Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông skkn PHÁT HUY VAI TRÒ TÍCH CỰC CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI, ...

Tài liệu skkn PHÁT HUY VAI TRÒ TÍCH CỰC CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI, NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG CÁCH NHÌN NHẬN, ĐÁNH GIÁ VỀ TÁC GIA VĂN HỌC NGUYỄN TRÃI QUA VIỆC TỰ NGHIÊN CỨU HÌNH TƯỢNG “TRĂNG” & “HOA” TRONG THƠ NGUYỄN TRÃI

.DOC
49
1296
54

Mô tả:

SỞ GD-ĐT NAM ĐỊNH TRƯỜNG THPT LÝ NHÂN TÔNG BÁO CÁO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM PHÁT HUY VAI TRÒ TÍCH CỰC CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI, NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG CÁCH NHÌN NHẬN, ĐÁNH GIÁ VỀ TÁC GIA VĂN HỌC NGUYỄN TRÃI QUA VIỆC TỰ NGHIÊN CỨU HÌNH TƯỢNG “TRĂNG” & “HOA” TRONG THƠ NGUYỄN TRÃI Tác giả: Đào Thị Diệu Linh Trình độ chuyên môn: Cử nhân Chức vụ: Giáo viên Nơi công tác: Trường THPT Lý Nhân Tông Nam Định, tháng 5 năm 2016 1. Tên sáng kiến: Phát huy vai trò tích cực của phương pháp dạy học theo đặc trưng thể loại, nâng cao hiệu quả trong cách nhìn nhận, đánh giá về Tác gia văn học Nguyễn Trãi qua việc tự nghiên cứu hình tượng “trăng” & “hoa” trong thơ Nguyễn Trãi 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phương pháp giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong trường THPT. 3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Trong năm học 2014-2015 và năm học 2015-2016. 4. Tác giả: Họ và tên: Đào Thị Diệu Linh Năm sinh: 25/07/1989 Nơi thường trú: Yên Phong - Ý Yên - Nam Định Trình độ chuyên môn: Cử nhân Chất lượng cao Sư phạm Ngữ văn Chức vụ: Giáo viên – Nhóm trưởng nhóm Ngữ văn Nơi làm việc: Trường THPT Lý Nhân Tông Điện thoại: 0917171609 Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100% 5. Đồng tác giả: Không 6. Đơn vị áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Tên đơn vị: Trường THPT Lý Nhân Tông Địa chỉ: Xã Yên Lợi - Huyện Ý Yên – Tỉnh Nam Định Điện thoại: 03503. 963. 939 Đào Thị Diệu Linh Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015-2016 PHẦN MỞ ĐẦU . I ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN .1 Từ thực tiễn yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) nói chung & phương pháp dạy học Ngữ văn nói riêng .1.1. Thực tiễn đổi mới PPDH  Ngày 05/5/2006, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số 16/2006/BGDĐT nêu rõ những định hướng đổi mới phương pháp giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên thực hiện việc đổi mới PPDH. Trong những năm qua, Bộ GD&ĐT đã trực tiếp chỉ đạo việc thực hiện đổi mới PPDH, đổi mới kiểm tra, đánh giá theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong đó, yêu cầu giáo viên tăng cường tổ chức các hoạt động nhận thức cho học sinh, hướng dẫn phương pháp tự học cho các em.  Theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học mà Bộ GD&ĐT đề ra nhằm phát huy vai trò của người học, PPDH phải nhằm phát triển tối đa sự suy nghĩ độc lập của HS, kĩ năng đạt đến và vận dụng tri thức, đã khiến mỗi người giáo viên phải tự tìm tòi những phương pháp đặc trưng, vừa đáp ứng với nhu cầu đổi mới, vừa phù hợp với đối tượng học sinh nhằm đạt hiệu quả cao trong giảng dạy. .1.2. Thực tiễn sử dụng các phương pháp dạy học môn Ngữ văn  Việc sử dụng phương pháp nào trong quá trình dạy học chịu sự chi phối của những yếu tố sau: Nội dung bài học, vị trí của bài học trong chương trình, lượng thời gian cho phép, trình độ HS, mục đích cần đạt được của bài học. Ðây là những yếu tố mà người GV ần cân nhắc kĩ khi soạn bài.  Trong quá trình dạy học Ngữ văn, người dạy chủ yếu sử dụng các phương pháp: + Phương pháp đọc tác phẩm (Việc tiếp nhận tác phẩm phải bắt đầu từ việc đọc: đọc thành tiếng và không thành tiếng. Ðọc là một trong những hình thức giảng dạy tác phẩm một cách trực quan, tác động đến trí tưởng tượng, cảm xúc của người nghe, làm sống dậy những ngôn từ chết, làm cho người nghe nhìn thấy cái đã nghe được) + Phương pháp diễn giảng (Là phương pháp trình bày, thông báo có hệ thống một vấn đề mới cho HS, HS tiếp thu kiến thức sau đó tái hiện lại kiến thức đó. Ðây phương pháp dạy học cổ xưa nhất. Ở Việt Nam, cho đến nay, phương pháp này vẫn được sử dụng chủ yếu trong dạy học, nhất là dạy các môn khoa học xã hội). + Phương pháp đàm thoại (vấn đáp) (là phương pháp GV xây dựng hệ thống câu hỏi cho HS trả lời hoặc trao đổi, tranh luận với nhau dưới sự chỉ đạo của thầy, qua đó tiếp nhận kiến thức. Trong điều kiện thiếu phương tiện, đồ dùng dạy học thì việc sử dụng câu hỏi là một trong những cách thức tiện lợi nhất để kích thích học sinh học tập một cách tích cực.) + Phương pháp trực quan (bảng so sánh, bảng thống kê…) + Phương pháp dạy học nêu vấn đề .1.3. Thực tiễn sử dụng phương pháp dạy học theo đặc trưng thể loại ở trường phổ thông  Trong quá trình tìm tòi phương pháp đổi mới cách dạy và học tôi nhận thấy việc dạy học theo đặc trưng thể loại vừa đáp ứng phương pháp đặc thù của bộ môn, vừa truyền thống vừa, vừa hiện đại, lại rất khả thi, đang được nhiều trường THCS, THPT trong cả nước áp dụng. Đào Thị Diệu Linh Trang 1 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015-2016  Tuy nhiên từ thực tế dạy học của bản thân và qua việc dự giờ thăm lớp đồng nghiệp, chúng tôi thấy: việc dạy – học theo đặc trưng thể loại ở các tác phẩm lớp 10 phổ thông cơ bản đã được chú ý nhưng do hạn chế về thời lượng phân phối nên chỉ lướt qua, chưa thực sự có điều kiện hình thành cho HS kĩ năng khai thác tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại. Qua việc tìm hiểu và vận dụng trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy PPDH này đã thật sự đem lại “luồng sinh khí mới” cho học sinh trong quá trình dạy học bộ môn Ngữ văn . Hơn nữa nó góp phần thúc đẩy tư duy tiếp cận, đọc hiểu văn bản cũng như kĩ năng bộ môn; phát triển năng lực tự học tích cực, chủ động cho học sinh. Bởi vì phương pháp này không chỉ lôi cuốn, hấp dẫn với học sinh, mà nó còn là một PPDH hiệu quả, khoa học, dễ sử dụng và có thể sử dụng rộng rãi ở tất cả các khâu trong quá trình dạy học . .2 Thực tiễn dạy & học tác phẩm trữ tình trung đại  Các tác phẩm trữ tình trung đại trong chương trình phổ thông tương đối nhiều, có tính hệ thống. + Từ người tiếp nhận: Phần lớn học sinh dù ở bậc THPT nhưng thói quen, nếp nghĩ đã ăn sâu tiềm thức khi đứng trước yêu cầu đọc hiểu, tiếp nhận một vấn đề văn học bao giờ cũng tư duy theo thói quen, lối mòn. Cho nên, học sinh thường khá lúng túng trong thao tác đọc hiểu các tác phẩm trữ tình trung đại từ khâu xác định vấn đề cho đến cách đọc từng phần và quá trình làm bài tập vận dụng. Còn nếu học sinh đã có một số hiểu biết cơ bản về đọc – hiểu các tác phẩm trữ tình trung đại (trong bài Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X-XIX) nhưng nếu không được thường xuyên củng cố, thực hành qua các văn bản cụ thể các em sẽ không có những kiến thức công cụ cần thiết để đọc – hiểu các văn bản ngoài chương trình cũng như sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong khâu tự học, tự nghiên cứu, tiếp cận & khám phá tri thức liên quan. + Xuất phát từ phía người dạy: trên thực tế có nhiều giáo viên giảng dạy viên thường chú trọng đến các yếu tố về nội dung tư tưởng hơn là các yếu tố nghệ thuật của tác phẩm. Mặt khác nhiều yếu tố của tác phẩm trữ tình trung đại như quan niệm, tính ước lệ tượng trưng, cảm thức về thế giới con người thời trung đại Việt Nam, … bị coi nhẹ. Nhiều giáo viên giảng dạy chủ yếu dựa vào sách giáo viên. Dù đây là bộ sách có nhiều mặt mạnh, nó là tài liệu định hướng quan trọng cho mỗi bài giảng của giáo viên, tuy nhiên đó mới chỉ là những gợi ý rất chung chung, người thầy cần định lượng kiến thức để dạy cho phù hợp. Một số chưa biết lựa chọn những kiến thức cơ bản, bài giảng chưa phù hợp với đối tượng học sinh, tham kiến thức mà chưa áp dụng lý thuyết loại thể, dẫn đến hứng thú học văn của học sinh chưa được phát huy.. Hầu như hoạt động liên môn để mở rộng kiến thức, đào sâu hiểu biết của học sinh với loại hình nghệ thuật tổng hợp này ít có.  Kết quả là học sinh học xong văn bản nào biết văn bản ấy, hiểu về vị trí, vai trò của tác giả văn học một cách đơn thuần, máy móc. .3 Thực tiễn vị trí tác gia văn học Nguyễn Trãi Trong chương trình THCS và THPT, Nguyễn Trãi là một tác gia rất quan trọng. Giáo viên và học sinh không những được học những áng văn chính luận rất hào hùng như “Bình Ngô Đại Cáo” mà còn được tiếp xúc với những vần thơ chan chứa cảm xúc, thấy rõ được chân dung giản dị với những tâm sự thầm kín của “một con người trần thế nhất trần gian” (PGS. TS Lã Nhâm Thìn) mà Quốc âm thi tập chính là bức chân dung tự họa đầy đủ nhất. Đào Thị Diệu Linh Trang 2 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015-2016 Nghiên cứu Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi từ góc độ nghệ thuật còn giúp chúng tôi giảng dạy môn Ngữ văn trong trường học nói chung và nhà trường phổ thông nói riêng tốt hơn. Bởi vì, di sản văn chương của ông được đưa vào giảng dạy trong trường phổ thông ở khá nhiều lớp với nhiều tác phẩm khác nhau, trong đó có một số bài ở hai tập thơ trên. Hơn nữa, việc tìm hiểu về Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi hiện nay và mãi mãi về sau sẽ còn phải tiếp tục để khám phá sâu sắc hơn nữa giá trị của tác phẩm quý giá này, nhằm tôn vinh Ức Trai – một danh nhân vĩ đại đem lại cho chúng ta lòng tự hào, khâm phục. Trong bài “Cảm tưởng đọc thiên gia thi”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết : Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp Mây, gió, trăng, hoa, tuyết núi, sông. Quả thật như vậy! Các nhà thơ xưa thường yêu cái đẹp, mà cái đẹp phong phú, gần gũi thi nhân nhất đó chính là thiên nhiên.Thi nhân thường để tâm hồn mình đi theo những áng mây bay, một dòng nước chảy, một ánh trăng ngần và lòng thi nhân vui tươi rộn rã khi nhìn thấy mặt trời lên, khi nghe tiếng chim ca, khi nhìn thấy hoa nở. Thiên nhiên với tất cả những vẻ tươi thắm nhất của nó đã bước vào thơ một cách tự nhiên như vậy. Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc đã làm rạng danh cho đất nước ta, không chỉ là một nhân vật lịch sử có tầm cỡ vĩ đại, mà còn là một nhà văn hóa lớn, một tâm hồn thơ lai láng! Nguyễn Trãi là một thi nhân nên Nguyễn Trãi cũng yêu thiên nhiên, ca tụng thiên nhiên. Có lẽ thiên nhiên mới thật sự là nơi cho tâm hồn thơ của ông bay bổng, nên ông tìm về với thiên nhiên, gạt bỏ tiếng gươm khua, ngựa hí của chiến tranh, vượt lên trên những xúc xiểm, tỵ hiềm của chốn quan trường, và cả những lời “thế nghị khen” ở giữa cuộc đời. Tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Trãi là một tình yêu mãnh liệt, nhưng cũng rất thâm trầm, sâu sắc, bàng bạc huyền diệu như tấm lòng của thi nhân. Nguyễn Trãi là người có ảnh hưởng rất lớn đến các sáng tác của các nhà thơ lớn sau này. Đồng thời ông cũng có công rất lớn được đánh giá là người “khai sơn phá thạch” trong việc hoàn thiện chữ Nôm - một thứ ngôn ngữ của dân tộc, đưa nó vào sáng tác văn học tạo thành một dòng văn học phát triển rực rỡ với tên gọi là Thơ Nôm Đường luật. Dòng thơ đặc sắc này đã để lại cho nền văn học dân tộc rất nhiều tên tuổi bất hủ như: Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Tú Xương… Trong lịch sử văn học Việt Nam, dễ thường ít có ai yêu thiên nhiên đến tha thiết, cháy bỏng, có nhiều và có thơ hay về thiên nhiên như Nguyễn Trãi, trở về sau họa có Nguyễn Du. Nhưng đề tài thiên nhiên trong thơ Nguyễn Du không cụ thể và không tập trung bằng. Còn thơ về thiên nhiên thì lại chiếm cái phần phong phú nhất và cũng rất thành công trong toàn bộ di sản thơ của Nguyễn Trãi. Ở đó, ta bắt gặp hình ảnh Nguyễn Trãi say sưa thưởng thức trước những cảnh nước non kì diệu, cùng lòng tự hào trước giang sơn cẩm tú của đất nước, đây cũng chính là một khía cạnh của lòng tự hào dân tộc. Mặc dù viết nhiều và viết hay về thiên nhiên nhưng Nguyễn Trãi thường tập trung tới hai đối tượng đặc biệt nhất của thiên nhiên là trăng và hoa. Nhìn vào toàn bộ hai tập thơ Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập, chúng ta thấy một ánh trăng dịu mát, tươi sáng phủ lên những cành mai, khóm trúc, bụi hòe. Thiên nhiên giao hòa, trăng – hoa quấn quýt. Cảnh vật hữu tình lần lượt hiện ra qua ngòi bút thiên tài và tấm lòng say sưa cảnh đẹp của thi nhân. Có thể nói, Nguyễn Trãi đã dùng rất nhiều bút lực để sáng tác ra những vần thơ kì diệu nhất về hình ảnh trăng và hoa. Đối Đào Thị Diệu Linh Trang 3 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015-2016 với thi nhân đây chính là hai vẻ đẹp tuyệt vời nhất của tạo hóa và là nơi Nguyễn Trãi có thể trút bầu tâm sự, thể hiện được ý chí, tài năng cũng như phẩm chất của mình. Nó tạo nên nét riêng cho thơ Nguyễn Trãi và giúp ta hiểu nỗi lòng của một thi nhân cách ta hơn 600 năm về trước. Đặc biệt hơn, những vần thơ viết về trăng và hoa trong hai tác phẩm Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập đến ngày nay vẫn làm rung động hàng triệu trái tim người đọc, đem lại cho ta những khám phá và hiểu biết mới mẻ về thiên nhiên nói riêng và con người Nguyễn Trãi nói chung. Bên cạnh những áng văn bất hủ Nguyễn Trãi đã để lại một di sản thơ vô cùng quý báu đó là Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập. Hai tập thơ này đã hội tụ được nhiều giá trị về nội dung và nghệ thuật, khai thông cho nền thơ ca tiếng Việt. Chọn đề tài Phát huy vai trò tích cực của phương pháp dạy học theo đặc trưng thể loại, nâng cao hiệu quả trong cách nhìn nhận, đánh giá về Tác gia văn học Nguyễn Trãi qua việc tự nghiên cứu hình tượng “trăng” & “hoa” trong thơ Nguyễn Trãi , chúng tôi muốn làm sáng tỏ vị trí của Nguyễn Trãi, cũng như những giá trị nội dung - nghệ thuật của tập thơ trong dòng chảy của thơ trung đại và ảnh hưởng của tác giả đến với các nhà thơ sau này. Đây là một hướng nghiên cứu chuyên biệt, đánh giá một cách tương đối hệ thống và toàn diện thành công nghệ thuật của Nguyễn Trãi trong việc khắc họa hai hình tượng đặc trưng của thơ trung đại là trăng và hoa. Từ đó, soi chiếu vào nội dung thấy được giá trị và đóng góp của tác giả trong dòng văn học trung đại Việt Nam. Có thể coi, hướng nghiên cứu này khá mới mẻ và đem lại nhiều ưu thế hơn so với những công trình trước trong việc đánh giá vị trí của một tác giả văn học. Hình tượng trăng và hoa là hai tín hiệu nghệ thuật thẩm mỹ xuất hiện nhiều lần trong thơ của Ức Trai. Đi sâu tìm hiểu hai tín hiệu nghệ thuật quan trọng này sẽ góp phần khai mở cánh cửa giúp ta khám phá được thế giới tâm hồn đầy mâu thuẫn của thi nhân, vừa sống hòa mình với thiên nhiên tạo vật nhưng lúc nào cũng canh cánh một tấm lòng ưu ái mong được giúp nước cứu đời. Đồng thời hai hình tượng đặc trưng này giúp người đọc thấy được nghệ thuật miêu tả thiên nhiên rất tài hoa và đạt đến chuẩn mực của Nguyễn Trãi. Qua đó cũng thấy được đặc trưng của thi pháp văn học trung đại Việt Nam nói chung. Vì vậy, tôi viết đề tài SKKN: Phát huy vai trò tích cực của phương pháp dạy học theo đặc trưng thể loại, nâng cao hiệu quả trong cách nhìn nhận, đánh giá về Tác gia văn học Nguyễn Trãi qua việc tự nghiên cứu hình tượng “trăng” & “hoa” trong thơ Nguyễn Trãi (Ban cơ bản) để cùng trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm với các đồng nghiệp. . II THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN .1 Thực trạng việc giảng- dạy các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam trong nhà trường THPT hiện nay. .1.1. Về việc dạy của giáo viên: Chúng ta đều biết rằng văn học Trung đại là bộ phận văn học đồng hành với sự phát triển của xã hội phong kiến. Trong các tác phẩm đều viết bằng ngôn ngữ Hán văn cổ hay chữ Nôm có phần xa lạ với ngôn ngữ Tiếng Việt hiện đại ngày nay. Vì vậy tìm hiểu, phân tích một tác phẩm văn học Trung đại là việc làm không đơn giản. Trong những năm vừa qua đội ngũ giáo viên dạy văn nói riêng đã được trang bị nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực đã thực sự mang lại hiệu quả tốt. Mặc dù vậy vẫn còn những hạn chế trong cách vận dụng phương pháp từ đội ngũ. Bản thân những người dạy văn về cơ bản đã tận tâm tận lực với nghề, tích cực nghiên cứu tìm hiểu các kiến thức. Tuy nhiên với sự đa dạng và phức tạp của văn học Trung đại thì hiệu Đào Thị Diệu Linh Trang 4 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015-2016 quả dạy phần văn học này vẫn không tránh khỏi những hạn chế. Các điển tích, điển cố của văn học trung đại là phức tạp và đa nghĩa. Vì vậy đòi hỏi phải có một tư duy hết sức khoa học, hết sức sáng tạo đối với đội ngũ giáo viên khi thực hiện phần văn học quan trọng này. .1.2. Việc học của học sinh: Thể loại, thi pháp văn học cổ có nhiều xa lạ với thi pháp văn học đương đại nên đó là điều khó khăn cho học sinh tiếp nhận.Vốn sống kinh nghiệm thực tế học sinh còn ít, học sinh khó khăn khi tái hiện hoàn cảnh xã hội, hiểu các điển tích, điển cố được sử dụng trong tác phẩm văn học cổ. Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển đi lên của đât nước, chúng ta có những thành tựu quan trong về lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên với cơ chế nền kinh tế thị trường đã tạo ra những phức tạp và những ảnh hưởng không lành mạnh đối với đời sống con người, nhất là thế hệ trẻ. Đặc biệt là đối tượng học sinh, trong đó có học sinh bậc trung học cơ sở. Một bộ phận lớn học sinh chịu ảnh hưởng của các yếu tố tiêu cực của XH chi phối nên ý thức học tập không cao, thiếu tự giác. Trong khi đó, phần văn học trung đại là phần văn học khó nhất. Vì thế, chất lượng học sinh thuyên giảm. Ngoài ra, sự quan tâm, cách nhìn nhận của phụ huynh học sinh là sính học các môn Khoa học tự nhiên cũng có những ảnh hưởng không tích cực đến việc nỗ lực phấn đấu của học sinh đối với môn Ngữ văn. Điều đó càng đòi hỏi phải có những giải pháp tích cực để nâng cao chất lượng học bộ môn ngữ văn của học sinh, trong đó có phần văn học trung đại Việt Nam .2 Thực trạng nghiên cứu về tác gia văn học Nguyễn Trãi Trải qua hơn sáu thế kỉ tiếp nhận, nghiên cứu và phát huy những giá trị tinh thần mà Nguyễn Trãi để lại; có thể nói các thế hệ đã nối tiếp nhau tìm hiểu và hoàn chỉnh dần chân dung người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi. Nhưng việc nghiên cứu tìm hiểu thơ văn Nguyễn Trãi một cách có hệ thống mới chỉ thực sự được bắt đầu từ sau những năm 50 của thế kỉ XX. Bởi vì di sản thơ của Nguyễn Trãi ra đời vào thế kỷ XV nhưng đã bị thiêu hủy, thất tán rồi được người đời sau chép lại, sưu tầm lại. Từ đó mới được một số học giả phiên âm, chú giải và giới thiệu rộng rãi tới bạn đọc. Tìm hiểu tập thơ phục vụ cho đề tài báo cáo, chúng tôi thấy không thể không đề cập đến tình hình sưu tầm di cảo của Ức Trai được. Đây là một trường hợp đặc biệt có một không hai trong lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử văn học Việt Nam nói riêng. Di sản văn học của Ức Trai cũng vấp phải số phận long đong lận đận như chính cuộc đời ông vậy. Trong đó có hai vấn đề cần phải giải quyết là Tình hình văn bản và Tình hình nghiên cứu. Vì vậy, trong phần thực trạng trước khi tạo ra sang kiến, chúng tôi sẽ lần lượt trình bày hai vấn đề này để chúng ta có một cái nhìn toàn cảnh về sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Trãi. Tiếp theo chúng tôi sẽ khảo sát lịch sử nghiên cứu thiên nhiên bởi hình tượng trăng và hoa là một bộ phận trong chủ đề viết về thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi. Cuối cùng chúng tôi sẽ lược khảo những công trình nghiên cứu trực tiếp về hình tượng trăng và hình tượng hoa trong thơ Nguyễn Trãi. .2.1. Tình hình văn bản Quốc âm thi tập và Ức Trai thi tập .2.1.1. Tình hình sưu tập văn bản “Quốc âm thi tập” và “Ức Trai thi tập” sau thảm án Lệ Chi Viên Vào năm 1442, di sản thơ của Nguyễn Trãi phải chịu chung án “tru di tam tộc” với tác giả cho nên việc sưu tầm tác phẩm hết sức khó khăn, phức tạp. Đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông mới giải oan cho Nguyễn Trãi và sau đó xuống chiếu cho người đi sưu tầm các sáng tác của Ức Trai. Trần Khắc Kiệm là người đầu tiên theo Đào Thị Diệu Linh Trang 5 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015-2016 lệnh Lê Thánh Tông đi sưu tầm những sáng tác bị thiêu hủy của Nguyễn Trãi, nhưng sau đó những bản sưu tầm được lại bị thất tán. Phải đến nửa sau thế kỷ XIX, Dương Bá Cung (năm Tự Đức thứ 21 – 1868), người đã để lòng để sức vào việc sưu tầm mới đem lại nhiều khả quan: Tác phẩm của Nguyễn Trãi do Dương Bá Cung sưu tầm được 7 quyển, có 256 tờ, tờ đầu đề ghi tên sách: Ức Trai thi tập, sách có ba bài tựa của Nguyễn Năng Tĩnh, Ngô Thế Vinh, Dương Bá Cung. Đến năm 1958, hai ông Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm đã cho ra đời bản phiên âm và chú giải (Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1958). Sau đó, nhà sử học nổi tiếng Đào Duy Anh lại tiến hành phiên âm, chú giải để đưa đến cho người đọc một bản Quốc âm thi tập “kĩ lưỡng, chi li, chứa đựng những tri thức bách khoa, những phát hiện sáng giá”, được Viện sử học xuất bản năm 1967. Năm 1971, Nxb Thời Mới, Sài Gòn xuất bản Nguyễn Trãi toàn tập do Hoàng Khôi biên soạn, phiên âm, chú giải. Năm 1997, Nxb Văn học cho ra mắt cuốn “Nguyễn Trãi thơ và đời”. Gần đây nhất, nhóm tác giả Mai Quốc Liên - Kiều Thu Hoạch - Vương Lộc - Nguyễn Khuê, (1999-2001), xuất bản cuốn “Nguyễn Trãi toàn tập tân biên”, Nxb Văn học, Hà Nội được xem là một công trình dày công nghiên cứu và hoàn thiện hơn cả. .2.1.2. Những văn bản phiên âm, chú giải tác phẩm Quốc âm thi tập và Ức Trai thi tập Qua việc tìm hiểu những văn bản trong Quốc âm thi tập và Ức Trai thi tập đã được phiên âm, chú giải, chúng tôi nhận thấy những điểm cơ bản sau: Bản của Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm là văn bản có công khai phá, là một công trình “vỡ hoang”. Hai ông có công rất lớn trong việc giới thiệu di sản thơ Nguyễn Trãi đến với bạn đọc. Nhưng công trình vẫn còn để lại rất nhiều chữ, nhiều câu mà người kế tục phải ra công giải quyết. Bản “Nguyễn Trãi toàn tập” do Đào Duy Anh phiên âm, chú giải, theo chúng tôi là bản có độ tin cậy cao bởi được một người có kiến thức sâu rộng, am hiểu nhiều lĩnh vực toàn tâm toàn lực thực hiện. Tuy nhiên, khi đối chiếu với các bản khác, chúng tôi thấy có chỗ vẫn chưa thật hợp lý lắm, chưa đáp ứng được yêu cầu nghiêm túc của văn bản học, và vẫn chưa thể thực sự yên tâm với sự phiên âm và chú giải trong ấy, nổi bật là vấn đề cứ liệu và hệ thống. Bản của Hoàng Khôi là một bản phiên âm chú giải công phu, phần phiên âm, chú giải Quốc âm thi tập khá kỹ lưỡng, đủ độ tin cậy để có thể tham khảo, sử dụng. Bản “Thơ quốc âm của Nguyễn Trãi” - Bùi Văn Nguyên là một bản phiên âm, chú giải khá cụ thể của một chuyên gia nghiên cứu và giảng dạy về tác phẩm văn chương của Nguyễn Trãi gần như trọn đời nên độ tin cậy cũng khá cao. “Nguyễn Trãi thơ và đời” do Hoàng Xuân tuyển soạn là một bản sưu tập từ các bản khác đã công bố vì vậy chỉ phục vụ mục đích tham khảo. Bản “Nguyễn Trãi toàn tập tân biên” theo chúng tôi là một bản công phu, kết hợp được không những trí tuệ của tập thể nhóm biên soạn với những hiểu biết sâu rộng mà còn tiếp thu được trí tuệ, phương pháp của những bậc thầy đi trước, chú giải tỉ mỉ hơn, hoàn chỉnh hơn, có sự so sánh nên phiên âm, chú giải hợp lý chính xác. Đây là một bản đáng tin cậy. Vậy chúng tôi chủ yếu dựa vào hai bản phiên âm, chú giải: Bản của Đào Duy Anh và bản của nhóm Mai Quốc Liên. Trong lúc thực hiện báo cáo, nếu có chỗ phiên âm và chú giải không thống nhất giữa hai bản này thì chúng tôi xem xét, tham khảo thêm bản của Trần Văn Giáp - Phạm Trọng Điềm và bản của Bùi Văn Nguyên để chọn cách hiểu hợp lý nhất. .2.2. Tình hình nghiên cứu Quốc âm thi tập và Ức Trai thi tập .2.2.1. Những bài giới thiệu hai tập thơ Đào Thị Diệu Linh Trang 6 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015-2016 Trong quá trình tìm hiểu, sưu tầm, chúng tôi thấy có những bài giới thiệu về tác phẩm như sau: Tựa Ức Trai thi tập của Nguyễn Năng Tĩnh (năm 1833); Bài tựa tập thơ văn của Tế Văn hầu họ Nguyễn, hiệu Ức Trai của Ngô Thế Vinh (năm 1868); Tựa Ức Trai thi tập của Dương Bá Cung (năm 1868); Lời dẫn về hai tập thơ Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập của Đào Duy Anh (năm 1976); Tựa Nguyễn Trãi và Quốc âm thi tập của Pierr – Richard Feray (năm 1987)… Nguyễn Năng Tĩnh trong lời tựa của mình đã ca ngợi Ức Trai “có tài trí lỗi lạc, có đức độ bao la, khi đem tài đức ấy thi thố ra việc làm, thì là sự nghiệp, thổ lộ ra lời nói, thì là văn chương”. Và “văn chương của tiên sinh tinh vi, thâm thúy, rộng rãi, chính đáng, cứng rắn là tự tiên sinh rèn luyện và phát huy được. Tiên sinh vốn không cố ý đúc chuốt văn chương, nhưng một khi lời nói thổ lộ đều sáng sủa, đẹp đẽ, mạnh mẽ, dồi dào không có cái gì có thể che lấp được”. Tuy Nguyễn Năng Tĩnh đánh giá tài thơ văn của Nguyễn Trãi nói chung nhưng chúng tôi thấy đây lại là những nhận xét xác đáng, đúng với tinh thần của Quốc âm thi tập và Ức Trai thi tập. Học giả Đào Duy Anh khi phiên âm, chú giải Quốc âm thi tập và Ức Trai thi tập đã nhận thấy “có những điểm có thể soi sáng cho một số chỗ còn lờ mờ trong tiểu sử của Nguyễn Trãi”, và chứng minh ba thời điểm trong cuộc đời của Nguyễn Trãi mà chúng ta còn chưa rõ. Ông Pierr – Richard Feray ca ngợi Nguyễn Trãi là “con người “đã tỉnh ngộ” qua tiếp xúc với thiên nhiên, gần gũi với “đám dân đen” mà ông yêu mến và thông hiểu biết mấy, có những lúc đã hài lòng khi phát hiện ra rằng cuộc đời là đáng sống nếu như không đáng…ca ngợi”. Nhìn chung, những bài giới thiệu về Quốc âm thi tập và Ức Trai thi tập chủ yếu đưa ra những nét chính về nội dung và nêu ra một số điểm nhỏ về nghệ thuật, chứ chưa đi sâu phân tích toàn diện để rút ra những giá trị của tập thơ. Vì vậy, những bài giới thiệu đó chỉ có tính chất “mở đường” và gợi ý. .2.2.2. Những bài nghiên cứu về nội dung và nghệ thuật Quốc âm thi tập và Ức Trai thi tập .2.2.2.1. Nghiên cứu về mặt nội dung Nội dung của Quốc âm thi tập và Ức Trai thi tập có nhiều bài viết. Nổi bật là những bài đề cập về con người Nguyễn Trãi. Đáng chú ý là các bài : “Một vài nét về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm” của Hoài Thanh; “Nguyễn Trãi, người đứng đầu một văn phái yêu nước, thân dân, có lý tưởng xã hội cao cả” của Tầm Vu; “Niềm thao thức lớn trong thơ Nguyễn Trãi” của Nguyễn Huệ Chi; “con người Nguyễn Trãi qua thơ văn” của Nguyễn Huệ Chi; “Hồn thơ đa dạng của Nguyễn Trãi” của Tế Hanh, “Vài nét về tư tưởng của Nguyễn Trãi qua thơ văn ông” của Trần Thanh Mại; “Con người cá nhân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi” của Trần Đình Sử; “Nhà tư tưởng và nhà nghệ sĩ trong Quốc âm thi tập” của Trần Ngọc Vương; “Về con người cá nhân trong thơ Nguyễn Trãi” của Nguyễn Hữu Sơn… Con người cá nhân Nguyễn Trãi hiện lên qua cái nhìn của Hoài Thanh là con người phần lớn sống trong cảnh đời không thuận, và “Hình như lúc này, nhà thơ thấy cần hơn lúc khác một cách nói, một giọng nói tâm tình. Ta được gặp lại con người ấy, một con người rất đẹp, mà gần gũi hơn, thân mật hơn”. Và từ đó, Hoài Thanh đi đến khái quát rất đúng về bản chất con người Nguyễn Trãi là người có “ý thức trách nhiệm đối với dân, với nước. Ý thức ấy đã ra đời từ Đào Thị Diệu Linh Trang 7 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015-2016 rất sớm, đã lớn mạnh không ngừng, đã bền bỉ gắn với mọi suy nghĩ và hoạt động của ông cho đến ngày tắt thở”. Xuân Diệu cũng chú ý đến con người có khí phách và cũng là người dịu dàng, con người lo đời, ưu ái của Nguyễn Trãi “Người rất cứng cỏi là Nguyễn Trãi, mà người rất mềm mại cũng là Nguyễn Trãi”. Đây là nhận định đúng đắn, khoa học, tập trung nhất của bài nghiên cứu. Tuy nhiên tác giả lại không triển khai được nó bằng những dẫn chứng cụ thể, xác thực. Về tư tưởng Nguyễn Trãi, Trần Thanh Mại trong “Vài nét về tư tưởng của Nguyễn Trãi qua thơ văn ông” đã chỉ ra tư tưởng của Nguyễn Trãi mặc dù có bi quan, nhưng “ thật tình ra, buồn, bi quan không phải là mặt bản chất của con người Nguyễn Trãi, của thơ Nguyễn Trãi…Trốn tránh, thoát ly, bi quan, tiêu cực chỉ là vạn bất đắc dĩ…Tư tưởng chính của Nguyễn Trãi là “tư tưởng lạc quan cường tráng”, là tư tưởng vì nước vì dân. Tóm lại, về nội dung, những bài nghiên cứu tìm hiểu về thơ Nguyễn Trãi đề cập đến hai vấn đề lớn là con người và tư tưởng Nguyễn Trãi. Có những bài viết cùng nói về một vấn đề nhưng cách thể hiện khác nhau. Đánh giá về thơ Nguyễn Trãi phần lớn là thống nhất. Tuy nhiên, khi phân tích từng bài thơ cụ thể thì sự thống nhất còn chưa cao, thậm chí trái ngược (ví dụ như bài thơ “Cây chuối”). .2.2.2.2. Nghiên cứu về mặt nghệ thuật Có khá nhiều bài viết đề cập đến các khía cạnh khác nhau của nghệ thuật, để thấy được cái hay, cái đẹp, sự độc đáo, tài hoa…của thơ Nguyễn Trãi. Đọc, phân loại, đi sâu phân tích, chúng tôi thấy có thể quy các bài viết vào hai vấn đề chính: Vấn đề về ngôn ngữ thơ và thể loại thơ. Bùi Văn Nguyên đã nhận định “có thể nói yếu tố tục ngữ, ca dao khá đậm đà trong nhiều câu, nhiều bài thơ quốc âm của tiên sinh”. Nhận định đó của Bùi Văn Nguyên theo chúng tôi còn phải bàn thêm vì đến nay chúng ta vẫn chưa biết đích xác Nguyễn Trãi đưa tục ngữ, ca dao vào thơ mình hay từ thơ Nguyễn Trãi với nhiều chiêm nghiệm đã đi vào cuộc sống để một số câu trở thành tục ngữ, ca dao để thành nguồn vốn của ca dao. Về vấn đề thể thơ, Phạm Luận có bài “Nguyễn Trãi và thể thơ trong “Quốc âm thi tập”. Tác giả này đã đưa ra nhận xét Nguyễn Trãi sử dụng nhiều câu thơ 7 chữ, cách ngắt nhịp phổ biến là 3/4 (lẻ trước chẵn sau), khác với cách ngắt nhịp phổ biến 4/3 (chẵn trước lẻ sau) của thơ Đường. Nguyễn Trãi cũng gieo vần lưng. Việc dùng câu 6 chữ không cố định, nhiều khi thất niêm cho thấy sự phóng túng của Nguyễn Trãi trong việc cách điệu thơ Đường. .2.3. Những công trình nghiên cứu về thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi Thơ viết về thiên nhiên là một mảng nổi bật được nhiều nhà nghiên cứu phê bình đề cập đến. Tế Hanh với bài “Hồn thơ đa dạng của Nguyễn Trãi” đã chỉ ra hồn thơ của Nguyễn Trãi là hồn thơ của tình yêu thiên nhiên và hồn thơ của tình yêu lứa đôi. Xuân Diệu, một trong những người mở đầu cho việc nghiên cứu và tìm hiểu thơ viết về thiên nhiên của Ức Trai đã nói về lòng yêu tạo vật của thi nhân: “trong thơ Việt Nam chưa có nhà thơ yêu mến thắm thiết thiên nhiên và có những vần thơ đẹp đẽ tinh vi và sâu sắc về thiên nhiên cho bằng Nguyễn Trãi”. Nguyễn Thiên Thụ - một nhà nghiên cứu ở miền Nam trước đây cũng có bài “Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi”. Trong bài viết này tác giả rút ra “thiên nhiên là nguồn mỹ cảm”, là “người bạn của thi nhân”, là “biểu tượng của chân - thiện - mỹ” trong thơ Nguyễn Trãi. Thiên Đào Thị Diệu Linh Trang 8 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015-2016 nhiên trong thơ Nguyễn Trãi theo Nguyễn Thiên Thụ, còn là một thiên nhiên “khoác những chiếc áo màu thời gian”. Tình yêu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi còn biểu hiện ở cảm hứng các mùa. Cao Hữu Lạng với bài “Thơ Nguyễn Trãi - mùa xuân và hoa” đã chỉ ra rằng: “Nguyễn Trãi như say với mùa xuân. Xuân trong thơ Nguyễn Trãi nhiều tứ đẹp, ý hay”. Cũng lấy chủ đề mùa xuân, Nguyễn Hữu Sơn có bài “ Cảm quan mùa xuân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi” đã đưa ra nhận xét khá sâu sắc rằng: “Trong thơ Nguyễn Trãi, mùa xuân được cảm nhận như là biểu tượng của vẻ đẹp hoàn mỹ, hoàn chỉnh, phổ biến”. Từ đó, ông phân tích độ phong phú trong cách cảm nhận thời gian của Nguyễn Trãi một cách tinh tế. Tuy nhiên, tác giả không đi sâu vào phân tích hình tượng hoa, mà chỉ nhắc đến hình ảnh này một cách chung chung. Việc đưa vào trong thơ những hình tượng thiên nhiên bình dị, dân dã của Nguyễn Trãi cũng rất được lưu tâm và đánh giá cao trong việc cách tân, vượt ra khỏi những khuôn khổ, điều luật của thơ cổ viết về thiên nhiên. Nhận xét về điều này GS. Đặng Thanh Lê đã khẳng định: “chiều sâu của sự khám phá ngoại giới trong thơ thiên nhiên biểu hiện chủ yếu ở nét bình dị, mộc mạc, gắn bó chặt chẽ với đời sống lao động sản xuất và gắn bó chặt chẽ với cuộc sống tâm hồn dân tộc”. Tác giả Lê Thị Hương trong luận văn thạc sĩ bảo vệ tại khoa Ngữ văn đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2007, có tên là: “So sánh thiên nhiên trong thơ Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi” đã rút ra nhận xét: “Thơ thiên nhiên là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi. Ngòi bút của Ức Trai tỏ ra xuất sắc khi phản ánh một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế với thiên nhiên…Trong “Ức Trai thi tập” ta bắt gặp những bức tranh thiên nhiên mỹ lệ tao nhã, ngập màu sắc ánh sáng, rộn rã âm thanh tạo ra những nét vẽ hào hùng trong những bức tranh hoành tráng. Còn trong“Quốc âm thi tập” phần lớn là thiên nhiên bình dị dân dã với những bút kí họa tự nhiên mộc mạc. Ngòi bút của ông hướng về những cảnh vật nơi thôn dã: bè rau muống, luống dọc mùng, lảnh mồng tơi, vị núc nác…điều đó cho ta thấy sự gắn bó khăng khít của thi nhân với quê hương; nó phản ánh tâm hồn đậm đà chất dân tộc, dân gian”. Có thể nói đây là một nhận xét rất có ý nghĩa, bao quát gần như toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Trãi. Nhận xét cho ta thấy tác giả là một người rất am hiểu về con người Nguyễn Trãi cũng như có những kiến giải khá sâu sắc về mảng thơ thiên nhiên của Ức Trai. Như vậy, thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi là một đề tài lớn được tác giả thể hiện rất thành công bằng hồn thơ đa dạng và bút pháp tinh tế, tài hoa. Những bài nghiên cứu trên đây đã tìm hiểu khá kĩ lưỡng, có nhiều nhận xét rất thú vị, đem đến cho chúng ta sự đồng cảm đáng trân trọng. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều có ý kiến thống nhất về tình yêu thiên nhiên rất sâu đậm, mối quan hệ gần gũi giữa con người và thiên nhiên trong thơ Ức Trai. Nhưng nó mới chỉ dừng lại ở những nhận định mang tính khái quát, trừu tượng, chưa đi vào những hình ảnh cụ thể. .2.4. Những công trình nghiên cứu về hình tượng “trăng” và “hoa” trong thơ Nguyễn Trãi Hình tượng trăng và hoa trong thơ Nguyễn Trãi đã được khá nhiều người đề cập một cách rải rác trong các bài viết của mình. Đặc biệt trong cuốn “Nguyễn Trãi tác gia, tác phẩm” (1999), Nxb Giáo dục, có rất nhiều bài viết đề cập tới vấn đề này như: “Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi” của Nguyễn Thiên Thụ và “Tình yêu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi” của Mai Trân. Hai bài viết này đã thể hiện cái nhìn khái quát nhất về hình ảnh thiên nhiên trong thơ Đào Thị Diệu Linh Trang 9 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015-2016 Nguyễn Trãi và có một vài lần nhắc đến những câu thơ có hình tượng trăng và hoa. Tuy nhiên với dung lượng của một bài tạp chí hai tác giả này cũng chỉ nói về thiên nhiên một cách chung chung mà chưa đi sâu tìm hiểu xem thiên nhiên cụ thể trong thơ Nguyễn Trãi là những hình ảnh nào? Nó mang những ý nghĩa gì? Và những loài hoa cụ thể mà Ức Trai hay đề cập đến trong thơ của mình là gì? Nó có còn là những loài hoa mang tính ước lệ giống như trong thơ ca trung đại nữa hay không? Ức Trai hay dùng từ “nguyệt” hay từ “trăng”? Dùng như vậy nó có dụng ý nghệ thuật gì không? Đó là những vấn đề rất quan trong khi tiếp cận, lý giải về hai hình tượng biểu trưng trăng và hoa mà người viết cần phải giải quyết. Tác giả Cao Hữu Lạng trong bài viết “Thơ Nguyễn Trãi mùa xuân và hoa” có đề cập đến từ “hoa” nhưng đó không phải là một loài hoa cụ thể nào mà đó là từ chỉ chung: Đông phong từ hẹn tin xuân đến Đầm ấm nào hoa chẳng tốt tươi. ( Xuân hoa tuyệt cú) Trong bài viết này tác giả duy nhất đi sâu phân tích bài thơ “xuân hoa tuyệt cú” của Nguyễn Trãi và cắt nghĩa nguyên nhân khiến hoa tươi tốt “đơm chồi trổ hoa, tô điểm cho vẻ đẹp của thiên nhiên” trong thơ Nguyễn Trãi chính là khí tiết của mùa xuân mang lại. “Hoa” và “mùa xuân” có mối quan hệ rất khăng khít trong thơ Nguyễn Trãi. Tác giả nhận định: “mùa xuân đem hơi ấm trở về. Khí dương hòa của mùa xuân không oi ả, không lạnh lẽo, lại có sức kì diệu khiến trăm hoa đua nở rực rỡ đẹp tươi. Muôn hoa tươi là biểu hiện của mùa xuân đẹp”. Đây chỉ là một bài viết mang tính chất cảm thụ một bài thơ và chỉ đề cập đến một khía cạnh rất nhỏ trong hình ảnh “hoa” vốn rất phong phú và đa dạng trong thơ Ức Trai. Hoặc bài viết “Trăng trong thơ Nguyễn Trãi” của La Kim Liên cũng là một bài viết hay, độc đáo sâu sắc về hình ảnh “trăng” trong thơ Nguyễn Trãi. Bài viết của tác giả La Kim Liên đã giúp ích khá nhiều cho người viết đi đến lựa chọn đề tài này. Tuy nhiên tác giả lại không nhìn hai hình tượng này trong mối quan hệ soi chiếu, giao hòa quấn quýt với nhau, bổ sung ý nghĩa cho nhau làm nên nét đặc sắc khác biệt của Ức Trai so với các nhà thơ khác. Nếu tách hai hình tượng này ra thì vẻ đẹp thiên nhiên trong thơ Ức Trai và dụng ý nghệ thuật của ông bị giảm sút rất nhiều. Hầu hết các tác giả đều chỉ đề cập tới một vài khía cạnh nhỏ liên quan đến hình ảnh trăng hoặc hoa mà chưa có bài nghiên cứu nào tìm hiểu hai hình tượng này một cách có hệ thống, toàn diện và cũng chưa thật sự chú ý đến tín hiệu nghệ thuật thẩm mỹ đặc sắc của hai hình tượng này. Người viết nhận thấy đây là một vấn đề quan trọng nhưng đã bị bỏ ngỏ khá lâu. Kế thừa và phát huy những thành quả của người đi trước, người viết mạnh dạn chọn đề tài Phát huy vai trò tích cực của phương pháp dạy học theo đặc trưng thể loại, nâng cao hiệu quả trong cách nhìn nhận, đánh giá về Tác gia văn học Nguyễn Trãi qua việc tự nghiên cứu hình tượng “trăng” & “hoa” trong thơ Nguyễn Trãi mong đóng góp thêm một cái nhìn về thế giới tâm hồn Nguyễn Trãi, góp thêm một cách cảm mới về mảng thơ viết về thiên nhiên của ông. .3 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của báo cáo SKKN là vai trò tích cực của phương pháp dạy học theo đặc trưng thể loại, trong cách nhìn nhận, đánh giá về Tác gia văn học Nguyễn Trãi qua việc tự nghiên cứu hình tượng “trăng” & “hoa” trong thơ Nguyễn Trãi. Đào Thị Diệu Linh Trang 10 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015-2016 Người viết nghiên cứu hai hình tượng nghệ thuật này cả trong thơ Nôm cũng như thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi. .4 Mục tiêu nghiên cứu Tìm hiểu tính tích cực của phương pháp dạy học theo đặc trưng thể loại, trTrãi qua việc tự nghiên cứu hình tượng trăng và hoa trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, người viết làm nổi bật những vấn đề sau : .4.1. Tìm hiểu khái quát về đặc trưng thể loại thơ trung đại Việt Nam .4.2. Khảo sát hệ thống hình tượng trăng và hoa trong thơ Nguyễn Trãi. .4.3. Khái quát ý nghĩa nghệ thuật của hình tượng trăng và hoa trong thơ Nguyễn Trãi. .4.3.1. Trăng là vẻ đẹp của thiên nhiên, là người bạn tri âm tri kỉ của thi nhân. .4.3.2. Hoa vừa mang vẻ đẹp cao sang quyền quý, vừa mang vẻ đẹp bình dị, dân dã. .4.4. Khái quát lên tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Trãi, tư tưởng hành đạo nhập thế của nhà thơ. .5 Mục đích nghiên cứu Qua việc khảo sát, tìm hiểu trên người viết muốn đưa ra một số những nhận xét khách quan để làm nổi bật sự cách tân của Nguyễn Trãi trong cách xây dựng hình tượng “trăng” và “hoa”, cũng như những thành công xuất sắc của nhà thơ về mặt nghệ thuật. Đồng thời, qua hai hình tượng đó, chúng ta thấy được tình yêu thiên nhiên tha thiết của thi nhân, tâm hồn lãng mạn, yêu đời, nhập thế của Nguyễn Trãi dù ông đang sống trong hoàn cảnh của một ẩn sĩ. .6 Phạm vi nghiên cứu Ngoài việc khảo sát, phân tích hình tượng trăng và hoa trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, người viết còn đề cập đến hai hình tượng này trong văn học Việt Nam nói chung và trong những tác phẩm văn học trước Nguyễn Trãi (Thơ Lý - Trần: Mãn Giác thiền sư, Vạn Hạnh thiền sư, Trần Nhân Tông, Trần Thái Tông, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh) và sau Nguyễn Trãi (Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Hồ Chí Minh). .7 Đối tượng khảo sát  Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh giới thiệu và chú giải, (1976), Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.  Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, Mai Quốc Liên - Kiều Thu Hoạch (chủ biên), (19992001), Nxb Văn học – trung tâm nghiên cứu Quốc học, Hà Nội. .8 Phương pháp nghiên cứu  Phương pháp thống kê: khảo sát, thống kê những hình tượng trăng và hoa trong thơ Nguyễn Trãi.  Phương pháp phân loại: phân loại các cấp độ từ thấp đến cao của các hình ảnh này và ý nghĩa của chúng.  Phương pháp phân tích: phân tích một số câu thơ có hình tượng trăng và hoa để chứng minh cho các nhận định được đưa ra.  Phương pháp so sánh: so sánh Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập về việc sử dụng hình tượng trăng và hoa. .9 Đóng góp của SKKN Đào Thị Diệu Linh Trang 11 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015-2016  Khẳng định vai trò tích cực của phương pháp dạy học theo đặc trưng thể loại, phát huy tính tích cực của người học & người dạy.  SKKN là sự khẳng định một lần nữa giá trị nghệ thuật độc đáo cũng như tư tưởng lớn lao của Nguyễn Trãi được thể hiện trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập.  Phân tích hình tượng trăng và hoa là một vấn đề của nghệ thuật. Từ nghệ thuật sẽ khai mở cách cửa đi vào nội dung tác phẩm. Qua đó, ta thấy tài năng bậc thầy của Nguyễn Trãi trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và cuộc sống.  Tuy người viết đi sâu vào một khía cạnh nghệ thuật nhỏ của thơ Nguyễn Trãi là việc xây dựng hình tượng trăng và hoa nhưng đây lại là chìa khóa giúp mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới về tác gia này và tránh được việc nghiên cứu một chiều như hiện nay. Đào Thị Diệu Linh Trang 12 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015-2016 PHẦN NỘI DUNG GIẢI PHÁP CHƯƠNG 1: NHẬN THỨC ĐÚNG ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI THƠ TRỮ TÌNH TRUNG ĐẠI VIỆT NAM . I ĐẶC TRƯNG THI PHÁP THƠ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM Văn học Trung đại Việt Nam nói chung và Thơ trữ tình Trung đại nói riêng được ra đời trong bối cảnh xã hội phongkiến phát triển. Nó phản ánh thực tế lịch sử xã hội phong kiến từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX. Đặc biệt là những biến động của xã hội và thân phận con người. Chủ đề xuyên suốt như sợi chỉ đỏ của thơ Trung đại Việt Nam là cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo. Các tác giả thơ Trung đại Việt Nam chủ yếu là những người có địa vị xã hội, có những ảnh hưởng quan trọng cho sự phát triển của xã hội…Chính vì thế khi giảng dạy hoặc phân tích, bình giảng cần phải chú ý đến các đặc điểm cơ bản sau :  Quan niệm “Văn dĩ tải đạo” : Vănchương phải chuyên chở đạo lý.  Tính ước lệ, tượng trưng, quy phạm: Đây là đặc điểm nổi bật của văn thơ Trung đại. Khi sáng tác, các tác giả thường vay mượn văn thi liệu điển cố, điển tích lấy từ sách vở Thánh Hiền và kinh sách của các tôn giáo. Chẳng hạn nói đến cây và hoa thì tùng, trúc, cúc, mai, sen… bởi chúng là những biểu tượng để chỉ những phẩm chất cốt cách, khí tiết của người quân tử, của bậctrượng phu; nói đến con vật thì phải long, ly, quy, phượng ; nói đến người thì ngư, tiều, canh, mục; nói đến hoa bốn mùa thì phải là xuân lan, thu cúc, hạ sen,đông sen; tả mỹ nhân thì làn thu thủy, nét xuân sơn, tóc như mây, da như tuyết …  Tính giáo huấn, bác học,cao quý, trang nhã: Đối tượng, mục đích của văn thơ chủ yếu là đề cao thần quyền, cường quyền mang tính giáo hóa, giáohuấn con người với khuôn phép định sẵn. Ngôn từ diễn đạt diễm lệ, tránh nói thô tục, nếu có thì dùng ngụ ý, ám chỉ chứ ít khi nói thẳng…  Cảm thức về thế giới con người thời Trung đại Việt Nam: Con người thấy mình trong tự nhiên, với suy nghĩ trong vũ trụ có ta và trong ta có cả vũ trụ… Vì thế khi nói về trời đất, về không gian, thời gian với nhiều cách thể hiện bằng nhiều sắc thái biểu cảm khác nhau như thời gian chu kỳ tuần hoàn,thời gian tuyến tính, thời gian vĩnh cửu, thời gian không gian được cảm nhận bằng nhiều giác quan khác nhau…Cho nên con người khi bất đắc chí tìm về thiên nhiên, vũ trụ như tìm về cội nguồn. Khi ngắm cảnh trời mây, họ cũng như mơ về nguồn cội. Người Trung Quốc ý thức gia tộc, gia hương rất mạnh mẽ như Lý Bạch nhìn trăng mà nhớ đến quê nhà (Tĩnh dạ tứ), cũng như trong thơ Đường luật của Việt Nam, Bà Huyện Thanh Quan nhìn cảnh đèo Ngang mà nhớ về quê cũ; với Bác Hồ trong bài : “Tức cảnh Pác Bó” thì đó là không gian bờ suối, hang đá …  Cách biểu hiện: Cái tôi trữ tình hoà lẫn vào trong thiên nhiên ngoại cảnh, nó tỉnh lượt chủ ngữ, nó tan trong cảm xúc, cái tôi nó đạt tính phổ quát .  Cách diễn đạt: Gợi mà không tả, hoà quyện giữa thi, nhạc và hoạ.  Ngôn ngữ: Từ ngữ sử dụng ở thơ Đường là những từ ngữ quen thuộc nhưng lại có khả năng diễn đạt vô cùng tinh tế, phong phú. Sở dĩ đạt được như thế là vì công phu tinh luyện của Đào Thị Diệu Linh Trang 13 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015-2016 các nhà thơ. Vì thế, học thơ Đường là học tinh thần lao động và sáng tạo của nhà thơ với vốn từ hữu hạn.  Đề tài: Đề tài trong thơ Đường không lấy gì làm phong phú nhưng không hề trùng lặp vì những mối quan hệ từ ngữ. Vì thế phải hướng dẫn học sinh chú ý những từ ngữ đắc giá( nhãn tự) vì đó là những từ có tính khái quát cao.  Tứ thơ: Cái quan trọng nhất trong thơ Đường là tứ thơ. Tư duy thơ Đường là kiểu tư duy quan hệ, học sinh phải cảm nhận mối quan hệ giữa các sự vật trong không gian, quan hệ giữa con người với vũ trụ và quan hệ giữa con người với con người. Thơ ca nói chung cũng như thơ Đường nói riêng, nó không nói hết, không nói trực tiếp ý mình muốn nói mà để cho người đọc cùng suy nghĩ, cùng sáng tạo. Chính đặc điểm này đã tạo nên cái gọi là “ý tại ngôn ngoại”, “ngôn tận ý bất tận”. Nói gọn lại: chính đặc điểm này mà thơ Đường cô đọng, súc tích, giàu tính biểu tượng. Nó gợi mà không tả để tạo nên một môi trường liên tưởng rộng. Vậy, ta giúp học sinh tham gia đồng sáng tạo cùng tác giả, học sinh cảm nhận được cái mạch ngầm của những tác phẩm thơ ca. . II ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC Ở bậc Trung học cơ sở, thơ Đường luật các em được học một số thể thơ như: ngũ ngôn, thất ngôn với số dòng là tứ tuyệt, bát cú. Vậy, trước hết ta phải hướng dẫn học sinh nắm được đặc điểm hình thức của thể thơ này. .1 Ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật:  Thể thơ này, bài thơ có bốn dòng, mỗi dòng có năm chữ, vần ở cuối các câu một, hai, bốn hoặc cuối câu hai, bốn.  Xét về thanh điệu: tiếng thứ hai với thứ tư trong mỗi câu phải đối nhau và tiếng thứ hai, thứ tư trong mỗi cặp câu cũng phải đối nhau. Nghĩa là trong một dòng, nếu tiếng thứ hai là tiếng bằng thì tiếng thứ tư phải là tiếng trắc, và ngược lại nếu tiếng thứ hai là tiếng trắc thì tiếng thứ tư phải là tiếng bằng. .2 Thể thơ thất ngôn bát cú:  Về số chữ trong câu, số câu trong bài: Bài thơ có tám câu, mỗi câu có bảy chữ.  Về vần: Độc vận, vần chân ở cuối câu một và các câu chẵn và là vần bằng.  Về đối: Hai câu thực và hai câu luận thường đối nhau. Có khi đối ngay ở hai câu đề và trốn đối ở hai câu thực và hai câu luận.  Về niêm: Niêm nghĩa là dính. Câu một niêm với câu tám, câu hai niêm với câu ba, câu bốn niêm với câu năm, câu sáu niêm với câu bảy.  Về luật: Theo hệ thống thanh ngang. Cho phép: “ Nhất tam ngũ bất luận” và buộc phải: “ Nhị tứ lục phân minh”. Có luật bằng vần bằng và luật trắc vần bằng. .3 Thất ngôn tứ tuyệt:  Là dạng rút gọn của thể thơ thất ngôn bát cú: gồm bốn câu, mỗi câu bảy chữ.  Vần: Vần bằng và là vần chân ở câu một, hai, bốn; có khi chỉ ở câu hai và câu bốn. KẾT CẤU CỦA CÁC THỂ THẤT NGÔN TỨ TUYỆT VÀ THẤT NGÔN BÁT CÚ Thất ngôn tứ tuyệt Thất ngôn bát cú Mục đích Đào Thị Diệu Linh Trang 14 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015-2016 Phần 1 Phần 2 Phần 3 Phần 4 Đào Thị Diệu Linh Khai Thừa Chuyển Hợp Đề Thực Luận Kết Giới thiệu tựa đề Giải thích, triển khai tự đề Bàn luận ý nghĩa của bài Tóm tắt ý nghĩa, bày tỏ thái độ, tình cảm Trang 15 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015-2016 CHƯƠNG 2: VAI TRÒ TÍCH CỰC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI TRONG VIỆC KHAI THÁC HÌNH TƯỢNG TRĂNG & HOA TRONG THƠ NGUYỄN TRÃI . I NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ TÍNH ĐẶC THÙ VÀ VAI TRÒ TÍCH CỨC CỦA PPDH THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI CỦA MÔN NGỮ VĂN Trong bối cảnh mới của thời đại, đổi mới cách dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học là một yêu cầu bức thiết đối với người giáo viên, với nhà trường và ngành giáo dục nói chung .  Quá trình học tập tích cực nói đến những hoạt động của chủ thể- tích cực nhận thức, có khát vọng hiểu biết và không ngừng cố gắng cả về nghị lực và trí tuệ cao để chiếm lĩnh tri thức. Tính tích cực trong học tập của học sinh bộc lộ ở khả năng: Hứng thú với học tập; tập trung chú ý đến bài học; Mức độ tự giác tham gia vào xây dựng bài học, trao đổi, thảo luận…; có sáng tạo trong học tập; thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao; hiểu bài và có thể trình bày lại bài theo cách hiểu của mình; biết vận dụng tri thức để giải quyết vấn đề thực tiễn.  Dạy học tích cực: Hoạt động nhằm tích cực hoá hoạt động học tập và phát triển tính sáng tạo của người học. Nó đem lại cho người học hứng thú, niềm vui học tập, nuôi dưỡng khát khao sáng tạo cho người học.  Dạy học theo đặc trưng thể loại vừa đáp ứng phương pháp đặc thù của bộ môn, vừa truyền thống vừa, vừa hiện đại góp phần thúc đẩy tư duy tiếp cận, đọc hiểu văn bản cũng như kĩ năng bộ môn; phát triển năng lực tự học tích cực, chủ động cho học sinh. . II VẬN DỤNG PPDH THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI TRONG VIỆC TỰ KHAI THÁC HÌNH TƯỢNG TRĂNG & HOA TRONG THƠ NGUYỄN TRÃI .1 Bước làm .1.1. Với phần đọc văn bản  Đọc thơ: Đọc thơ là để tạo tâm thế ban đầu cần thiết cho học sinh cũng chính là bước đầu tiếp cận hình tượng thơ. Cần đọc cả bản phiên âm, dịch nghĩa (nếu có), dịch thơ  Đọc diễn cảm là tạo điều kiện cho cảm xúc của học sinh được khởi động theo âmvang của ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ thơ, và ngôn ngữ nhân vật trữ tình, cái mà đọc bằng mắt nhiều khi không đạt được. Đọc chính là tạo lên rung động thơ, tạo lên sự đồng điệu về tâm hồn để rồi tiến tới sự đồng tình và đồng ý với tác giả .1.2. Với phần phân tích  Cho học sinh tìm hiểu kĩ về tác giả, về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm: Dạy thơ trung đại, cần lưu ý xác lập một cái nhìn biện chứng và lịchsử. Các tác phẩm văn học trung đại được sáng tạo và truyền bá trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định. Tựu chung những truyền thống tốt đẹp, những tinh hoa của cuộc sống văn hoá, tinh thần của dân tộc đã in đậm dấu ấn trên những tác phẩm này. Nếu không đặt tác phẩm trong mối liên hệ với hoàn cảnh lịch sử, bản thân tác giả.... nhiều khi chúng ta không thể hiểu, lí giải chính xác và thấu đáo những vấn đề trong tác phẩm.  Chú ý đến đặc trưng thể loại: Cho học sinh tìm hiểu về thể loại và đặc trưng của từng thể loại. Mỗi thể loại văn học trung đại nói chung, Thơ trung đại nói riêng có dạng thức tồn Đào Thị Diệu Linh Trang 16 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015-2016 tại và phương thức biểu đạt nhất định. Phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại là đi vào thi pháp- đi lại con đường của người sáng tác để có thể thâm nhập và hiểu tác phẩm được dễ dàng. Cho học sinh nắm được thi pháp của thơ trung đại. Thơ Đường luật gồm có các thể thơ: Tứ tuyệt, Thất ngôn bát cú...Dạy thơ Đường luật thất ngôn bát cú ( thể thơ được học nhiều ở lớp 10 – THPT) cần chú ý các đặc điểm về vần, niêm luật, đối và kết cấu, ngôn ngữ.  Suy ngẫm để thấy các tầng ý nghĩa sau những ngôn từ hàm súc: Ngắn gọn, hàm súc vốn là những tiêu chuẩn của cái hay, cái đẹp trong hoạt động nghệ thuật ngôn từ thuở trước. Bởi vậy nếu chỉ đọc và suy diễn qua loa sẽ không thể hiểu, cảm thụ hết giá trị của tác phẩm. Cần đọc chậm, đi sâu từng bước và thường xuyên đọc đi đọc lại để suy ngẫm.  Khai thác đặc trưng về ngôn từ, hình ảnh trong tác phẩm trung đại. Về ngôn ngữ thơ đã là thơ thì ngôn ngữ phải cô đọng, hàm súc, giàuhình tượng, cảm xúc... Ngôn ngữ thơ Trung đại ảnh hưởng ngôn ngữ của Đường thi càng như thế. Đặc biệt các bài thơ tuyệt cú, bát cú dùng rất ít chữ. Cho nên người làm thơ Đường coi trọng từng chữ một. Ngôn ngữ thơ Đường bao giờ cũng súc tích, công phu, điêu luyện. Thơ Đường nói riêng và thơ nói chung thường có “nhãn tự” hoặc “thi nhãn” (những chữ mà thơ dùng hay nhất, khéo nhất, thể hiện rõ nhất cái “thần” của câu thơ). Một bài thơ có thể có một, hai “nhãn tự” cũng có thể không có “nhãn tự”.  Khám phá các mối liên hệ giữa các yếu tố & ý nghĩa của chúng trong mối quan hệ giữa hình tượng – tác phẩm – tác giả - thời đại..  Từ đó đưa ra cái nhìn toàn diện, tổng thể, hệ thống về vị trí của tác gia văn học Nguyễn Trãi .2 Phần thể nghiệm tự nghiên cứu hình tượng trăng & hoa trong thơ Nguyễn Trãi, từ đó đánh giá vị trí tác gia văn học Nguyễn Trãi .2.1. Hình tượng Trăng trong thơ Nguyễn Trãi .2.1.1. Vài nét khái quát về hình tượng trăng trong thơ Việt Nam Trăng là một vẻ đẹp kì diệu và quyến rũ nhất của tự nhiên, là biểu tượng cho cỏi Đẹp và nghệ thuật. Nó mang lại cho con người cảm giác mơ hồ, xa xăm, bay bổng, lóng mạn, trữ tỡnh. Trăng với tất cả sự bí ẩn của mình đã lôi cuốn biết bao tâm hồn thi nhân say sưa với cái đẹp của tạo hoá từ xưa đến nay. Trước Nguyễn Trãi trong dòng văn học Lý - Trần đã có một hệ thống các bài thơ viết về hình ảnh trăng. Theo khảo sát của người viết, trong số 400 bài thơ Thiền Lý - Trần thì có 50 lần hình tượng trăng xuất hiện, chiếm 12,5%. Trăng trong thơ Lý Trần gắn liền với những quan niệm về sắc, không, chân, tâm - những điều cốt tủy của Thiền Tông. Cao hơn, vầng trăng đã trở thành thứ ánh sáng trí tuệ, ánh sáng tâm linh của con người lúc giác ngộ. Nó khai sáng tâm hồn con người, là cầu nối con người với vũ trụ và là thứ ánh sáng đẹp đẽ tỏa ra từ tâm hồn con người đã đốn ngộ trong tu hành: Tùng phong thủy nguyệt minh Vô ảnh diệc vô hình Sắc thân giá cá thị Không không tầm hưởng thanh (Gió trên cành thông, trăng sáng ở dưới nước Không có bóng cũng không có hình Sắc thân cũng như thế đó Muốn tìm nó khác chi tìm tiếng vang ở trong khoảng không) Đào Thị Diệu Linh Trang 17 Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015-2016 (Tầm hưởng - Tô Minh Trí) Hoặc: Động như không cốc phong xao hưởng Tĩnh nhược hàn đàm nguyệt lậu minh (Động thì như tiếng gió vang nơi hang trống Tĩnh như ánh trăng lọt xuống đầm lạnh) (Độc Phật sự Đại Minh lục hữu cảm - Trần Thánh Tông) Trong thơ Thiền thời Lý - Trần ta còn thấy có bài thơ Nôm rất hay về cảnh đẹp đêm trăng huyền diệu mang đậm màu sắc Phật giáo: Vằng vặc trăng mai ánh nước Hiu hiu gió trúc ngâm sênh Người hoà tươi tốt cảnh hoà lạ Mâu thích ca nào thuở hữu tình Hay sau Nguyễn Trãi, chúng ta cũng bắt gặp rất nhiều câu thơ hay và cách cảm nhận độc đáo về trăng của các tác giả khác như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du: Chén rượu hương đưa say lại tỉnh Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn ( Tự tình - Hồ Xuân Hương) Vầng trăng vằng vặc giữa trời Đinh ninh hai miệng một lời song song (Truyện Kiều - Nguyễn Du) Đến với phong trào thơ Mới với các tên tuổi: Tản Đà, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Thế Lữ, Xuân Diệu thì cả một thế giới trăng với những cảm nhận riêng biệt tân kì, độc đáo của các nhà thơ lần lượt được hiện ra. Nổi bật là Xuân Diệu với bài Nguyệt cầm: Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh Trăng thương trăng nhớ hỡi trăng ngần Đàn buồn đàn lặng ôi đàn chậm. Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân Như vậy, cú thể nói yêu trăng, say trăng và làm thơ về trăng là một thú vui tao nhã của các bậc tao nhân mặc khách từ xưa đến nay. .2.1.2. Hình tượng trăng trong thơ Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi cũng là một thi nhân, bởi vậy ông yêu trăng cũng là một lẽ tất nhiên. “Tình bạn của Nguyễn Trãi với trăng được gắn bó từ khi ông cáo quan về ở ẩn. Trước đó cũng có đôi lần ông nhắc đến trăng, nhưng chỉ tả nét đẹp của trăng thiên nhiên, trăng vời vợi trước sự ngưỡng mộ của con người. Còn trăng giữa cảnh núi rừng tĩnh mịch, êm ả chỉ có tiếng chim kêu vượn hót, tiếng suối rì rầm mang tư cách là một con người, hơn thế là một người bạn thân thiết, người tin tưởng để nhà thơ có thể dốc bầu tâm sự, khiến cho tâm hồn thi nhân bớt đi nỗi u hoài, ngột ngạt ở chốn triều đình. Trăng đến với ông khi trong lòng ông đầy ắp nỗi chán chường danh vọng, ngán cảnh bon chen, xúc xiểm của quan quân trong triều. Chính ở Côn Sơn vắng lặng Nguyễn Trãi mới có điều kiện nói thật, nói hết lòng mình. Và chỉ có tìm đến trăng, tấm lòng của ông mới được thanh thản” Đào Thị Diệu Linh Trang 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan