vị độc đáo
( hoặc làm say lòng người ) của quả sầu riêng.
Trong bốn câu của đoạn, câu cuối là quan trọng nhất vì nó nêu được nội
dung chính của bài: Hương vị của quả sầu riêng. Câu cuối này chứa hai loại
nghĩa: Miêu tả( hương vị độc đáo của quả sầu riêng ) và nghĩa liên cá nhân
(khen quả sầu riêng, lợi ích của quả sầu riêng).
Hai nhóm câu của đoạn được kết nối bằng từ “vậy mà” thể hiện một
cách lập luận đối lập càng tăng thêm sự kỳ lạ của hương vị sầu riêng.
b. Cung cấp và giúp các em khám phá, giải nghĩa từ bằng nhiều
cách nhằm rèn luyện kỹ năng về ngôn ngữ, phát triển tư duy cho học sinh
như:
- Dựa vào hình ảnh trên giáo cụ trực quan học sinh giải nghĩa từ.
- Tìm từ cùng nghĩa hay từ trái nghĩa để hiểu nghĩa của từ trong bài.
- Giải nghĩa của từ dựa vào văn cảnh của bài
Ví dụ: Bài tập đọc “Truyện cổ nước mình” ( Tuần 2 – Sách Tiếng Việt
Tập I- Trang 19 )
Câu thơ: “Tôi yêu truyện cổ nước tôi”. Với một câu 6 chữ “ tôi” lặp lại
hai lần, đứng ở hai vị trí đặc biệt: Mở đầu và kết thúc câu thơ. Tôi cho các em
thấy được kết cấu câu thơ đã biến nó thành lời tâm sự của tôi với tôi là lời “
lòng lại nhủ lòng”. Giọng điệu tâm tình ấy lại càng nổi rõ hơn khi nói về cuộc
11
đối thoại giữa truyện cổ với chúng ta, giữa cha ông và con cháu, tác giả hai
lần dùng từ “thầm thì”.
Lần đầu:
“Mang theo truyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa”.
Lần sau:
“Tôi nghe truyện cổ thầm thì
Lời ông cha dạy cũng vì đời sau”.
Tôi cho các em phát hiện và hiểu được từ “thầm thì” là cách nói nhẹ
nhàng, khẽ khàng, là giọng nói thân tình đi sâu vào lòng người để thuyết
phục, để nhắc nhở mọi người, để khơi gợi lên niềm yêu thương, nỗi nhớ mong
da diết.
c. Chọn lọc ghi lại những hình ảnh đẹp, gợi tả màu sắc, âm thanh,
giúp các em thấy được vẻ đẹp của bài bằng cách:
+ Yêu cầu học sinh tìm, phát hiện hình ảnh đẹp thể hiện trong bài.
+ Dựa vào mô tả trên trực quan để rút ra hình ảnh đẹp.
Ví dụ: Bài thơ NGẮM TRĂNG
(Sách Tiếng Việt Tập II- Trang 137 )
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ .
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Hồ Chí Minh
12
( Nam Trân dịch)
Với bài thơ của Bác kính yêu được sáng tác trong nhà tù Tưởng Giới
Thạch tôi cho các em quan sát tranh và đọc thầm bài thơ để trả lời câu hỏi:
Hình ảnh nào cho em thấy tình cảm gắn bó giữa Bác với trăng ? Qua cách
khai thác câu hỏi này các em sẽ tìm ra hình ảnh đẹp : Sự gần gũi, tâm tình
giữa Bác và trăng cho dù song sắt của nhà tù có nhỏ và hẹp và lạnh lùng tới
đâu cũng không ngăn nổi sự giao cảm tuyệt vời giữa nhà thơ và vầng trăng.
Mặc dù ở trong hoàn cảnh bị giam hãm trong tù : không có rượu cũng chẳng có
hoa nhưng Bác Hồ vẫn không hề chán nản tuyệt vọng mà ngược lại Người vẫn
luôn giữ được phong thái ung dung tự tại và hòa mình vào thiên nhiên hơn thế
nữa Người đã hoàn thành một cách ngoạn mục cuộc vượt ngục bằng tinh thần để
rồi đắm mình trong không gian rộng lớn mênh mông và thơ mộng cùng ánh
trăng ở ngoài song sắt nhà tù tối tăm dơ bẩn kia qua câu thơ:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.”
+ Tìm biện pháp nghệ thuật mà tác giả đã sử dụng để thấy được cái
hay, cái đẹp, cái sáng tạo trong cách viết văn, thơ của tác giả như: Khai thác
chất nhạc, vần nhịp điệu thơ. Tìm từ láy. từ tượng thanh, tượng hình, tìm biện
pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá, tìm điệp từ, điệp ngữ …
Ví dụ: “Tre Việt Nam” của tác giả Nguyễn Duy.
( Tuần 4 – Sách Tiếng Việt -Tập I - Trang 41)
Khổ thơ cuối cùng của bài đột ngột đổi nhịp và ngắt dòng :
“Mai sau
Mai sau
Mai sau…
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh”.
Sự trùng điệp ba dòng thơ và điệp từ “ Mai sau” có giá trị biểu đạt đặc
biệt. Không gian và thời gian mở ra vô tận, ý thơ âm vang, bay bổng gợi ra
cho các em những liên tưởng phong phú. Một dòng thơ cuối, có tới ba từ
“xanh” khiến bài thơ khép lại bằng một sắc màu rất riêng, biểu tượng cho sự
sống trường tồn.
Qua hình tượng cây tre ẩn dụ trong bài thơ cho các em thấy được nổi
bật lên tính cách của con người và truyền thống cao đẹp của dân tộc. Qua
những câu thơ lục bát nhuần nhuyễn, hình ảnh thơ gần gũi thân quen, tác giả
đã cho chúng ta hiểu thêm về đất nước, con người Việt Nam mến yêu.
d. Tổ chức giờ học theo phiếu :
- Xây dựng các bài tập đọc hiểu dưới hình thức trắc nghiệm, nó giúp
khắc phục được tình trạng trước đây là trong giờ học tập đọc học sinh chỉ
dùng một phương thức hành động duy nhất : Dùng lời nói – một nguyên nhân
làm cho số lượng học sinh hoạt động tích cực trong giờ học tập đọc rất thấp.
- Việc tổ chức giờ học theo phiếu bài tập sẽ nâng cao hiệu quả giờ học,
tiết kiệm thời gian học (làm cho giờ học tiến triển nhanh hơn) cá thể hoá việc
13
học gây hứng thú hơn cho các em (mọi học sinh đều được bộc lộ mình, em
giỏi thể hiện được nhiệm vụ và thực hiện ở mức độ cao hơn, em yếu cũng đạt
được những yêu cầu tối thiểu) rèn luyện được cùng một lúc cả kỹ năng đọc
( nói ) lẫn kỹ năng nghe, viết ( vì học sinh trả lời bằng viết trên phiếu, vừa đọc
lại hay nói lại điều đã viết cho thầy cô giáo và các bạn nghe, nghe thầy cô
giáo và các bạn nói để bổ sung cho suy nghĩ của mình) sử dụng phiếu để dạy
còn giúp giáo viên có thể kiểm tra được nhiều học sinh trong cùng một thời
điểm.
Ví dụ: Bài “ Nỗi dằn vặt của An – đrây – ca” (Tuần 6 – Sách Tiếng
Việt Tập I – Trang 55 )
Có 4 câu hỏi :
Câu 1: An – đrây – ca đã làm gì trên đường đi mua thuốc cho ông?
Câu 2: Chuyện gì xảy ra khi An – đrây – ca mang thuốc về nhà?
Câu 3: An – đrây ca tự dằn vặt mình như thế nào?
Câu 4: Câu chuyện cho thấy An – đrây – ca là một cậu bé như thế nào?
Được chuyển thành những bài tập có hình thức sau.
Đọc thầm bài “ Nỗi dằn vặt của An –đrây - ca“ sau đó đánh dấu x vào ô
trống trước ý trả lời đúng cho mỗi câu hỏi dưới đây :
Câu 1 : An – đrây – ca đã làm gì trên đường đi mua thuốc cho ông?
a. An – đrây – ca chạy ngay đến tiệm thuốc.
b. An – đrây – ca gặp mấy đứa bạn đang chơi đá bóng rủ và nhập
cuộc
c. An – đrây – ca từ chối chơi đá bóng với các bạn.
Câu 2 : Chuyện gì đã xảy ra khi An – đrây – ca mang thuốc về nhà?
a. Ông đã qua đời.
b. Ông còn khoẻ mạnh.
c. Ông đang còn chờ An – đrây – ca.
Câu 3 : An – đrây ca tự dằn vặt mình như thế nào?
a. Mình không có lỗi vì ông đã già.
b. An - đrây ca tự an ủi mình đã mua thuốc về nhưng không còn kịp.
c. Khi đã lớn, cậu vẫn luôn dằn vặt: “ Gía mình mua thuốc về kịp thì
ông còn sống thêm được ít năm nữa!”.
Câu 4: Câu chuyện cho thấy An – đrây – ca là một cậu bé như thế nào?
a. Hồn nhiên, thật thà
b. Hồn nhiên, thẳng thắn.
c. Trung thực và nghiêm khắc với lỗi lầm của bản thân.
14
e. Áp dụng công nghệ thông tin sử dụng màn hình đèn chiếu khi
dạy môn Tập đọc.
Hiện nay ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy đang được
Ngành Giáo dục cũng như mọi giáo viên giảng dạy quan tâm đầu tư với một
mong muốn cho học sinh được tiếp cận với nền khoa học văn minh của thời
đại và với một mục đích thiết thực giúp các em lĩnh hội tri thức, mở mang tri
thức một cách tốt nhất. Không còn gì hay hơn, tốt hơn khi có hình ảnh, âm
thanh, trực quan sinh động kết hợp, lồng ghép giảng dạy giúp học sinh cảm
thụ bài đọc một toàn diện. Xuất phát từ ý thức này tôi cũng đã nghiên cứu học
hỏi anh chị đi trước, tìm tòi tư liệu qua sách báo, trên mạng internet, áp dụng
trình chiếu Power Point khi dạy một số bài tập đọc có thể có những thành
công lớn nhất mà cách dạy truyền thống không thể có được như :
- Thời giờ luyện đọc và tìm hiểu bài được nhiều hơn khi giáo viên
không không mất thời gian viết bảng, đính bảng phụ và treo tranh minh họa.
- Gây hứng thú học tập của học sinh, làm cho các em được hào hứng,
ghi nhớ lâu, khắc sâu và củng cố kiến thức. Ví dụ : Dạy bài Dế Mèn bênh vực
kẻ yếu ( Tập đọc - tuần 2). Các em sẽ được tiếp cận “Mắt thấy, tai nghe” với
anh chàng hiệp sĩ Dế Mèn đang bênh vực chị Nhà Trò rất sống động, rất cụ
thể qua một thước phim ngắn trích trong bộ phim hoạt hình Dế Mèn phiêu lưu
kí”.
- Sử dụng trình chiếu Power Point giống như một giáo cụ trực quan đa
thuận lợi khi giải nghĩa từ, khai thác nội dung bài, mở rộng kiến thức và liên
hệ thực tế, giáo dục về môi trường… cần có hình ảnh thiết thực phục vụ đắc
lực cho bài giảng mà không tốn thời gian của giáo viên và học sinh, không
làm mất đi, xa đà hướng đi của bài dạy, từ đây các em sẽ hiểu bài kĩ hơn, đến
với cái hay, cái đẹp của bài đọc và mở rộng tầm nhìn hiểu biết hơn thế giới
xung quanh các em.
Ví dụ: Trong bài tập đọc Bốn anh tài ( tiếp theo) – Sách tập đọc lớp 4
tập II/ trang 13. Để làm rõ nghĩa một số từ ngữ , tôi cho các em quan sát hình
ảnh trên Slides để các em nhận biết, hiểu nghĩa từ bằng trực quan sinh động...
Chẳng hạn: Chỉ đọc chú giải để hiểu “núc nác” là loại cây thân gỗ, lá chỉ có
ở ngọn, quả rất dài, dẹt và rộng thì có thể sự hình dung về loại cây hiếm gặp
này còn rất khó khăn với các em. Tôi cho các em theo dõi trên màn chiếu và
giới thiệu để các em thấy được hình ảnh thực về cây núc nác. Với cách làm
này các em các em hiểu nghĩa từ rất nhanh, rất thích thú và hào hứng.
15
Núc nác
Loại cây thân gỗ, lá chỉ có ở ngọn, quả rất dài, dẹt và rộng.
Hay khi dạy bài Trung thu độc lập ( SGK tập I – Tuần 7 / trang 66),
Để tìm hiểu nội dung câu hỏi số 3 (SGK): “Cuộc sống hiện nay có những gì
giống với mong ước của anh chiến sỹ năm xưa?”. Sau khi cho các em tự
nhận định và phát biểu ý kiến của mình về cuộc sống hiện tại, tôi mời các em
tham quan một số cảnh đổi mới hiện nay tuyệt đẹp và hiện đại trên màn ảnh
để một lần nữa khẳng định Ước mơ của anh chiến sỹ năm xưa về tương lai
của trẻ em và đất nước đã trở thành hiện thực. Nhiều điều mà cuộc sống hôm
nay của chúng ta dang có còn vượt qua ước mơ của anh chiến sỹ năm xưa.
16
Thủy điện Yaly
Tàu
Vũ
Trụ
....
Một số cảnh đổi mới hiện nay.
Với sự kết hợp nhiều các phương pháp phù hợp với từng bài tập đọc
khác nhau, trong quá trình khai thác kiến thức nội dung tôi đã thu được rất
nhiều thành công như các em nắm bài tốt, hiểu được nội dung bài và cảm thu
được những điều tốt đẹp nhất, hay nhất mà tác giả đã gửi vào tác phẩm. Sau
đây là một cách hướng dẫn tìm hiểu bài của tôi trong giảng dạy.
Tập đọc : Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ
Tác giả :Nguyễn Khoa Điềm
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời:
- Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân…
17
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ thì nhỏ
Em ngủ cho ngoan đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.
- Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi…
( Sách Tiếng Việt 4 - Trang 48 )
Với bài thơ trên tôi nhận thấy rất gần gũi với giáo viên và các em học
sinh, địa bàn nơi tôi dạy tôi đã giới thiệu cho các em . Đây là bài thơ được
sáng tác trong những năm kháng chiến chống Mỹ gian khổ. Thông qua lời ru
của người mẹ, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn nói lên vẻ đẹp tâm hồn của
người mẹ yêu con, lòng yêu thương sâu sắc của bà mẹ miền núi với con và
với cách mạng.
Sau luyện đọc tôi đã hướng dẫn gợi mở, tìm hiểu bài như sau:
Hỏi: Vậy em hiểu như thế nào là “những em bé lớn trên lưng mẹ”
(Những em bé lớn trên lưng mẹ có ý nghĩa là” Những em bé lúc nào
cũng ngủ trên lưng mẹ. Mẹ đi đâu làm gì cũng địu con trên lưng).
Giáo viên cho hoc sinh quan sát tranh minh hoạ .
Hỏi: Các em thấy hình ảnh nào trên bức tranh?
( Bức tranh vẽ người phụ nữ dân tộc miền núi đi đâu làm gì cũng địu
con sau lưng. Em bé cả những lúc ngủ cũng nằm trên lưng mẹ. Có thể nói:
“Những em bé lớn trên lưng mẹ”
Giáo viên chốt lại .
Hỏi: Em bé thường được mẹ địu trên lưng trong bài này có tên gọi là
gì?
Hỏi: Mẹ đã ru Cu Tai bằng lời ru như thế nào?
Hỏi: Mẹ vừa chăm lo cho Cu Tai khôn lớn, mẹ vừa giã gạo nuôi bộ đội
phục vụ cho kháng chiến rồi tỉa bắp trên nương. Những công việc đó có ý
nghĩa như thế nào?
Với câu hỏi này tôi cho các em thảo luận nhóm bàn trong thời gian 2
phút. Sau đó từng đại diện nhóm bàn lên trả lời, nhóm khác bổ sung.
Giáo viên chốt ý và làm nổi bật cho các em thấy được qua những việc
làm của mẹ chúng ta đều cảm nhận mẹ là người có lòng yêu nước thiết tha và
không những thế toàn bài còn thể hiện người phụ nữ dân tộc Tà – ôi yêu nước
này có tình yêu thương con vô bờ bến.
Giáo viên hỏi tiếp. Em hiểu câu thơ “Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em
nghiêng” là như thế nào?
18
( Câu thơ gợi lên hình ảnh nhịp chày trong tay mẹ nghiêng làm cho
giấc ngủ em bé trên lưng mẹ cũng chuyển động theo.)
- Giáo viên mời một học sinh đọc lại toàn bài, cả lớp đọc thầm sau đó
thảo luận theo nhóm đôi để trả lời câu hỏi số 3 của sách giáo khoa.
- Gọi 1 em đọc lại câu hỏi số 3 và thời gian 1phút cho các em thảo luận
nhóm đôi theo câu hỏi này.
Hoạt động cả lớp: Giáo viên hỏi từng ý gọi đại diện nhóm lên trả lời
các nhóm khác nhận xét bổ sung.
Hỏi: Tìm những hình ảnh đẹp nói lên tình yêu thương của người mẹ đối
với người con.
Học sinh trả lời, giáo viên rút những hình ảnh đẹp ghi lên bảng đó là:
+ Lưng đưa nôi
+ Tim hát thành lời.
+ Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
+ Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng
Hỏi : Vì sao em lại chọn những hình ảnh đẹp này?
Và giáo viên khai thác hình ảnh đẹp đó
Hỏi : Mẹ có một niềm hi vọng: Mong con chóng khoẻ và chóng lớn câu
thơ nào thể hiện điều đó? ( Mai sau con lớn vung chày lún sân)
Giáo viên giảng: Địu con trên lưng khi giã gạo tỉa bắp trên nương,
những hình ảnh đó thật đẹp. Nó nói lên tình thương yêu của mẹ đối với con và
mẹ mong cho Cu Tai mau lớn, có sức mạnh khác thường”Vung chày lún sân”
để làm những công việc có ích, ước mơ này thể hiện tình thương con và lòng
yêu nước thiết tha của người mẹ miền núi.
Hỏi : Theo em cái đẹp thể hiện trong toàn bài thơ này là gì?
Trả lời : Cái đẹp trong toàn bài thơ này là thể hiện được lòng yêu nước
thiết tha và tình thương con của người mẹ.
Giáo viên : Và đó cũng chính là nội dung bài, giáo viên ghi lên bảng
gọi 2 – 3 học sinh nhắc lại.
Sau đó là đến phần tổ chức cho lớp luyện đọc và học thuộc lòng bài
thơ.
* Củng cố toàn bài :
Tôi cho các em thấy được : Tình yêu nước – thương con vô bờ bến của
người phụ nữ dân tộc Tà-ôi nói riêng và của người phụ nữ Việt Nam nói
chung luôn là hình ảnh xứng đáng được ngợi ca và tự hào hãnh diện. Đây
chính là những chủ đề, khiến cho nhà thơ viết lên những vần thơ hay, đi vào
lòng người với lời thơ miệt mài lắng đọng.
Và các em biết không: Bài thơ “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng
mẹ” đã được phổ nhạc thành bài hát “ Lời ru trên nương “ chúng ta hãy cùng
nhau lắng nghe bài hát này nhé. Giáo viên mở băng cùng các em thưởng thức
bài hát trong thời gian là 2 phút.
Dặn dò các em về nhà đọc lại bài nhiều lần và chuẩn bị tốt bài sau.
Giáo viên nhận xét tiết học.
19
Để đảm bảo thời gian và chất lượng tiết học, tuỳ từng văn bản, tuỳ từng
nội dung bài đọc cụ thể mà người dạy lựa chọn các phương pháp phù hợp để
giờ học đạt được mục đích trong một thời gian nhất định. Muốn yêu cầu trên
cần thực hiện đó là :
+ Học sinh phải đọc trước văn bản, chuẩn bị phiếu bài tập và những câu
hỏi trong sách giáo khoa.
+ Giáo viên phải thật linh hoạt sáng tạo trong việc phối hợp các phương
pháp vào bài giảng sao cho thật uyển chuyển, nhẹ nhàng và đạt hiệu quả cao.
Giáo viên phải luôn trau dồi kiến thức luôn thay đổi các phương pháp giảng
dạy phù hợp với phát triển của xã hội.
Sau khi đề ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của thao tác
tìm hiểu bài trong giờ tập đọc vì mỗi bài tập đọc lại phản ánh một phạm vi
cuộc sống khác nhau và ở lớp 4 chủ điểm là những vấn đề về đời sống tinh
thần của con người như tính cách, đạo đức, năng lực, sở thích… Vì vậy tôi có
cách hướng dẫn cảm thụ, dẫn dắt bài, khai thác nội dung nghệ thuật khác nhau
nên tôi không tham vọng trình bày nhiều mà xin nêu một ví dụ cụ thể thể hiện
phương pháp giảng dạy của mình trên lớp:
THIẾT KẾ BÀI DẠY
Môn : Tập đọc – Lớp 4
Bài : Dù sao trái đất vẫn quay
( Theo Lê Nguyên Long và Phạm Ngọc Toàn)
(Tuần 27 – Trang 85 )
I - MỤC TIÊU :
1. Đọc thành tiếng:
- Đọc trôi chảy toàn bài, ngắt nghỉ hơi tự nhiên, sau các dấu câu, giữa
các cụm từ. Đọc đúng các tên riêng nước ngoài: Cô-péc-ních, Ga-li-lê.
- Đọc đúng các tiếng, từ khó hoặc dễ lẫn do ảnh hưởng của phương.
Biết đọc diễn cảm bài văn với giọng kể rõ ràng, chậm rãi, cảm hứng ca ngợi
lòng dũng cảm bảo vệ chân lý khoa học của hai nhà bác học Cô-péc-ních và
Ga-li-lê.
2. Đọc – Hiểu :
- Hiểu nội dung ý nghĩa của bài: Ca ngợi những nhà khoa học chân
chính đã dũng cảm, kiên trì bảo vệ chân lý khoa học.
II – ĐỒ DÙNG DẠY HỌC :
20
- Xem thêm -