Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Lịch sử Skkn phát triển năng lực tư duy, sáng tạo của học sinh bằng phương pháp dạy học ...

Tài liệu Skkn phát triển năng lực tư duy, sáng tạo của học sinh bằng phương pháp dạy học tích hợp liên môn ở môn lịch sử trường thpt sông ray

.PDF
31
1665
69

Mô tả:

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY I . LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong xu thế phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ hiện nay thì vai trò của nguồn nhân lực là vô cùng quan trọng. Nó quyết định sự thành bại của sự nghiệp đổi mới. Đảng và nhà nước ta xác định: “Giáo dục đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư cho phát triển” (Nghị quyết đại hội XI). Mục tiêu của giáo dục đào tạo NQTW4 khóa VII cũng đã chỉ rõ: “Đào tạo những con người lao động tự chủ, năng động sáng tạo, có năng lực giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra, tự lo được việc làm, lập nghiệp và thăng tiến trong cuộc sống, qua đó góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là giáo dục nước ta còn nhiều bất cập về nội dung, chương trình dạy học, phương pháp dạy học, hình thức tổ chức cho đến đánh giá và quản lý giáo dục. Thực tiễn cho thấy phương pháp dạy học lịch sử của nhiều giáo viên hiện nay nặng về hình thức truyền đạt nên chưa phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo cho học sinh. Học sinh thì còn học tập một cách thụ động chưa chú ý rèn luyện năng lực tự học, tư duy sáng tạo, năng lực thực hành và giải quyết vấn đề. Do đó đổi mới phương pháp dạy học cho học sinh theo hướng bồi dưỡng tư duy sáng tạo cho học sinh là rất quan trọng và cần thiết vì nhiệm vụ của người giáo viên không chỉ cung cấp kiến thức cho học sinh mà còn phải giúp cho học sinh phát triển khả năng tư duy, giúp học sinh tự giác, tích cực và chủ động trong học tập. Trong các môn học ở trường phổ thông, môn lịch sử có một vị trí rất quan trọng. Thông qua dạy học lịch sử giáo viên có thể giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng năng lực tư duy, sáng tạo, hành động, thái độ ứng xử đúng đắn của học sinh trong xã hội. Trong chương trình lịch sử phổ thông, nội dung kiến thức lịch sử là một nội dung hay và khó đối với cả giáo viên 1 Giáo viên : Dương Thị Thanh Hà PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY và học sinh. Đây là mảng kiến thức khó, phong phú, đòi hỏi người dạy và người học phải có tư duy sâu sắc, có sự kết hợp nhiều mảng kiến thức khác nhau. Tuy nhiên, đây lại là một môn học hay, khai thác tốt khả năng phát triển và rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua dạy học tích hợp liên môn (sử-văn-Địa). Do vậy, việc phát triển năng lực tư duy, sáng tạo cho học sinh bằng phương pháp dạy học tích hợp liên môn ở môn lịch sử là rất cần thiết vì giúp học sinh lĩnh hội kiến thức lịch sử nhẹ nhàng, sinh động và vững chắc. Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Phát triển năng lực tư duy, sáng tạo của học sinh bằng phương pháp dạy học tích hợp liên môn ở môn lịch sử trường THPT Sông Ray” nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. Cơ sở lý luận 1.1. Khái niệm về tư duy Theo từ điển tiếng Việt “Tư duy là giai đoạn cao của quá trình nhận thức đi sâu vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lý” (tr.1437)Theo các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Quang Lũy, Đinh Văn Vang “Tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà bước đó ta chưa biết”. Theo một nghiên cứu về tư duy của X.L Rubinstein thì “Tư duy đó là sự khôi phục trong ý nghĩa của chủ thể về khách thể với mức độ đầy đủ hơn, toàn diện hơn so với các tư liệu cảm tính xuất hiện do tác động của khách thể” (dẫn theo Đavưđov) (tr.25). Qua phân tích một số quan điểm về tư duy ta có thể hiểu sâu thêm về khái niệm tư duy “Tư duy là quá trình tâm lý phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp là khái quát, là sự phản ánh những thuộc tính chung và bản chất tìm ra những mối liên hệ quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng mà ta chưa từng biết” Trong học tập bộ môn lịch sử có các loại hình tư duy như: Tư duy logic, tư duy sáng tạo, tư duy phê phán, tư duy trừu tượng. a. Các giai đoạn của quá trình tư duy Các giai đoạn của một quá trình tư duy bao gồm: Xác định vấn đề và biểu đạt nó thành nhiệm vụ tư duy. Nói cách khác là câu hỏi tìm lời giải đáp. Huy động các tri thức, vốn kinh nghiệm, liên tưởng hình thành giả thuyết về cách giải quyết vấn đề, cách trả lời câu hỏi. 2 Giáo viên : Dương Thị Thanh Hà PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY Xác minh giả thuyết trong thực tiễn nếu đúng thì tiếp bước sau, nếu sai thì phủ định nó và hình thành giả thuyết mới. Quyết định đánh giá kết quả, đưa ra sử dụng. b. Đặc điểm của tư duy .Tư duy có những đặc điểm cơ bản sau -Tính có vấn đề của tư duy. - Tính gián tiếp của tư duy. - Tính trừu tượng và khái quát của tư duy. - Tư duy quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ. - Tư duy có mối quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính. Như vậy, để công tác giảng dạy được hiệu quả giáo viên phải coi trọng phát triển tư duy cho học sinh. Nếu không có khả năng tư duy học sinh không học tập và rèn luyện được. Muốn kích thích học sinh tư duy thì phải tạo cho các em các “tình huống có vấn đề” và tổ chức cho học sinh độc lập, sáng tạo giải quyết các nhiệm vụ đặt ra. Phát triển tư duy cho học sinh phải được tiến hành song song và thông qua truyền thụ tri thức. Đồng thời phải gắn với việc trau dồi ngôn ngữ. Phát triển tư duy phải gắn liền với việc rèn luyện cảm giác, tri giác, năng lực quan sát và trí nhớ cho học sinh. Vì thiếu những tài liệu cảm tính thì tư duy không thể diễn ra được. c. Các thao tác của tư duy Xét về bản chất, tư duy là một quá trình cá nhân thực hiện các thao tác trí tuệ để giải quyết vấn đề hay nhiệm vụ đặt ra. Các thao tác tư duy là: + Phân tích tổng hợp + So sánh. + Trừu tượng hóa và khái quát hóa. 1.2. Khái niệm về sáng tạo Theo định nghĩa trong từ điển: “ Sáng tạo là tìm ra cái mới cách giải quyết vấn đề mới không bị gò bó và phụ thuộc vào cái đã có” (tr.130 ) Theo Bách Khoa toàn thư: “Sáng tạo là hoạt động của con người trên cơ sở các quy luật khách quan của thực tiễn, nhằm biến đổi thế giới tự nhiên, xã hội phù hợp với mục đích và nhu cầu của con người, sáng tạo là hoạt động có tính đặc trưng không lặp lại, tính độc đáo và duy nhất” . Tác giả Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng “Sáng tạo là sự vận động của tư duy từ những hiểu biết đã có đến những hiểu biết mới” cũng theo tác giả thì “Người có óc sáng tạo là người có kinh nghiệm về phát triển và giải quyết vấn đề ( tr.17). Như vậy nói một cách ngắn gọn, sáng tạo có thể được coi là quá trình tiến 3 Giáo viên : Dương Thị Thanh Hà PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY tới cái mới, là năng lực tạo ra cái mới có giá trị. a. Tư duy sáng tạo Các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về tư duy sáng tạo. Theo tâm lý học: “Tư duy sáng tạo là tư duy vượt ra ngoài phạm vi giới hạn của hiện thực, của vốn kinh nghiệm và tri thức đã có, giúp quá trình giải quyết nhiệm vụ của tư duy được linh hoạt hiệu quả”. Đối với học sinh có thể nói đến tư duy sáng tạo khi học sinh tự khám phá, tự tìm tòi về một địa danh lịch sử mà học sinh đó chưa biết đến. b. Một số thành tố đặc trưng của tư duy sáng tạo Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học, giáo dục học về cấu trúc của tư duy sáng tạo đã đưa ra năm thành tố cơ bản: Tính mềm dẻo, tính nhuần nhuyễn, tính độc đáo, tính nhạy cảm vấn đề, tính hoàn thiện. Tính mềm dẻo Đó là năng lực dễ dàng làm thay đổi các trật tự của hệ thống tri thức, có khả năng bao quát sự vật hiện tượng theo nhiều khía cạch khác nhau, có thể định nghĩa lại sự vật hiện tượng, xây dựng phương pháp tư duy mới, tạo ra sự vật mới trong các mối quan hệ mới.Tính nhuần nhuyễn: Tính nhuần nhuyễn của tư duy thể hiện năng lực tạo ra một cách nhanh chóng sự kết hợp các yếu tố riêng lẻ của tình huống, hoàn cảnh đưa ra giả thuyết mới và ý tưởng mới. Tính độc đáo: Tính độc đáo là khả năng tìm và quyết định phương thức mới. Tính hoàn thiện: Tính hoàn thiện là khả năng lập kế hoạch, phối hợp các ý nghĩ và hành động, phát triển ý tưởng, kiểm tra và chứng minh ý tưởng. Để phát triển năng lực tư duy, sáng tạo của học sinh bằng phương pháp dạy học tích hợp liên môn ở môn lịch sử ta cần chú ý đến một số yêu cầu sau: - Sử dụng kiến thức liên môn phải đáp ứng được mục tiêu môn học. - Sử dụng kiến thức liên môn phải giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức cơ bản của bài học. - Sử dụng kiến thức liên môn phải góp phần phát triển năng lực tư duy, sáng tạo cho học sinh. - Sử dụng kiến thức liên môn phải đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh. - Sử dụng kiến thức liên môn giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo và tùy thuộc. vào bài học. 2. Cơ sở thực tiễn 4 Giáo viên : Dương Thị Thanh Hà PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY Trường THPT Sông Ray là một trong những trường thuộc địa bàn vùng sâu của Tỉnh Đồng Nai. Chất lượng tuyển sinh vào lớp 10 của trường chưa đồng đều, điều kiện nhà trường còn nhiều khó khăn. Giáo viên trong tổ phần đông còn trẻ, kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều, nên còn chậm trong việc bắt kịp với xu thế đổi mới phương pháp dạy học. Điều kiện kinh tế và mức sống của nhân dân trong khu vực còn khó khăn nên sự quan tâm đến việc học của con em còn hạn chế. Thực tế hiện nay, thái độ học tập của học sinh đối với môn lịch sử vẫn còn mang tính thụ động, dập khuôn máy móc và đối phó nên các em không dành thời gian học sử như các môn học khác. Bên cạnh đó, số học sinh thi vào khối C rất ít và đa số học sinh không thích học lịch sử vì kiến thức lịch sử có nhiều sự kiện nên khó nhớ, khó học, khô khan. Phương pháp giảng dạy của nhiều giáo viên còn theo phương pháp truyền đạt, nặng về nhồi nhét kiến thức do số tiết học trên lớp ít, khối lượng kiến thức truyền đạt nhiều và phải dạy theo đúng tiết phân phối của chương trình nên việc mở rộng kiến thức, khai thác kiến thức liên môn để phát huy năng lực tư duy, sáng tạo và gây hứng thú học tập cho học sinh ở môn lịch sử chưa được thực hiện rộng rãi. Từ thực tế ở trên tôi đã áp dụng phương pháp dạy học tích hợp liên môn (Sử-Văn-Địa) ở trường THPT Sông Ray nhằm phát triển năng lực tư duy, sáng tạo cho học sinh. Kết quả 100% giáo viên trong tổ rất quan tâm đến phương pháp sử dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy, 88% học sinh thích học môn sử với phương pháp sử dụng kiến thức liên môn. Như vậy, với kết quả ở trên đã chứng tỏ phương pháp sử dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy lịch sử nhằm phát triển năng lực tư duy, sáng tạo cho học sinh là rất cần thiết, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử ở trường THPT. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ A .TÍCH HỢP TÀI LIỆU VĂN HỌC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ 1. Vị trí, ý nghĩa của tài liệu văn học trong dạy học lịch sử Đặc trưng của bộ môn lịch sử là nghiên cứu, nhận thức hiện thực lịch sử qua những sự kiện, hiện tượng đã xảy ra và không lặp lại, nếu có lặp lại cũng không hoàn toàn như cũ. Như vậy, xét trên phương diện những nguyên tắc của phương 5 Giáo viên : Dương Thị Thanh Hà PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY pháp luận sử học, lịch sử được “lặp lại trên cơ sở không lặp lại”. Chính vì vậy, trong học tập lịch sử, do học sinh không thể trực tiếp quan sát, tri giác các sự kiện, hiện tượng đã xảy ra nên việc lĩnh hội tri thức gặp nhiều khó khăn, nhất là với những tri thức lịch sử cách xa với đời sống hiện nay(“Chế độ chiếm hữu nô lệ”,”Chế độ chuyên chế”,v.v...).Vì lẽ đó, việc hình thành tri thức lịch sử cho học sinh cần chú ý phương pháp thông tin- tái hiện nhằm khôi phục bức tranh lịch sử một cách sâu sắc. Để tạo ra những biểu tượng lịch sử sinh động, chân xác, trong dạy học lịch sử cần sử dụng nhiều loại tài liệu khác nhau trong đó tài liệu văn học (TLVH) là một trong những nguồn tài liệu phong phú, có nhiều lợi thế. Với chức năng phản ánh cuộc sống, TLVH đã góp phần dựng lại bức tranh quá khứ lịch sử, trình bày các đặc trưng của các hiện tượng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, những quy luật của đời sống ở từng thời đại một cách sinh động, hấp dẫn bằng ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật. Giữa văn học và sử học có mối quan hệ khăng khít. Khoa học lịch sử dựa vào những nhân vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử có thật trong một giai đoạn nhất định để khôi phục lại bức tranh quá khứ một cách chân xác, khách quan, còn văn học dựa trên chất liệu cuộc sống để xây dựng hình tượng, cốt truyện, mỗi tác phẩm văn học đều mang trong mình dấu ấn của thời đại. Việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử sẽ giúp học sinh tránh được tình trạng “hiện đại hóa” lịch sử , phân biệt rõ nhân vật lịch sử . Ngoài ra, việc sử dụng TLVH còn giúp học sinh củng cố và phát triển kiến thức lịch sử, phát huy tính tích cực, năng động của học sinh và gây hứng thú học tập. Do đó, chất lượng dạy học lịch sử được nâng lên. a.. Ý nghĩa giáo dưỡng Trong các nguồn tài liệu tham khảo, TLVH có khả năng to lớn trong việc tạo biểu tượng cho học sinh bởi lẽ bản thân các tác phẩm văn học đã chứa đựng những sự kiện lịch sử, cung cấp những tri thức có giá trị về mọi mặt của đời sống xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đánh giá rất cao khả năng của văn học trong việc cung cấp những kiến thức như thế. Ăngghen khi đánh giá về tác phẩm “Tấn trò đời” của Bandắc đã viết: “Bandắc...trong “Tấn trò đời” của mình đã trình bày cho chúng ta một câu chuyện hiện thực tuyệt diệu nhất của xã hội Pháp khi ông mô tả lại dưới hình thức một loại biên niên ký, theo sát từng năm một từ 1816 đến 1848 áp lực ngày càng tăng của giai cấp tư sản đang lên đối với xã hội 6 Giáo viên : Dương Thị Thanh Hà PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY quý tộc. Xung quanh bức tranh trung tâm này, Bandắc đã tập trung tất cả lịch sử của xã hội Pháp, ở đây tôi biết được ngay cả theo ý nghĩa kinh tế học nhiều chi tiết (chẳng hạn về sự phân phối lại động sản và bất động sản sau cuộc cách mạng) hơn ở các quyển sách của tất cả những nhà chuyên môn - các sử gia, các nhà kinh tế học, các nhà thống kê của thời kì này gộp lại”.(1) Đối tượng của văn học cũng như sử học là toàn bộ thế giới nhưng văn học không miêu tả, tái hiện những con người cụ thể, cá biệt có thật trong đời sống như lịch sử mà xuất phát từ những mẫu hình có thật để dựng nên những hình tượng văn học giàu tính nghệ thuật khiến học sinh dễ hình dung kiến thức và nhớ lâu. TLVH được sử dụng sẽ làm cho sự kiện trở nên cụ thể, sinh động. Những hình ảnh văn học sinh động đó chính là cơ sở để tạo biểu tượng lịch sử. Hiệu quả của việc tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó sử dụng TLVH có lợi thế đặc biệt. Trong dạy học lịch sử, việc miêu tả, tường thuật, giải thích, so sánh, nêu đặc điểm nhân vật lịch sử v.v.rất được coi trọng. TLVH có cơ sở để giúp giáo viên lịch sử thực hiện điều đó. Chẳng hạn miêu tả cảnh phá ngục Bãti, ta không thể không sử dụng bài thơ”14 tháng 7” của nhà thơ Tố Hữu, tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với các nước thuộc địa ta có thể sử dụng tài liệu của Hồ Minh trong tác phẩm” Bản án chế độ thực dân Pháp”, dựng lại chân dung của các nhân vật lịch sử thời cận đại thế giới như Napôlêông Bônapac, Bixmác, Chie .không thể thiếu tài liệu miêu tả của các tác giả kinh điển tiêu biểu như Mác trong “Ngày 18 tháng Sương mù của Napôlêông Bônapac” . Trong lịch sử dân tộc, nhiều tác phẩm nổi tiếng mà ở đó những kiến thức lịch sử có giá trị văn học đã kết chặt trong nội dung, bố cục và phương pháp thể hiện khiến cho nó trở thành những tác phẩm “văn sử bất phân”. Có thể dẫn ra áng thơ thần của Lý Thường kiệt-“Nam quốc sơn hà” như một bản tuyên ngôn bất hủ về độc lập, chủ quyền giang sơn gấm vóc và ý chí của một dân tộc quyết bảo vệ cho được nền độc lập từng phải đấu tranh suốt ngàn năm Bắc thuộc thảm khốc và đau thương. “Hịch Tướng Sĩ” của Trần Quốc Tuấn đâu chỉ thức tỉnh ba quân đang ham thích những vui thú thời bình mà còn đúc kết những kinh nghiệm của cha ông trong lịch sử đấu tranh bảo vệ chủ quyền của một quốc gia dân tộc thống nhất. “Cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi vang vọng muôn đời cũng chính bởi những chiến công vang dội của cuộc kháng chiến chống quân Minh, đã gắn kết với truyền thống ngàn năm văn hiến của quốc gia Đại Việt. Cũng từ đó những bài học lịch sử được rút ra như” dùng đoản chế trường, lấy yếu đánh mạnh”, “dùng quân mai 7 Giáo viên : Dương Thị Thanh Hà PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY phục, lấy ít địch “ Đánh cho để dài tóc Đánh cho để răng đen Đánh cho nó chích luân bất phản Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”. Tiếp nối truyền thống quật cường đó, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ 1930-1945 được phản ánh trong nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng với nhiều thể loại phong phú: hồi kí cách mạng (Những chặng đường lịch sử của Võ Nguyên Giáp, Chặng đường nóng bỏng của Hoàng Quốc Việt, Từ núi rừng Batơ của Phạm Kiệt. ), thơ với các tác giả nổi tiếng như: Tố Hữu, Sóng Hồng, Hồ Chí Minh, văn học truyền miệng, báo chí v.v... Đặc biệt bản “ Tuyên ngôn độc lập ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được xem như là một kiệt tác mẫu mực về ý nghĩa lịch sử, giá trị nghệ thuật và phương pháp tư duy triết học sâu sắc. Rõ ràng, mỗi tác phẩm văn học đều mang dấu ấn sâu sắc của thời đại, phản ánh bức tranh đời sống xã hội dưới lăng kính nghệ thuật nên đây chính là một nguồn tư liệu quan trọng trong dạy học tích hợp liên môn. b.. Ý nghĩa giáo dục Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề giáo dục lịch sử đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết. Nền kinh tế thị trường với những mặt tích cực ngày càng được khẳng định trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước song mặt trái của cơ chế thị trường đã làm thay đổi bậc giá trị của các môn học. Học sinh đua nhau vào học những ngành có thể kiếm được nhiều tiền sau này, do vậy lịch sử là môn học ít được quan tâm đúng mức. Trong xu thế phát triển của xã hội hiện nay, những yếu tố hiện đại, những giá trị tiến bộ đích thực cần được khai thác để làm phong phú đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ta, xây dựng một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của nhân loại. TLVH với sự phản ánh thực qua cách nhìn, thái độ quan điểm của tác giả đối với hiện tượng được miêu tả nên có tác động mạnh mẽ vào tâm hồn người đọc. Người đọc sẽ hình thành tình cảm tích cực hay tiêu cực qua tác động của các tác phẩm văn học. Học sinh không chỉ được giáo dục về tư tưởng, đạo đức khi tiếp xúc với văn học mà những hình tượng văn học điển hình còn tạo hứng thú học tập lịch sử cho 8 Giáo viên : Dương Thị Thanh Hà PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY các em, các hình tượng này chính là “chất nhụy kết tinh từ cuộc sống”, là nguyên mẫu cuộc sống đã được nhà văn chọn lọc, tô đậm những nét điển hình, gia tăng những chi tiết cần thiết, tái tạo lại thành một chỉnh thể thẩm mĩ, tác động sâu sắc vào trí tuệ, gợi sự liên tưởng trong tâm trí người đọc. Do vậy, việc sử dụng TLVH góp phần làm cho trái tim các em thực sự rung động, say mê, hứng thú học tập lịch sử. c.. Ý nghĩa phát triển Học lịch sử nhằm “ôn cố tri tân” để khai thức những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc, đem những kinh nghiệm, những bài học lịch sử của cha ông vận dụng vào việc thực hiện những nhiệm vụ trong hiện tại và hướng tới tương lai, có như vậy mới thực hiện “học đi đôi với hành, lí luận đi đôi với thực tiễn, nhà trường gắn liền với xã hội”. Việc sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử cũng là nhằm làm cho các kiến thức lịch sử ấy dễ tiếp nhận đối với học sinh, các em dường như được tham dự, chứng kiến lịch sử quá khứ. Đây là việc phát huy trí tưởng tượng tái tạo cho học sinh, rất cần cho việc học tập lịch sử bởi nếu không hình dung quá khứ khách quan thì không thể hiểu bản chất lịch sử, dễ rơi vào tình trạng “hiện đại hóa” lịch sử. Do đó việc sử dụng TLVH trong bài giảng của giáo viên là một việc làm thiết thực, một yêu cầu bức thiết nhằm nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay. 2 . Phương pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử a. Một số yêu cầu khi sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử Việc sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử giúp học sinh nắm kiến thức lịch sử sâu sắc, toàn diện hơn, đặc biệt các em có sự liên hệ, tích hợp kiến thức giữa các môn học, tránh được tình trạng rời rạc, tản mạn trong kiến thức của học sinh, tính hệ thống của các tri thức đó sẽ giúp học sinh hiểu sự kiện, có khả năng phân tích sự kiện, tìm ra bản chất, qui luật phát triển của lịch sử. Tuy nhiên không phải cứ đưa TLVH vào bài giảng lịch sử là giáo viên đã đạt hiệu quả dạy học như trên mà việc sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử phải tuân thủ theo những nguyên tắc dạy học nói chung và yêu cầu cụ thể sau đây. TLVH phải phù hợp với nội dung bài giảng và trình độ nhận thức của học sinh. TLVH phải đảm bảo tính tiêu biểu, điển hình. Lựa chọn các biện pháp thích hợp để sử dụng TLVH. 9 Giáo viên : Dương Thị Thanh Hà PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY TLVH sử dụng trong sự kết hợp giữa các phương pháp, các loại tài liệu khác nhau. TLVH đảm bảo tính khoa học và tính tư tưởng. b. Một số phương pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử * Kể chuyện lịch sử Những mẩu chuyện lịch sử luôn cuốn hút học sinh, với ngữ điệu và các thao tác sư phạm phù hợp, giáo viên khi kể một câu chuyện lịch sử không những khiến học sinh dễ nhớ và nhớ lâu sự kiện mà tâm hồn, trái tim các em cũng sẽ thực sự rung cảm. Ví dụ, dạy bài “Phong trào cách mạng 1930-1931 và cuộc đấu tranh phục hồi lực lượng cách mạng”, ta có thể sử dụng hồi kí của Nguyễn Duy Trinh để kể chuyện về cuộc đấu tranh của các chiến sĩ ở trong tù thời kì 1932-1935. Tại nhà lao Vinh, đồng chí Nguyễn Duy Trinh cùng những chiến sĩ cộng sản nơi đây đã cho ra một tờ báo rất đặc biệt làm công cụ tuyên truyền và tranh đấu. Đó là tờ báo hàng ngày, không cần in ấn mà là một tờ báo miệng, đồng chí Nguyễn Duy Trinh kể lại “hàng ngày, vào đúng giờ bọn gác ngục nghỉ trưa, chúng tôi cử từng người leo lên ô cửa ô vuông phòng giam, đọc những bài mình được phân công chuẩn bị nói...Tờ báo miệng, hay nói đúng đắn hơn, đài phát thanh của chúng tôi được anh em trong lao hết sức hoan nghênh. Ngày nào cũng phát thanh rất nhiều mục, thơ có, văn có, anh chị em nghe không chán, lại nói rất sát với hoàn cảnh nhà lao, người nghe càng thú và người nọ truyền người kia” . Nhờ sự đấu tranh kiên trì, bất khuất của những con người yêu nước đó mà sức sống của Đảng không bị tiêu diệt”. *Xây dựng các bài miêu tả, tường thuật Nhiều tác phẩm văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945 như “Bước đường cùng” (Nguyễn Công Hoan), “Số đỏ”(Vũ Trọng Phụng), “Tắt đèn” (Ngô Tất Tố) đã vạch trần bộ mặt của bọn thực dân, phong kiến và phản ánh đời sống tối tăm, cực khổ của nhân dân ta, nhất là nông dân. Các hồi kí cáh mạng như “Những năm tháng không thể nào quên” (Võ Nguyên Giáp), “Những chặng đường nóng bỏng” (Hoàng Quốc Việt), “Đại thắng mùa xuân”. Dạy bài, Phong trào cách mạng 1930-1931, khí thế đấu tranh sôi sục ở Nghệ Tĩnh được cụ thể hóa qua tài liệu văn thơ Xô viết Nghệ Tĩnh “Trên gió cả cờ đào phất thẳng Dưới đất bằng giấy trắng tung ra 10 Giáo viên : Dương Thị Thanh Hà PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY Giữa thành một trận xông pha Bên kia đạn sắt bên ta gan vàng Hơi nghĩa khí dồn vang bốn mặt Dải đồng tâm thắt chặt muôn người Lợi quyền ta cố ta đòi Dần xương đế quốc, xẻo môi quan trường”. Chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” và đạo luật 10/59 của chính quyền Mĩ Diệm được sinh động hóa trong bài “Lá thư Bến tre” của nhà thơ Tố Hữu: “Biết không anh, Giồng Keo, Giồng Trôm Thảm lắm anh à lũ ác ôn Giết cả trăm người trong một sáng Máu tươi lênh láng đỏ đường thôn. Anh biết không, Long Mĩ, Hiệp Hưng Nó giết thanh niên ác quá chừng Hăm sáu đầu trai bêu cọc sắt Ba hôm mắt vẫn mở trừng trừng Có những ông già nó khảo tra Không khai, nó chém giữa sân nhà Có chị gần sinh không chịu nhục Lấy vồ nó đập vọt thai ra.” Giảng bài Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII, miêu tả cảnh quần chúng cách mạng Pari tấn công phá ngục Baxti, ta có thể sử dụng đoạn trích sau đây trong bài thơ “Ngày 14/7” của nhà thơ Tố Hữu: "Và lớn, và bé, đàn ông, đàn bà Tất cả chiếm, mỗi người đôi khí giới Anh hàng thịt vung con dao sáng chói Người lính già quắc thước múa chuôi gươm Anh hàng giầy quần áo rách bươm Anh thợ dệt nằm sau cửa xưởng Cũng đứng dậy uy nghi như võ tướng Cầm thanh gươm, khẩu súng nhảy ra ngoài Và thằng con bé bỏng cũng giương oai Phồng má thổi kèn vang sau gót bố” Ví dụ khác, khi giảng bài: “Công xã Pari”, trình bày Sự thành lập công xã ta 11 Giáo viên : Dương Thị Thanh Hà PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY có thể bám theo mạch logic sau: Sự tồn tại của đế chế 2 (1852-1870) khiến cho mâu thuẫn của quần chúng nhân dân Pháp với giai cấp tư sản ăn bám thối nát ngày càng gay gắt" Đế chế 2 là một chỗ hội hè lớn của làng bịp bợm khắp thiên hạ, bọn lừa đảo thuộc tất cả các nước đổ xô đến theo tiếng gọi của nó để tham gia vào các cuộc yến tiệc cuồng loạn và cướp bóc nhân dân Pháp”(1. Napôlêông III muốn đẩy mâu thuẫn ra bên ngoài bằng cách phát động cuộc chiến tranh với Phổ. Không khí kích động chiến tranh "tinh thần dân tộc"bao trùm lên nước Pháp. Nhưng quyền lơi sẽ thuồc về ai và đau thương mất mát ai là người phải gánh chiu? Hãy nghe tâm sự của Hoàng hậu nước Pháp- con người nổi tiếng về phản trắc và điêu ngoa sẽ rõ: "Tôi thương mỗi người lính như con trai tôi đẻ ra... nhưng tôi thích chiến tranh bởi vì sự thể đã như thế này chiến tranh là tốt" Cuộc chiến tranh bùng nổ, Pháp hết sức chủ quan, lời tuyên bố ngạo mạn của người chỉ huy quân đội là "đã chuẩn bị đến chiếc cúc cuối cùng trên chiếc gệt của người lính cuối cùng" đã đưa quan đội Pháp lâm vào thảm họa, thất bại nhục nhã ở chân thành Xơđăng, 10 vạn quân cùng Napôlêông III bị bắt sống.Liền sau đó, ngày 4/9/1870 quần chúng Pari đã khởi nghĩa lật đổ đế chế,chính quyền lọt vào tay giai cấp tư sản. Nước Đức đã tấn công nước Pháp, tấn công Pari chứ không phải "chỉ đánh Napôlêông" như chúng từng rêu rao trước đó để loè bịp. Do áp lực của quần chúng Chính phủ vệ quốc phải lập 200 tiểu đoàn mới để chống lại quân xâm lược Đức. Vậy, nhưng những kẻ nắm quyền chẳng hề mảy may quan tâm đến kháng chiến, chỉ lo ăn chơi xa đọa, sẵn sàng bán lợi ích của dân tộc mình vì quyền lợi ích kỉ cá nhân: "Mặc đứa ngu nào yêu nước, cứ yêu đi, Dưới đạn quân thù tha hồ chết, Còn tớ đây sốt tỏi tớ đánh tì tì, Các ngài ơi đổi Pari lấy bít tết" Cả một đám vô lại tập hợp nhau lại thành một Quốc hội mới (2/1871) để toan lo việc đầu hàng Đức, hãy xem những gương mặt tiêu biểu của chính phủ mới này; Chie - kẻ đứng đầu chính phủ: Mác gọi hắn là "con quỷ lùn quái dị" khét tiếng trong các vụ đàn áp đẫm máu phong trào công nhân từ những năm 30 của thế kỉ XIX: "Chie, con người bé nhỏ quái dị đó đã làm cho giai cáp tư sản Pháp say mê từ non nửa thế kỉ nay. Bởi vì hắn đại diện cho cái tư tưởng hoàn mĩ nhất chính ngay sự hư bại giai cấp của bọn tư sản đó... với cánh tay bé nhỏ của một thằng lùn 12 Giáo viên : Dương Thị Thanh Hà PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY hắn ta thường thích giơ lên trước Châu Au thanh gươm của Napôlêông đệ nhất”(2)) Bên cạnh Chie là Tơrôsuy lịch sử xác minh là kẻ thù truyền kiếp của dân nghèo khó, là một kẻ bảo thủ tới đường gân thớ thịt, một kẻ ham danh vọng đến điên cuồng, cục cằn, thô lỗ và cô độc. Số còn lại đều nổi tiếng vì thành tích bất hảo: Phavơrơ lành nghề trong việc làm các giấy tờ giả mạo, Giuynximông hám danh vọng như hám vàng, Giuypheri kẻ bất tài vô lại hay Clêmăngtônua, Vinoa coi mạng người như sâu bọ.v..v... Khi mà “Chính phủ vệ quốc” đã lộ rõ nguyên hình là “Chính phủ phản quốc” thì nhân dân đã lập tức bầu ra ủy ban trung ương vệ quốc quân - một chính phủ cách mạng đối lập với chính phủ Véc sai. Khi thấy lực lượng Quốc dân quân triển khai kế hoạch phòng thủ Paris, chính phủ Véc sai đã làm cái việc tày đình mà chính quân Đức không hề dám đó là mưu toan cướp vũ khí của Quốcdân quân trên đồi Môngmác. Sau khi tường thuật trận cướp vú khí ở đồi Mông mác ngày 18/3/1871, ta cho học sinh thấy được sự bùng nổ của cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Ngày 28/3/1871 công xã Paris ra đời trong niềm vui bất tận của quần chúng cách mạng nước Pháp. Mục "Công xã Paris thất bại, ý nghĩa Lịch sử của công xã có thể thực hiện trình tự như sau: Trình bày cuộc tấn công Paris của quân đội Véc sai dẫn tới "tuần lễ đẫm máu" (từ 21-28/5/1871) ta giới thiệu bức tranh "cuộc tàn sát đẫm máu của quân đội Véc sai" và sau đó nêu lên một vài tấm gương chiến đấu hy sinh anh dũng, tiêu biểu cho khí phách hiên ngang bất tử của công xã Paris "xông lên đoạt trời" đó là cô giáo Luidơ Misen đã thét lên trước tòa án quân thù: "Nếu các người để tôi sống tôi sẽ không ngớt kêu gọi báo thù"-" Nếu không phải là những kẻ hèn nhát xin các người hãy giết tôi đi"(1. Đặc biệt nhà thơ cách mạng Ơgien Pôchie trong những ngày Paris đẫm máu bài thơ Quốc tế của ông đã ra đời sau này được Pie đơ Gâytơ phổ nhạc (1888) trở thành bản quốc tế ca hoành tráng của vô sản thế giới : "Vùng lên, hỡi các nô lệ của thế gian Vùng lên hỡi ai cực khổ bần hàn" Những sai lầm của công xã Pari thật đáng tiếc đã dẫn tới sự thất bại đau lòng. Công xã Paris thất bại từ chính lòng nhân đạo của họ như Mác đã chỉ ra và 13 Giáo viên : Dương Thị Thanh Hà PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY ngày ấy Ơgien Pôchie cũng từng nhìn thấy: "Người không chiếm ngân hàng, ôi lầm lỗi, Lẽ ra, Người phải đổi thay thế giới, Người biết không muốn kẻ địch đầu hàng, Phải tước vũ khí của quân địch”(2) Sự ấu trĩ trong nhận thức cảu vô sản Paris biểu hiện qua bức tranh chiến sĩ công xã khiến họ không phân biệt âm mưu chia rẽ của kẻ thù, hiểu lầm người bạn đồng minh đáng tin cậy của mình là giai cấp nông nhân, khi dã hiểu ra tìm cách liên hệ thì đã muộn. Những chú chim bồ câu đưa thư vốn yêu hòa bình nay hoảng sợ tan tác vì súng đạn, những quả khinh khí cầu liên lạc hầu hết bị bắn rơi khi chưa ra khỏi ngoại ô Paris. Những sai lầm đó đã để lại bài học quý báu cho giai cấp vô sản sau này Lênin đã chỉ rõ "Giành chính quyền đã khó nhưng giữ chính quyền càng khó hơn" Đảng ta cũng nhấn mạnh "Chính quyền cách mạng không trấn áp kẻ thù là tự sát" vấn đề liên minh công nông, vấn đề lãnh đạo của đảng tiên phong... đều được nhắc nhở bằng máu xương của các chiến sĩ công xã. Công xã thất bại nhưng hình ảnh của một nhà nước kiểu mới sẽ trường tồn. Ngay sau khi thất bại Ăng ghen đã từng cảnh báo các chính khách tư sản “Này các ngài, nếu các ngài muốn biết chuyên chính vô sản là gì? Xin hãy nhìn vào công xã Pari chuyên chính vô sản là thế đấy”(1. Đúng như lời kết luận của Lênin “Công cuộc của công xã Paris không chết nó còn sống đến ngày nay trong mỗi chúng ta, sự nghiệp của công xã là sự nghiệp của cách mạng xã hội, sự nghiệp giải phóng hoàn toàn về chính trị, kinh tế của người lao động, sựu nghiệp giai cấp vô sản toàn thế giới. Vì thế sự nghiệp đó là bất diệt” * Dùng tài liệu văn học để khắc sâu kiến thức lịch sử Giáo viên khi dạy học lịch sử nếu biết khắc sâu những kiến thức cơ bản bằng các phương pháp phù hợp sẽ giúp học sinh hiểu bài sâu sắc, trên cơ sở đó trình độ nhận thức của các em sẽ được nâng lên ở mức khái quát lí luận, việc khắc sâu kiến thức cũng là một yếu tố quan trọng để giáo dục tư tưởng chính trị, hình thành thế giới quan khoa học và phát triển năng lực tư duy của hoc sinh. Khi dạy bài “Cuộc vận động dân chủ 1936-1939”, giáo viên khái quát hóa bức tranh đấu tranh trong thời kì dân chủ 1936-1939- thời kì đấu tranh công khai hợp pháp xen lẫn đấu tranh bí mật, bất hợp pháp, đấu tranh ở cả nông thôn và thành thị: “Chống phát xít cường quyền hiếu chiến 14 Giáo viên : Dương Thị Thanh Hà PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY Khắp năm châu, trận tuyến bình dân Trùng trùng cách mạng ra quân Phất cao cờ đỏ công nhân dẫn đầu Còi máy gọi bến tàu hầm mỏ Hòn Gai kêu Đất Đỏ đấu tranh Áo nâu liền với áo xanh Nông thôn cùng với thị thành đứng lên Đòi cơm áo, đòi quyền dân chủ Đường càng đi đội ngũ càng đông Suối ngàn đã chảy thành sông Đố ai tát cạn được dòng nước xuôi”. (Tr 111) Tài liệu văn học trong nhiều trường hợp là nguồn cung cấp sử liệu đáng tin cậy khắc họa một sự kiện hay khái quát mộtthời kì lịch sử.Chẳng hạn, giảng bài “Đảng cộng sản Việt Nam ra đời”, khi trình bày ý nghĩa sự ra đời của Đảng, giáo viên cần phân tích tình hình xã hội Việt Nam trước khi có Đảng và dẫn câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Khi chưa có Đảng tình hình đen tối như không có đường ra” đặc biệt cố nhà thơ Chế Lan Viên đã khái quát sâu sắc thời kì khủng hoảng về đường lối lãnh đạo cách mạng trước khi có Đảng: “Ông cha xưa đấm nát tay trước cửa cuộc đời Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ Văn Chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi...” (2). Trong hoàn cảnh đó, đầu năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện ra đời của Đảng là một bước ngoặt lịch sử, chấm dứt thời kì khủng hoảng kéo dài về đường lối lãnh đạo cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố đầu tiên quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam: “Lần đêm bước đến khi hửng sáng Mặt trời kia cờ Đảng dâng cao Đảng ta con của phong trào Mẹ nghèo mang nặng khổ đau khôn cầm Như đứa trẻ sinh nằm trên cỏ Không quê hương, sương gió tơi bời”(1) * Tài liệu văn học kết hợp với tài liệu khác 15 Giáo viên : Dương Thị Thanh Hà PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY TLVH chỉ là một trong nhiều nguồn tài liệu sử dụng trong dạy học lịch sử ( DHLS). Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả DHLS, cần phải kết hợp TLVH với nhiều loại tài liệu khác một cách linh hoạt, nhuần nhuyễn. TLVH có thể kết hợp với một số tài liệu sau: Thứ nhất, TLVH kết hợp với tài liệu của Hồ Chí Minh. Tài liệu Hồ Chí Minh là nguồn tài liệu rất phong phú, góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lịch sử. Tài liệu Hồ Chí Minh kết hợp với TLVH sẽ làm cho bài học sinh động, cụ thể, học sinh nắm kiến thức một cách sâu sắc. Văn kiện Đảng là nguồn tư liệu đáng tin cậy trong nghiên cứu và giảng dạy lịch sử, góp phần nhận thức đầy đủ, đúng đắn về quan diểm, đường lối cách mạng của Đảng, về sự phát triển của lịch sử dân tộc qua mỗi thời kì đấu tranh cách mạng. Sử dụng TLVH kết hợp với văn kiện Đảng sẽ làm cho học sinh hứng thú học tập, củng cố, khắc sâu kiến thức lịch sử. Ví dụ, Khi dạy bài “Cách mạng tháng Tám thành công trong cả nước”, giáo viên sử dụng tài liệu văn học kết hợp với tại liệu của Hồ Chí minh và Văn kiện Đảng như sau. Trình bày thời cơ cách mạng chín muồi và Lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc, giáo viên dẫn chứng các tài liệu: “Chính phủ phát xít Nhật hoàng đã vô điều kiện đầu hàng Đồng minh. Thế là kết thúc chiến tranh, Á châu sẽ lại thái bình từ nay. Hỡi dân Nam Việt ta đây, trong tình hình ấy làm ngay việc cần. Việt Minh hiệu triệu toàn dân, lập ngay chính phủ nhân dân của mình” . Để làm sáng rõ thời cơ “ngàn năm có một”, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc “Bản quân lệnh số 1” của Ủy ban khởi nghĩa, đặc biệt nhấn mạnh đoạn: “Giờ Tổng khởi nghĩa đã đánh! Chúng ta phải hành động cho nhanh với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!”. Giọng đọc trang trọng, dõng dạc, dứt khoát thể hiện sự quyết tâm hành động khi thời cơ cách mạng đến. Tiếp đó, một học sinh đọc thư của Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân vùng đậy khởi nghĩa giành chính quyền: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta...Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!” (2). Thứ hai, kết hợp với tài liệu trực quan trong dạy học lịch sử. Việc sử dụng TLVH kết hợp với tài liệu trực quan giúp cho học sinh củng 16 Giáo viên : Dương Thị Thanh Hà PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY cố khắc sâu kiến thức, hiểu bản chất sự kiện lịch sử. Ví dụ khi dạy nội dung “Mặt trận Việt Minh ra đời và lãnh đạo đấu tranh”, giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh “Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” và hướng dẫn các em tìm hiểu hoàn cảnh ra đời cũng như vì sao lại có tên “Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” qua đoạn trích: “Bây giờ thời kì cách mạng phát triển hòa bình đã qua, nhưng thời kì khởi nghĩa toàn dân chưa tới! Nếu bây giờ vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào đi tới. Nhưng phát động phong trào vũ trang khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Phải tìm ra một hình thức thích hợp thì mới có thể đẩy phong trào tiến lên”. Sau khi phân tích tình hình lúc bấy giờ, giáo viên nhấn mạnh: “Theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” đã ra đời. Hôm đó là ngày 22-12-1944, lúc 5 giờ chiều, “lễ thành lập được cử hành trong một khu rừng nằm giữa tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã ra đời dưới sự che chở của anh linh hai đấng anh hùng dân tộc”. Giáo viên cho học sinh quan sát hình ảnh 34 chiến sĩ dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp đang trang nghiêm đọc 10 lời thề danh dự dưới lá cờ Tổ quốc thiêng liêng và gợi ý về lực lượng vũ trang cách mạng của ta trong buổi đầu thành lập? + Về lực lượng cách mạng: còn non mỏng, thiếu thốn (quần áo nhiều kiểu khác nhau, vũ khí thô sơ). + Về ý chí: đầy quyết tâm tin tưởng (nét mặt trang nghiêm) Đại tướng Võ Nguyên Giáp hồi tưởng lại những giờ phút thiêng liêng đó: “Chúng tôi quên đi chúng tôi là ba mươi tư con người với những súng ống thô sơ mà thấy đây là cả một đoàn quân gang thép, rắn chắc, không sức mạnh nào khuất phục nổi, sẵn sàng quật nát kẻ thù.”, và khẳng định: “Tuy lúc đầu qui mô của nó còn nhỏ nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang”. Khi dạy mục “Cao trào kháng Nhật cứu nước tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945”. Giáo viên sử dụng bản đồ “Khu giải phóng Việt Bắc” Giáo viên đặt câu hỏi tình huống: “Vì sao Hồ Chí Minh quyết định thành lập khu giải phóng Việt Bắc?” sau đó hướng dẫn học sinh nhận thức rằng do những thắng lợi của cao trào kháng Nhật cứu nước, vùng giải phóng được mở rộng bao gồm các tỉnh miền thượng du: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, 17 Giáo viên : Dương Thị Thanh Hà PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY Thái Nguyên, Hà Giang (giáo viên chỉ bản đồ), địa thế các tỉnh này nối liền nhau nên Hồ Chí Minh đã chỉ thị thành lập khu giải phóng. “Khu giải phóng phải trở thành một căn cứ địa vững chắc về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa để làm bàn đạp Nam tiến, giải phóng toàn quốc” . Tân Trào được chọn làm Thủ đô của khu giải phóng, trong khu giải phóng đã thi hành 10 chính sách của Việt Minh, người dân bước đầu được hưởng các quyền tự do, dân chủ. Khu giải phóng Việt Bắc chính là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới: “Ai lên xứ Lạng cùng anh Thăm khu giải phóng, thăm thành Bắc Sơn Suối trong in mặt trời tròn Xem cô gái Thổ trèo non đi tuần”. Tóm lại, TLVH là một nguồn tài liệu phong phú, còn ẩn chứa nhiều tiềm năng có thể khai thác để sử dụng trong dạy học lịch sử. Tuy nhiên, cần chú ý không có phương pháp dạy học nào là tối ưu hoàn toàn, không có nguồn tài liệu nào là duy nhất do vậy cần chú ý kết hợp hài hòa các nguồn tài liệu, các phương pháp dạy học và các thao tác sư phạm để phát huy đến mức cao nhất hiệu quả bài học lịch sử ở trường phổ thông. B. TÍCH HỢP TÀI LIỆU ĐỊA LÍ TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Sự kiện lịch sử gắn liền với vị trí không gian nhất định. Nhiều sự kiện kịch sử xảy ra bắt nguồn từ đặc điểm địa lí hoặc do điều kiện địa lí tác động, chi phối. Do vậy, kiến thức địa lí có ý nghĩa đặc biệt quan trong trong dạy học lịch sử. Bài học lịch sử gắn với bản đồ và kiến thức địa lí luôn tạo ra sự hấp dẫn, giúp học sinh nắm chắc sự kiện, biết lí giải bản chất sự kiện qua sự chi phối của yếu tố địa lí. 1. Sử dụng bản đồ tích hợp kiến thức địa lí để luận giải nội dung lịch sử Việc so sánh, phân tích để rút ra những kết luận khái quát, giải đáp những vấn đề phức tạp của lịch sử phải dựa trên cơ sở nền tảng của hệ thống tư liệu phong phú, logic đủ sức thuyết phục. Điều này rèn cho học sinh có phong cách tư duy mạnh dạn táo bạo nhưng cẩn trọng, không vội vã hồ đồ. Ví dụ, trình bày "Sự khủng hoảng chế độ phong kiến Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX và cuộc xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp". Đây là chương trình đồng tâm với cấp phổ thông cơ sở nên yêu cầu về trình độ lý luận phải cao hơn. Sách giáo khoa trình bày sự khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam (từ nửa sau thế kỷ XVIII đến giữa 18 Giáo viên : Dương Thị Thanh Hà PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY thế kỷ XIX) biểu hiện trên các mặt: kinh tế, chính trị, xã hội, cùng với những thách thức của Lịch sử và thái độ thủ cựu của nhà Nguyễn đương thời. Vấn đề đặt ra là Việt Nam rơi vào tay Pháp là tất yếu hay không? Trách nhiệm của nhà Nguyễn trước hiện trạng đó thế nào? Có ý kiến cho rằng nếu thái độ ngoại giao khôn khéo Việt Nam vẫn có thể tránh được cuộc xâm lăng của thực dân Pháp (như Xiêm La)? Để hiểu được điều đó, các em cần được biết, kết quả của hoạt động ngoại giao khi chưa có chiến sự phụ thuộc vào thiện chí của cả hai bên, còn khi nổ ra chiến tranh thì thắng lợi trên mặt trận quân sự luôn đóng vai trò quyết định. Hoạt động ngoại giao của triều Nguyễn đối với thực dân Pháp lúc bấy giờ hoàn toàn khác nhau về lập trường quan điểm. Nhà Nguyễn cố tìm cách giữ độc lập, chủ quyền nhưng "lực bất tòng tâm" còn thực dân Pháp hoạt động ngoại giao cũng chỉ nhằm xâm chiếm Việt Nam cho kỳ được. Điều này được bộc lộ từ rất sớm trong lịch sử. Không phải đến những năm 40 của thế kỷ XIX thực dân Pháp mới dòm ngó và khiêu khích Việt Nam mà từ những năm 30 của thế kỷ XVII, ý đồ xâm lược Việt Nam đã lộ rõ qua bản kiến nghị chiếm nước ta của giáo sĩ Alexander De Rhodes. Sau này Bá Đa Lộc, giáo chủ Đàng trong ra sức giúp Nguyễn Ánh chống Tây Sơn nhằm gây ảnh hưởng của Pháp ở xứ sở này. Hiệp ước 1787 nếu không vướng phải cuộc Đại cách mạng 1789 ở Pháp hẳn đã có hiệu lực. Nửa đầu thế kỷ XIX, việc chuẩn bị xâm lược Việt Nam cũng ráo riết về sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Pháp đang đòi hỏi thị trường để cung cấp tài nguyên, bóc lột nhân công và tiêu thụ hàng hóa ế thừa của chính quốc. Kết hợp với bản đồ địa lí khu vực Đông Nam Á, giáo viên hướng dẫn học sinh nhận thức từ vấn đề cốt lõi sau đây: Bị thua và không thể địch nổi với đối thủ sừng sỏ là thực dân Anh ở Ấn Độ, Pháp tìm mọi cách giành giật quyền lợi với các nước tư bản để quốc ở thị trường đông dân nhất thế giới là Trung Quốc. Vùng đất Quế Châu, Tứ Xuyên, Vân Nam nổi tiếng về tài nguyên quí hiếm, đông dân, sức mua lớn... trở thành điểm nóng trong mục tiêu xâm lược của đế quốc Pháp. Nhìn dải đất Việt Nam như chiếc cầu nối Đông Nam á với vùng Tây Nam Trung Quốc, Pháp nghĩ ngay việc khẩn trương và bằng mọi cách chiếm lấy vị trí chiến lược quan trọng này. Đã quyết chiếm thì phải tìm mọi cách để chiếm và do đó, phương cách ngoại giao của nhà Nguyễn dẫu có khéo léo đến đâu cũng không sao có thể tránh khỏi hiểm họa này. Do vậy, ta cũng không thể so sánh việc Pháp xâm lược Việt Nam giống như XiêmLa mảnh đất nằm trong thế đệm tranh chấp của Anh và Pháp. 19 Giáo viên : Dương Thị Thanh Hà PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN Ở MÔN LỊCH SỬ TRƯỜNG THPT SÔNG RAY Tuy nhiên, cần giúp học sinh phân biệt rõ nguy cơ bị xâm lược và vấn đề mất nước lại hoàn toàn không phải là một. Ta đánh giá cao những nỗ lực của triều Nguyễn trên các lĩnh vực củng cố bộ máy chính quyền, khẩn hoang, phục hóa, lấn biển.v..v.. nhưng không thể không phê phán những sai lầm có tính hệ thống và ngày càng nghiêm trọng, liên quan tới sự sống còn của một quốc gia. Đó là sự bảo thủ, trì trệ khước từ mọi yêu cầu canh tân đất nước đang đặt ra lúc bấy giờ. Nhiều quan lại cấp tiến như Phạm Phú Thứ, Trần Đình Túc, Nguyễn Huy Tế,.v..v.. đã nhiều lần dâng sớ đề nghị cải cách, thông thương, nhưng Triều đình vẫn" bế quan tỏa cảng". Tệ hại hơn, những nho sĩ nhất mực "ái quốc, trung quân" dâng tờ trần đề nghị cải tiến chế độ khoa cử lạc hậu thì bị đánh đòn như Ninh Kế (1825); hiến kế ngăn bão lũ, thiên tai thì bị kết tội "lạm ngôn yêu quái" tống ngục chờ trảm như Nguyễn Tiến Chương (1927); can ngăn Vua không nên tiêu xài hoang phí thì bị giáng chức, đẩy lên biên giới xứ Lạng như Thám hoa Mai Anh Tuấn (1851).v..v.. Tiếp đó hàng loạt đề nghị mở cửa, giao lưu kinh tế, buôn bán với Tây phương, cải cách quân đội, học tập Nhật Bản canh tân đất nước... đều bị coi là "quá cao" hay là "mọi rợ". Đặc biệt, Nguyễn Trường Tộ - một sĩ phu tài năng, tâm huyết, ròng rã 10 năm (1863-1871) dâng hơn 40 bản điều trần, trình bày hệ thống việc cải cách đất nước, tận tụy tới mức ngã bệnh rồi qua đời mà triều đình vẫn bặt lặng tăm hơi. Chính những sai lầm đó "nhà Nguyễn biến việc nước ta bị mất vào tay Pháp từ chỗ không tất yếu trở thành tất yếu". 2. Sử dụng kiến thức địa lí giúp học sinh khắc sâu kiến thức bài học lịch sử Kiến thức Địa lí nói chung, bản đồ Địa lí nói riêng có ưu thế trong việc khắc sâu kiến thức lịch sử cho học sinh. Chẳng hạn, khi trình bày Nghị quyết của Hội nghị Trung ương VIII (5/1941), giáo viên cung cấp cho học sinh những kiến thức về vị trí chiến lược của Cao Bằng, từng được Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: "Cao Bằng là một trong những vị trí quan trọng về chiến lược của ta từ năm 1924 1925 đến sau này" Đến năm 1941 Người lại khẳng định: "Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới lấy đó làm cơ sở liên lực quốc tế thuận lợi. Nhưng Cao Bằng cỏn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối phong trào được với Thái Nguyên và toàn quốc thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể tiến công, lúc khó khăn có thể giữ” . Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu về địa lý Cao Bằng để tự giải đáp 20 Giáo viên : Dương Thị Thanh Hà
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan