Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn những biện pháp giáo dục học sinh cá biệt...

Tài liệu Skkn những biện pháp giáo dục học sinh cá biệt

.PDF
12
2281
114
  • 0
    PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÒA BÌNH
    TRƯỜNG THCS VĨNH MỸ A
    Sáng kiến kinh nghiệm
    NHỮNG BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT
    Họ và tên người thực hiện : Nguyễn Thùy Linh
    Vĩnh Mỹ A, ngày 29 tháng 9 năm 2014
    Mẫu 1
    Trang 1
  • 1
    Sáng kiến kinh nghiệm
    NHỮNG BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT
    I. Đặt vấn đề
    Để y dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực thì việc giáo dục
    ý thức học sinh là một trong những yếu tố quan trọng và không thể thiếu được.
    Giáo dục đạo đức cho học sinh một trong những giải pháp giáo dục
    được quan tâm nhất đối với từng giáo viên trong trường học, trong ngành giáo
    dục nước nhà.
    Trong các trường học hiện nay việc giáo dục đạo đức cho học sinh
    biệt một trong những nhiệm vụ thiết yếu, nhất trong nhà trường THCS
    nhằm hạn chế được những đối tượng HS yếu về mặt đạo đức góp phần vào
    chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. Nhằm đào tạo thế hệ cách mạng
    tương lai . Thế nhưng thực tế trong các trường THCS hiện nay một bộ phận học
    sinh biệt dường như trường nào cũng năm nào cũng có. Trong khi đó
    mục tiêu giáo dục tiếp tục phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thẫm mỹ
    và các kỹ năng bản của nhân cách con người Việt Nam”. Từ đó vấn đề đặt ra
    trường THCS nhiệm vụ giáo dục học sinh phát triển để trở thành con
    người hữu ích cho xã hội, để các em trở thành con ngoan tgiỏi trước tiên
    là phát triển về mặt nhân cách.
    Qua nhiều năm m công tác chủ nhiệm lớp bậc THCS bản thân tôi gặp
    không ít đối tượng học sinh biệt nhưng mỗi em một vẻ cá biệt khác nhau, đòi
    hỏi trong quá trình giáo dục phải có nhiều sáng tạo mới có hiệu quả được. Trong
    thời gian qua tôi có tìm hiểu được biện pháp giáo dục không chỉ dừng lại ở một
    vài lần tiếp xúc với học sinh hoặc dừng lại một năm m chnhiệm, tôi
    cho rằng việc giáo dục học sinh biệt cần phải thường xuyên, liên tục. Cũng
    như Bác Hồ đã nói Học , học nữa, học mãi” thì tôi nghĩ việc giáo dục cũng
    như thế tồn tại song song như thế. Giáo dục trực tiếp, gián tiếp hoặc tự giáo
    dục tùy thuộc vào từng giai đoạn khác nhau cần người thầy hoặc không
    người thầy đó giai đoạn các em đã trưởng thành thì giai đoạn đó tự hoc,
    tự giáo dục. Khi các em còn ngồi trên ghế nhà trường thì giáo viên chủ nhiệm
    này cần sự chuyển giao cho chủ nhiệm lớp sau về tình hình học sinh biệt
    của lớp mình cả về đối tượng cũng như mức độ, hình thức cá biệt của các em.
    lứa tuổi các em, lứa tuổi đang sự mất cân bằng về mặt tâm sinh lý,
    việc các em mong muốn trở thành người lớn trong khi c em chưa shiểu
    biết tương ứng cộng với hoàn cảnh sống mỗi em một khác nhau, có em may mắn
    nhận được sự vấn kịp thời của ông,bà,cha mẹ hoặc thầy,cô khi trong trang
    thái thiếu cân bằng ấy, em không được sự quan tâm đúng mức, em thì lại
    được quá chiều chuộng, hoặc không được quan tâm đúng mức... Từ sự khác biệt
    trên nảy sinh ra những hiện tượng biệt trong học sinh chính một bộ phận
    học sinh này đã gây không ít khó khăn cho giáo viên chủ nhiệm lớp. Những biểu
    hiện biệt của học sinh lại rất khác nhau về mặt hình thức cũng nmức độ
    Trang 2
  • 2
    nên GVCN lớp cũng rất khó trong việc phát hiện biện pháp xử thích
    hợp.
    Thông thường trong khi làm công tác chủ nhiệm lớp, GVCN thường quan
    tâm đến những đối tượng học sinh biệt nổi trội mà ai cũng nhìn thấy được, từ
    đó GVCN tìm hiểu tính cách biệt của các em do những nguyên nhân nào để
    hướng giáo dục thích hợp. những trường hợp học sinh biệt nhưng
    không có biểu hiện rõ, khó phát hiện nhiều khi GVCN cũng lầm tưởng nên chưa
    có được phương pháp giáo dục thích hợp.
    Không ít GVCN lớp cho rằng việc giáo dục HS biệt quả một
    việc cùng khó, nhưng nếu chúng ta dùng tình yêu thương và tâm huyết kết
    hợp với kiến thức nghề nghiệp để giáo dục học sinh thì không gì là khó cả.
    Qua tìm tòi học hỏi đồng nghiệp, tham khảo phương pháp giáo dục trên
    các tạp chí, sách báo vận dụng vào quá trình công tác chủ nhiệm lớp bản thân
    tôi cũng rút ra được một vài kinh nghiệm. Trong phạm vi đề tài này tôi xin được
    trao đổi với các bạn đồng nghiệp, mong muốn được góp một phần nhỏ của
    mình tạo nguồn dồi dào về biện pháp giáo dục học sinh góp phần nâng cao hơn
    nữa thực chất chất lượng giáo dục hiện nay.
    II. Nội dung và phương pháp.
    1.Khái niệm về học sinh cá biệt :
    Học sinh biệt thuật ngữ thường dùng của nhà trường, thầy cô giáo
    chỉ những học sinh nghịch ngợm : thường gây gỗ đánh nhau, bỏ giờ, trốn học
    , không chấp hành nội qui nhà trường, thêm vào đó sự lôi kéo của bạn
    về phía mình nhằm thỏa mản cá tính hoặc thỏa mản nhu cầu giải tỏa tâm lý bị ức
    chế về hoàn cảnh của bản thân mình . Học sinh cá biệt là hiện tượng tâm lý ở lứa
    tuổi thanh thiếu niên, nó dễ bị lôi cuốn làm cho HS dễ bị tiêm nhiễm những thói
    tật xấu dẫn đến tình trạng bhọc giữa chừng nguy cơ phạm tội nỗi
    day dứt của nhà trường, gia đình và xã hội.
    2. Tình hình HSCB ở trường THCS :
    Qua theo dõi đã phát hiện những năm gần đây, hiện tượng HSCB
    phần gia tăng nhiều cấp độ khác nhau như lễ với thầy, giáo, đánh
    thầy giáo khi ra hội những trường hợp trộm cắp, tiêm chích xa vào các
    tệ nạn xã hội…để cuối cùng trở thành những “sản phẩm thừa” của xã hội.
    Bản chất con người mỗi học sinh lương thiện trong sáng, ngây thơ,
    hồn nhiên, nhưng do những yếu tố khác nhau m ảnh hưởng đến đời sống, tâm
    của học sinh nên các em những biểu hiện khác nhau như vậy. lứa tuổi
    này các em rất cần sự hỗ trợ, vấn của người lớn hay nói cách khác các em
    cần sự giáo dục và các em rất cần đến chúng ta đến những người thầy giáo,
    cô giáo, muốn đạt được hiệu quả giáo dục cao chúng ta cần m huyết, năng
    động sáng tạo đồng thời sự kiên trì,thật sự kiên trì giáo dục học sinh bằng
    “cái tâm” của nhà giáo nhất định chúng ta sẽ thành công.
    Có rất nhiều yếu tố, hiện tượng làm nảy sinh những tư tưởng, tình cảm
    không lành mạnh ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách làm hạn chế đến
    Trang 3
  • 3
    năng lực học tập của các em m cho các em trở thành HSCB, những yếu tố,
    những hiện tượng đó không phải hiện tượng ngẫu nhiên hoặc tình ccó,
    tất cả đều những nguyên nhân nhất định. Có thể rút ra được một số nguyên
    nhân chủ quan và khách quan cơ bản sau đây:
    3.Nguyên nhân:
    a. Nguyên nhân về phía gia đình:
    Ảnh hưởng của môi trường giáo dục gia đình. Phải nói rằng thời gian
    mà các em sống với gia đình khoảng thời gian dài nhất, chính thế môi
    trường sống của gia đình ảnh hưởng rất lớn đối với các em, những thái độ,
    hành vi, cách xử trong gia đình snh thành cho các em nền móng để các
    em tiếp xúc ngoài hội. Những em thiếu may mắn sinh ra trong gia đình cha
    m bất hoà, cách cư xử của cha mẹ thô bạo, rượu chè bê bết... đã tạo cho các em
    mt ấn tượng không tốt điều đó thể dẫn đến tình trạng HS trở nên lầm ít
    nói, em ảnh hưởng những thói quen không tốt đó cũng những hành vi cử
    xử không tốt với mọi người....Hình thành nên tính cách cá biệt trong HS.
    Ảnh hưởng do gia đình hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Từ những khó
    khăn về đời sống kinh tế, cha mphải lao động vất vả, không quan tâm đến việc
    học tập của con em, phó mặc cho nhà trường, gia đình buộc con cái phải lao
    động, làm cho các em không có thời gian học tập ở nhà như soạn bài, học bài cũ,
    do đó khi đến lớp việc tiếp thu bài mới rất khó khăn, không làm được bài kiểm
    tra, lo lắng sợ sệt khi thầy cô giáo kiểm tra bài cũ .. từ đó thua sút bạn bè và phát
    sinh tâm lí chán học dẫn đến bỏ giờ trốn học, bỏ học.
    Ảnh hưởng do gia đình chỉ lo làm ăn, không quan tâm đến việc học của
    con cái . Nhiều gia đình kế sinh nhai, cả vợ chồng đều đi làm ăn xa, phó mặc
    con cái cho ông hoặc chị em chăm sóc lẫn nhau, một số HS chưa tự giác
    thiếu sự quản lí chặt chẽ của người lớn nên nảy sinh những tưởng không lành
    mnh, từ đó ham chơi mà trốn học, bỏ học .
    b. Nguyên nhân về phía nhà trường.
    Đây là ngôi nhà thứ hai của các em, nơi để phụ huynh gởi gắm niềm tin
    vào việc giáo dục con em của họ, từ đây các em được học tập, được hiểu biết,
    được lớn lên về mọi mặt. Nhưng để đạt được đúng như điều vừa nêu cũng không
    phải dễ, trong thực tế cũng có một vài trường chưa thực hiện được chức năng
    ngôi nhà thứ hai của các em, bởi vẫn còn đâu đó những thầy giáo chưa
    nhiệt tình, chưa thật sự yêu nghề, chưa có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục nên
    chưa nhiệt tình với các em, chưa thật sự nơi đáng tin cy. Cũng một vài
    thầy cô giáo do cách xử chưa phù hợp xúc phạm học sinh, đối xử thiếu công
    bằng với các em, ngại khó khi phải giáo dục những em cá biệt, cáu giận, sĩ nhục
    học sinh... đã làm mất lòng tin ở các em, tạo ra một khoảng cách không đáng
    giữa thầy và trò và chính điều này đã dẫn đến biểu hiện tiêu cực từ phía HS.
    c. Nguyên nhân về phía môi trường xã hội.
    Ngoài môi trường gia đình nhà trường ra, học sinh còn phụ thuộc rất
    lớn vào môi trường hội. Hiện nay do sự phát triển kinh tế - hội, sự phát
    Trang 4
  • 4
    triển của mạng lưới thông tin hiện đại, sự du nhập của nhiều loại nh văn hoá
    khác nhau đã ảnh hưởng không ít đến tầng lớp thanh thiếu niên. Các loại hình
    dịch vụ như Internet, bi da, caraoke... đã lôi kéo không ít học sinh vào đam
    những trò chơi bổ. Hiện tượng học sinh trốn học để chơi điện tử, bi da, đánh
    bạc... là chuyện thường ngày, có cem hết tiền nảy sinh hành vi trộm cắp, cướp
    giật.
    d. Nguyên nhân chủ quan về phía bản thân các em.
    Những HS biệt ta thường gặp phần lớn những em năng lực học
    tập yếu kém, điều đó cũng hoàn toàn dễ hiểu bởi nhận thức của các em m thì
    làm sao có hành động tốt được. Việc hạn chế trong tiếp thu kiến thức của các em
    cũng dẫn đến slười biếng, chán nản, muốn phá phách, nhất là đối với HS nam.
    Xét ở một khía cạnh khác thì cũng có thể các em vì tự ái về sự chê cười của thầy
    cô và bè bạn hoặc các em muốn thầy cô chú ý mình hơn chẳng hạn, chính vì thế
    mà các em những hành động vượt ra khỏi những quy định của trường, của
    lớp.
    Từ việc nghiên cứu các dạng HS cá biệt và những nguyên nhân dẫn đến tình
    trạng ấy, tôi tìm ra những phương pháp tối ưu để từng bước cảm hoá giáo dục
    các em. Sau đây một vài kinh nghiệm của bản thân trong việc giáo dục HS cá
    biệt mà tôi muốn trao đổi cùng đồng nghiệp qua đề tài này:
    4. Biện pháp:
    - Ngoài việc đy mạnh các hoạt động giáo dục thông qua các tiết sinh hoạt
    lớp, sinh họat Đội, 15 phút đầu giờ, các hoạt động ngoại khoá ...để giáo dục
    hạnh kiểm học sinh. Tuy vậy đối với học sinh biệt ngoài những biện pháp
    giáo dục chung, GVCN cũng cần có biện pháp giáo dục đặc thù.
    Việc giáo dục các đối tượng học sinh biệt không đơn thuần nhìn
    nhận những biểu hiện bên ngoài của các em cần phải tìm hiểu nguyên nhân
    dẫn đến các hành động thiếu chuẩn xác, khi đã xác định được nguyên nhân
    chúng ta mới tìm ra biện pháp giáo dục phù hợp.
    - Giáo dục HS thông qua giờ sinh hoạt lớp :
    Để cho HS nắm bắt được việc đánh giá xếp loại hạnh kiểm (HK) tức những
    chuẩn mực các em đạt được trong quá trình rèn luyện hạnh kiểm của mình, giáo
    viên cần phải thông báo cho các em biết được các mức độ xếp loại HK ( tốt, khá,
    trung bình, yếu ) theo Thông tư 58 . Hiểu được thì các em sẽ tránh được vi phạm
    mà các em mắc phải, để rồi các em khỏi phải bị xếp loại HK yếu, khỏi phải liệt
    vào danh sách HSCB
    Tổ chức cho HS thảo luận nội qui nhà trường hướng dẫn cho các em
    thực hiện nội qui, có chế độ khen chê công bằng, khách quan .
    Trong buổi chào cờ đầu tuần, cần phải đánh giá nhận xét chu đáo, nêu
    gương người tốt, việc tốt để các em noi theo, hạn chế những vi phạm nội qui lớp
    học , trường học .
    - Phối hợp với các Đoàn thể các lực lượng khác trong hội: Hiện nay
    địa phương đã hình thành các khu dân nhiều nơi đã y dựng khu dân
    cư, thôn văn hóa, đó điều kiện tốt để các Đoàn thể ng với nhà trường, qua
    Trang 5

Mô tả:

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng