TÊN CƠ SỞ ĐƯỢC YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN:
Trường THPT Bình Minh
TÁC GIẢ SÁNG KIẾN:
Trần Quốc Việt
- Tổ chuyên môn: Văn – Sử - Địa – GDCD
- Chuyên môn giảng dạy: Ngữ văn
- Điện thoại: 0916588136
- Email:
[email protected]
- Địa chỉ: Khối 6, thị trấn Bình Minh, huyện Kim Sơn,
tỉnh Ninh Bình.
TÊN SÁNG KIẾN, LĨNH VỰC ÁP DỤNG.
- Tên sáng kiến:
Rèn luyện kĩ năng đọc hiểu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm tra,
đánh giá học sinh THPT theo định hướng phát triển năng lực
- Lĩnh vực áp dụng:
Thực hiện kiểm tra, đánh giá trong dạy và học Ngữ văn tại trường
trung học phổ thông. Chú trọng ứng dụng, rèn luyện các kĩ năng cần
thiết để học sinh thực hiện kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển
năng lực.
1
NỘI DUNG SÁNG KIẾN
I. Giải pháp cũ thường làm
Bên cạnh những kết quả bước đầu đã đạt được, việc kiểm tra, đánh giá ở
trường trung học phổ thông vẫn còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Cụ thể
là:
- Quá trình dạy học ngữ văn vẫn còn nặng về truyền thụ tri thức một
chiều, vẫn là phương pháp dạy học chủ đạo của nhiều giáo viên. Số giáo viên
thường xuyên, chủ động, sáng tạo trong việc phối hợp các phương pháp dạy
học cũng như sử dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, tự lực
và sáng tạo của học sinh còn chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến
thức lý thuyết. Việc rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết các tình
huống thực tiễn cho học sinh thông qua khả năn vận dụng tri thức tổng hợp
chưa thực sự được quan tâm. Việc ứng dụng công nghệ thông tin – truyền
thông, sử dụng các phương tiện dạy học chưa được thực hiện rộng rãi và hiệu
quả trong các trường trung học phổ thông.
- Hoạt động kiểm tra đánh giá chua đảm bảo yêu cầu khách quan, chính
xác, công bằng; việc kiểm tra chủ yếu chú ý đến yêu cầu tái hiện kiến thức và
đánh giá qua điểm số đã dẫn đến tình trạng giáo viên và học sinh duy trì dạy
học theo lối “đọc-chép” thuần tuý, học sinh học tập thiên về ghi nhớ, ít quan
tâm vận dụng kiến thức. Nhiều giáo viên chưa vận dụng đúng quy trình biên
soạn đề kiểm tra nên các bài kiếm tra còn nặng tính chủ quan của người dạy.
Hoạt động kiểm tra đánh giá ngay trong quá trình tổ chức hoạt động dạy học
trên lớp chưa được quan tâm thực hiện một cách khoa học và hiệu quả. Các
hoạt động đánh giá định kỳ, đánh giá diện rộng quốc gia, đánh giá quốc tế
được tổ chức chưa thực sự đồng bộ hiệu quả.
Thực trạng trên đây dẫn đến hệ quả là không rèn luyện được tính trung
thực trong thi, kiểm tra; nhiều học sinh phổ thông còn thụ động trong việc học
2
tập; khả năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri thức đã học để giải quyết các
tình huống thực tiễn cuộc sống còn hạn chế.
Thực trạng nói trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có thể chỉ
ra một số nguyên nhân cơ bản sau:
- Nhận thức về sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra
đánh giá và ý thức thực hiện đổi mới của một bộ phận cán bộ quản lý, giáo
viên chưa cao. Năng lực của đội ngũ giáo viên về vận dụng các phương pháp
dạy học tích cực, sử dụng thiết bị dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin –
truyền thông trong dạy học còn hạn chế.
- Lý luận về phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá chưa được
nghiên cứu và vận dụng một cách có hệ thống; còn tình trạng vận dụng lý
luận một cách chắp vá nên chưa tạo ra sự đồng bộ, hiệu quả; các hình thức tổ
chức hoạt động dạy học, giáo dục còn nghèo nàn.
- Chỉ chú trọng đến đánh giá cuối kỳ mà chưa chú trọng việc đánh giá
thường xuyên trong quá trình dạy học, giáo dục.
Ở các trường trung học của Việt Nam cho đến nay vẫn chưa chú trọng
vấn đề đọc hiểu. Hoạt động đọc thường chỉ chú ý đọc thành tiếng, đọc diễn
cảm, đọc chiếu lệ trước khi giảng một bài. Kế thừa truyền thống giáo dục thời
thuộc địa chúng ta có môn Giảng văn, tiếp thu giáo dục xô viết ta có hình thức
phân tích tác phẩm văn học. Giảng văn hay phân tích là việc làm của thầy có
tính thị phạm trên lớp nhằm giúp học sinh hiểu văn, chứ không nhằm đào tạo
năng lực tự đọc – hiểu văn bản cho học sinh. Khái niệm đọc chỉ hạn chế trong
việc đào tạo, đọc chính âm, đọc diễn cảm. Khái niệm đoc – hiểu chưa có.
Chưa có môn đọc – hiểu văn bản. Các câu hỏi, bài tập trong sách giáo khoa
hay giáo viên cho về nhà đều gắn với phân tích và giảng văn. Dù là giảng văn
hay phân tích văn học đều có cơ sở đọc- hiểu văn ở trong đó, sông đây là các
định hướng khác nhau. Giảng văn phân tích là việc của giáo viên, giáo viên là
chính, học sinh là phụ. Đọc – hiểu thì khác: đọc – hiểu là việc của học sinh,
3
giáo viên hướng dẫn. Từ sự khác nhau đó mà việc soạn bài, soạn câu hỏi,
soạn giáo án cũng khác hẳn nhau. Xây dựng bộ môn đọc – hiểu văn bản văn
học có quy củ ở trường phổ thông phải là công việc của tương lai gần. Hiện
tại, chúng ta chuẩn bị tư tưởng, kĩ năng cho bộ môn đó, đưa dần môn giảng
văn, phân tích sang môn đọc văn.
II.Giải pháp mới cải tiến trong kiểm tra, đánh giá môn ngữ văn
1. Những đổi mới, cải tiến dưới góc nhìn so sánh.
Quá trình phát triển của xã hội kéo theo sự thay đổi của nhiều lĩnh vực,
giáo dục cũng không nằm ngoài quy luật đó. Hơn nữa, giáo dục từ lâu luôn
được coi là nền tảng, động lực tạo nên bước đột phá về kinh tế, khoa học –
công nghệ, làm phong phú đời sống tinh thần con người. Xuất phát từ vị thế
nổi bật như vậy, các quốc gia phát triển luôn chú trọng đầu tư cho giáo dục,
trong đó chú trọng vào việc bồi dưỡng khả năng tư duy của con người, bởi vì:
“Nhiệm vụ quan trọng nhất của nền văn minh là dạy cho con người biết tư
duy” (T. Edison). Từ việc tư duy, người học sẽ thể hiện những năng lực nổi
bật của bản thân đối với cộng đồng, có khát vọng cống hiến.
Với tư cách là bộ môn cơ bản, môn Ngữ văn cũng đã có những đổi mới
quan trọng cả về nội dung chương trình và cách thức kiểm tra, đánh giá. Việc
đổi mới tập trung vào đánh giá nhận thức, năng lực của học sinh. Để nhận
thức rõ hơn sự đổi mới, chúng ta hãy tiếp cận hai nhóm ví dụ sau đây:
Mã đề 1:
Câu 1: Nêu những nét chính về phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh.
Câu 2: Thế nào là ngôn ngữ khoa học? Hiểu thế nào là tính khái quát, trừu
tượng trong phong cách ngôn ngữ khoa hoc?
Câu 3: Nêu ý nghĩa câu thơ đề từ bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh
Thảo).
Mã đề 2:
4
ĐỌC HIỂU
Đọc đoạn trích (A) và trả lời các câu hỏi từ câu 1 đến câu 4:
(A) Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong
xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Mặt hắn có một vẻ gì
phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên
lấp lánh. Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con,
đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt.
Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội chạy ra đón xem. Sợ
chúng nó đùa như ngày trước, Tràng vội vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra
hiệu không bằng lòng.
(Vợ nhặt, Kim Lân, SGK Ngữ văn, tập 2)
Câu 1: Nêu hoàn cảnh liên quan đến nhân vật Tràng được thể hiện trong đoạn
trích trên.
Câu 2: Biện pháp tu từ nào được tác giả sử dụng trong vế in đậm của câu sau:
Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm
bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Em hiểu gì về cuộc sống qua
cách miêu tả đó?
Câu 3: Hành động, tâm lí của hình tượng người đàn bà nói lên điều gì bản
chất con người này?
Câu 4: Việc sử dụng từ ngữ trong diễn đạt của đoạn văn dưới đây có chỗ
chưa phù hợp, hãy sửa lại thành đoạn văn khác chuẩn xác hơn và súc tích hơn
mà vẫn giữ được ý chính:
Cuộc sống “vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”,
vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời
phía trước mình ra sao. Tràng đã thật liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng
thế. Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy trong con
người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân
thành.
5
Đọc đoạn trích (B) và trả lời các câu hỏi từ câu 5 đến câu 8:
(B) Là những người thua cuộc trong trận đấu với Bờ Biển Ngà, nhưng cách
hành xử đầy văn hóa của cả cổ động viên và các cầu thủ Nhật đã khiến thế
giới phải nể phục.
Sau khi tiếng còi kết thúc trận đấu vang lên, những người Nhật đã nán
lại, cầm theo những chiếc túi nhựa để nhặt rác vương vãi tại khu vực ghế
ngồi của các cổ động viên Nhật. Trong lúc cổ vũ, họ cũng giống như cổ động
viên đến từ các nước khác, có vứt rác xuống khán đài, nhưng khi trận đấu kết
thúc, chính họ sẽ ở lại để thu dọn rác mà mình đã vứt ra… Tại Nhật, hành
động này sẽ chẳng có gì đặc biệt bởi đó đã là thói quen của người Nhật từ
bao lâu nay. Mỗi khi tham gia vào những sự kiện lễ hội, thể thao, họ luôn có ý
thức giữ gìn cảnh quan nơi mình tới.
Trước khi rời sân đấu, những cầu thủ của đội Nhật đã xếp hàng ngay
ngắn, cúi đầu hướng về phía những cổ động viên trung thành, đã lặn lội đi theo
họ sang tận Brazil để cổ vũ. Các cầu thủ Nhật đã ở lại để xin lỗi những cổ động
viên nước mình.
(Theo dantri.com.vn,16/6/2014)
Câu 5. Trận đấu giữa Nhật Bản với Bờ Biển Ngà diễn ra vào ngày
15/6/2014, hãy cho biết đoạn trích trên được viết theo phong cách ngôn ngữ
nào của văn bản?
Câu 7. Đoạn trích trên thể hiện những hành vi ứng xử nào của cổ động
viên và cầu thủ Nhật Bản? Những hành vi ứng xử đó phản ánh điều gì về con
người và đất nước Nhật Bản?
Câu 8. Viết một đoạn văn ngắn bày tỏ nhận thức bài học cuộc sống cho
bản thân từ các thông tin được đề cập trong đoạn trích trên.
Từ mã đề 1 và mã đề 2, chúng ta có thể hình dung quá trình đổi mới qua
bảng so sánh sau:
6
MÃ ĐỀ 1
MÃ ĐỀ 2
- Thực hiện trong kiểm tra - Thực hiện trong KTĐG
đánh giá KTĐG) thường thường xuyên hoặc định kì.
ĐIỂM GIỐNG
NHAU
xuyên hoặc định kì.
- Sử dụng kiến thức đã học
- Sử dụng kiến thức đã trong
chương
trình
phổ
học trong chương trình thông.
phổ thông.
- Yêu cầu học sinh ghi - Yêu cầu học sinh đọc và
nhớ, thuộc kiến thức để giải quyết vấn đề bằng khả
trả lời theo đúng chuẩn năng nhận thức, tư duy
kiến thức của chương dựa trên vốn kiến thức đã
trình.
nhà trường phổ thông.
ĐIỂM KHÁC
NHAU
có trong quá trình học tập ở
- Chú trọng đánh giá khối - Chú trọng đánh giá kĩ
lượng kiến thức học sinh năng nắm bắt, vận dụng
cần nắm được
kiến thức để từ đó thể hiện
các năng lực quan trọng của
học sinh: tư duy, sáng tạo,
cảm thụ,...
Như vậy, quá trình kiểm tra, đánh giá học sinh trong môn Ngữ văn đã
có những đổi mới quan trong với những yếu tố đặc trưng, bản chất như sau:
MÃ ĐỀ 1
MÃ ĐỀ 2
Mục tiêu dạy học được mô Kết quả học tập cần đạt được
Mục tiêu
giáo dục
tả không chi tiết và không mô tả chi tiết và có thể quan sát,
nhất thiết phải quan sát, đánh giá được; thể hiện được
đánh giá được.
mức độ tiến bộ của học sinh
một cách liên tục
7
Việc lựa chọn nội dung Lựa chọn nội dung nhằm đạt
dựa vào các khoa học được kết quả đầu ra đã quy
Nội dung
giáo dục
chuyên môn, không gắn định, gắn với các tình huống
với các tình huống thực thực tiễn. Chương trình chỉ quy
tiễn. Nội dung được quy định những nội dung chính,
định chi tiết trong chương không quy định chi tiết
trình
Giáo viên là người truyền - Giáo viên chủ yếu là người tổ
thụ tri thức, là trung tâm thức, hỗ trợ học sinh tự lực và
của quá trình dạy học. tích cực lĩnh hội tri thức. Chú
Phương
pháp
Học sinh tiếp thu thụ động trọng sự phát triển khả năng giải
những tri thức được quy quyết vấn đề, khả năng giao
định sẵn
dạy học
tiếp…
- Chú trọng sử dụng các quan
điểm, phương pháp và kỹ thuật
dạy học tích cực; các phương pháp
dạy học thí nghiệm, thực hành.
Chủ yếu dạy học lý thuyết Tổ chức hình thức học tập đa dạng
trên lớp
chú ý các hoạt động xã hội, ngoại
Hình thức
khoá, nghiên cứu khoa học, trải
dạy học
nghiệm sáng tạo; đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin và
truyền thông trong dạy và học
Đánh giá kết
quả học tập
của học sinh
Tiêu chí đánh giá được xây Tiêu chí đánh giá dựa vào năng lực
dựng chủ yếu dựa trên sự đầu ra, có tính đến sự tiến bộ trong quá
ghi nhớ và tái hiện nội dung trình học tập, chú trọng khả năng vận
đã học
dụng trong các tình huống thực tiễn.
8
MÃ ĐỀ 1- Xây dựng theo chương trình giáo dục định hướng nội
dung học:
Chương trình dạy học truyền thống có thể gọi là chương trình giáo dục
“định hướng nội dung” dạy học hay “định hướng đầu vào” (điều khiển đầu
vào). Đặc điểm cơ bản của chương trình giáo dục định hướng nội dung là chú
trọng việc truyền thụ hệ thống tri thức khoa học theo các môn học đã được
quy định trong chương trình dạy học. Những nội dung của các môn học này
dựa trên các khoa học chuyên ngành tương ứng. Người ta chú trọng việc trang
bị cho người học hệ thống tri thức khoa học khách quan về nhiều lĩnh vực
khác nhau.
Tuy nhiên, càng lên khối lớp cao hơn việc tiếp nhận trở nên bất cập. Do
áp lực thi cử, hiện nay, tình trạng giáo viên “đọc hộ”, “hiểu hộ”, “cảm thụ hộ”
học sinh diễn ra khá phổ biến. Trong các giờ đọc hiểu văn học, học sinh
thường nghe và ghi chép lại những bài giảng của giáo viên hơn là tự mình
cảm thụ, tìm hiểu, khám phá văn bản. Hơn nữa, văn bản được đọc hiểu chủ
yếu là văn bản văn học, có rất ít văn bản nhật dụng được đưa vào chương
trình, SGK. Việc đánh giá kỹ năng đọc của học sinh hiện nay thường diễn ra
dưới hai hình thức: Kiểm tra miệng (yêu cầu học sinh nhắc lại một nội dung
nào đó của bài học đã ghi chép trong vở) và kiếm tra viết (viết về một vấn đề
nào đó của văn bản đã học). Hình thức này chưa đánh giá được năng lực đọc
hiểu các loại văn bản khác nhau của người học.
Ưu điểm của chương trình dạy học định hướng nội dung là việc truyền
thụ cho người học một hệ thống tri thức khoa học và hệ thống. Tuy nhiên,
ngày nay chương trình dạy học định hướng nội dung không còn thích hợp,
trong đó có những nguyên nhân sau”
- Ngày nay, tri thức thay đổi và bị lạc hậu nhanh chóng, việc quy định
cứng nhắc những nội dung chi tiết trong chương trình dạy học dẫn đến tình
trạng nội dung chương trình dạy học nhanh bị lạc hậu so với tri thức hiện đại.
9
Do đó, việc rèn luyện phương pháp học tập ngày càng có ý nghĩa quan trọng
trong việc chuẩn bị cho con người có khả năng học tập suốt đời.
- Chương trình dạy học mang tính thụ động và ít chú ý đến khả năng ứng
dụng nên sản phẩm giáo dục là những con người mang tính thụ động, hạn chế
khả năng sáng tạo và năng động. Do đó chương trình giáo dục này không đáp
ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội và thị trường lao động đối với
người lao động về năng lực hành động, khả năng sáng tạo và tính năng động.
MÃ ĐỀ 2 - xây dựng theo chương trình giáo dục định hướng năng
lực:
Chương trình giáo dục định hướng năng lực (định hướng phát triển năng
lực) nay còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra được bàn đến nhiều từ
những năm 90 của thế kỷ XX và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục
quốc tế. Giáo dục định hướng năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực
người học.
Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc
dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú
trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm
chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và
nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách
chủ thể của quá trình nhận thức.
Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học định
hướng năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là “sản
phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lý chất lượng dạy học
chuyển từ việc “điều khiển đầu vào” sang “điều khiển đầu ra”, tức là kết quả
học tập của học sinh.
Chương trình dạy học định hướng năng lực không quy định những nội
dung dạy học chi tiết mà quy định những kết quả đầu ra mong muốn của quá
trình giáo dục, trên cơ sở đó đưa ra những hướng dẫn chung về việc lựa chọn
10
nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy học nhằm đảm bảo
thực hiện được mục tiêu dạy học tức là đạt được kết quả đầu ra mong muốn.
Trong chương trình định hướng năng lực, mục tiêu học tập, tức là kết quả học
tập mong muốn thường được mô tả thông qua hệ thống các năng lực
(Competency). Kết quả học tập mong muốn được mô tả chi tiết và có thể
quan sát, đánh giá được. Học sinh cần đạt được những kết quả yêu cầu đã quy
định trong chương trình. Việc đưa ra các chuẩn đào tạo cũng là nhằm đảm bảo
quản lý chất lượng giáo dục theo định hướng kết quả đầu ra.
Ưu điểm của chương trình giáo dục định hướng năng lực là tạo điều kiện
quản lý chất lượng theo kết quả đầu ra đã quy định, nhấn mạnh năng lực vận
dụng của học sinh. Tuy nhiên nếu vận dụng một cách thiên lệch, không chú ý
đầu đủ đến nội dung dạy học thì có thể dẫn đến các lỗ hổng tri thức cơ bản và
tính hệ thống của tri thức. Ngoài ra chất lượng giáo dục không chỉ thể hiện ở
kết quả đầu ra mà còn phụ thuộc vào quá trình thực hiện.
Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, khái niệm
năng lực được sử dụng như sau:
- Năng lực liên quan đến bình diện mục tiêu của dạy học: mục tiêu dạy
học được mô tả thông qua các năng lực cần hình thành;
- Trong các môn học, những nội dung và hoạt động cơ bản được liên kết
với nhau nhằm hình thành các năng lực;
- Năng lực là sự kết nối tri thức, hiểu biết, khả năng, mong muốn….
- Mục tiêu hình thành năng lực định hướng cho việc lựa chọn, đánh giá
mức độ quan trọng và cấu trúc hoá các nội dung hoạt động và hành động dạy
học về mặt phương pháp;
- Năng lực mô tả việc giải quyết những đòi hỏi về nội dung trong các
tình huống: ví dụ như đọc một văn bản cụ thể….Nắm vững và vận dụng được
các phép tính cơ bản….;
11
- Các năng lực chung cùng với các năng lực chuyên môn tạo thành nền
tảng chung cho công việc giáo dục và dạy học.
2. Khái quát về kĩ năng và ngữ liệu minh chứng
2.1. Khái quát về kĩ năng
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kỹ năng. Những định nghĩa này
thường bắt nguồn từ góc nhìn chuyên môn và quan niệm cá nhân của người
viết. Tuy nhiên hầu hết chúng ta đều thừa nhận rằng kỹ năng được hình thành
khi chúng ta áp dụng kiến thức vào thực tiễn. Kỹ năng học được do quá trình
lặp đi lặp lại một hoặc một nhóm hành động nhất định nào đó. Kỹ năng luôn
có chủ đích và định hướng rõ ràng.
Kỹ năng theo nghĩa hẹp là những thao tác, những cách thức thực hành,
vận dụng kiến thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện một hoạt động nào đó
trong một môi trường quen thuộc. Kỹ năng hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm
những kiến thức, những hiểu biết và trải nghiệm…giúp cá nhân có thể thích
ứng khi hoàn cảnh thay đổi.
Như vậy, kỹ năng là khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục một
hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức hoặc kinh
nghiệm) nhằm tạo ra kết quả mong đợi.
Bất cứ một kỹ năng nào được hình thành nhanh hay chậm, bền vững
hay lỏng lẻo đều phụ thuộc vào khát khao, quyết tâm, năng lực tiếp nhận của
chủ thể, cách luyện tập, tính phức tạp của chính kỹ năng đó. Dù hình thành
nhanh hay chậm thì kỹ năng cũng đều trải qua những bước sau đây:
- Hình thành mục đích. Lúc này thường thì chủ thể tự mình trả lời câu
hỏi “Tại sao tôi phải sở hữu kỹ năng đó?”; “Sở hữu kỹ năng đó tôi có lợi
gì?”…
- Lên kế hoạch để có kỹ năng đó. Xuất phát từ mục đích, yêu cầu về
mức độ hoàn thành chương trình của học sinh. Cũng có những kế hoạch chi
12
tiết và cũng có những kế hoạch đơn giản như là “ngày mai tôi bắt đầu luyện
kỹ năng đó”.
- Cập nhật kiến thức / lý thuyết liên quan đến kỹ năng đó. Thông qua
tài liệu, báo chí hoặc buổi thuyết trình nào đó. Phần lớn thì những kiến thức
này chúng ta được học từ trường và từ thày của mình.
- Luyện tập kỹ năng: có thể luyện tập ngay trong công việc, luyện tập
với thầy cô hoặc tự mình luyện tập.
- Ứng dụng và điều chỉnh. Để sở hữu thực sự một kỹ năng chúng ta phải
ứng dụng nó trong cuộc sống và công việc. Công việc và cuộc sống thì biến
động không ngừng nên việc hiệu chỉnh là quá trình diễn ra thường xuyên
nhằm hướng tới việc hoàn thiện kỹ năng của chúng ta. Một khi bạn hoàn thiện
kỹ năng thì cũng có nghĩa là bạn đang hoàn thiện bản thân mình.
Trong quá trình dạy học, các kĩ năng cùng với kiến thức và thái độ hình
thành nên năng lực của cá nhân. Để thực hiện một nhiệm vụ, một công việc
có thể đòi hỏi nhiều năng lực khác nhau. Vì năng lực được thể hiện thông qua
việc thực hiện nhiệm vụ nên người học cần chuyển hoá những kiến thức, kỹ
năng, thái độ có được vào giải quyết những tình huống mới và xảy ra trong
môi trường mới.
Nếu nhìn nhận kiến thức là cơ sở để hình thành năng lực, thì kĩ năng
chính là cách thức, con đường để học sinh khám phá và bồi dưỡng năng lực
của mình. Khả năng đáp ứng phù hợp với bối cảnh thực là đặc trưng quan
trọng của năng lực, tuy nhiên, khả năng đó có được lại dựa trên sự đồng hoá
và sử dụng có cân nhắc những kiến thức, khả năng vận dụng trong từng hoàn
cảnh cụ thể.
Các kĩ năng được hình thành ở bản thân mỗi học sinh thể hiện trong các
mức độ nhận thức của quá trình học tập. Người ta chia các mức quá trình
nhận thức và các bậc trình độ nhận thức tương ứng như sau:
13
Các mức
Các bậc trình độ
quá trình
nhận thức
Các đặc điểm
Tái hiện
- Nhận biết lại cái gì đã học
Hồi tưởng
Nhận biết lại
theo cách thức không thay
thông tin
Tái tạo lại
đổi.
1.
- Tái tạo lại cái đã học theo
cách thức không thay đổi
2.
Xử lí
thông tin
Hiểu và vận dụng
- Phản ánh theo ý nghĩa cái
Nắm bắt ý nghĩa
đã học
Vận dụng
- Vận dụng các cấu trúc đã
học trong tình huống tương
tự
Xử lí, giải quyết vấn đề
3.
Tạo thông tin
- Nghiên cứu có hệ thống và
bao quát một tình huống
bằng những tiêu chí riêng
- Vận dụng các cấu trúc đã
học sang một tình huống mới
- Đánh giá một hoàn cảnh,
tình huống thông qua những
tiêu chí riêng
Tổng hợp theo các mức quá trình nhận thức và trình độ nhận thức để giúp
các em học sinh làm tốt bài đọc hiểu, đề tài tập trung vào các kĩ năng sau:
- Kĩ năng nắm bắt, hồi tưởng và khái quát thông tin.
- Kĩ năng xử lí thông tin.
- Kĩ năng tạo thông tin.
14
Kiến thức, kỹ năng là cơ sở cần thiết để hình thành năng lực trong một
lĩnh vực hoạt động nào đó. Không thể có năng lực về toán nếu không có kiến
thức và được thực hành, luyện tập trong những dạng bài toán khác nhau. Tuy
nhiên, nếu chỉ có kiến thức, kỹ năng trong một lĩnh vực nào đó thì chưa chắc
đã được coi là có năng lực, mà còn cần đến việc sử dụng hiệu quả các nguồn
kiến thức, kỹ năng cùng với thái độ, giá trị, trách nhiệm bản thân để thực hiện
thành công các nhiệm vụ và giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn
khi điều kiện và bối cảnh thay đổi.
2.2. Ngữ liệu minh chứng
MÃ ĐỀ 2:
ĐỌC HIỂU
Đọc đoạn trích (A) và trả lời các câu hỏi từ câu 1 đến câu 4:
(A) Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong
xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Mặt hắn có một vẻ gì
phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên
lấp lánh. Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con,
đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt.
Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội chạy ra đón xem. Sợ
chúng nó đùa như ngày trước, Tràng vội vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra
hiệu không bằng lòng.
(Vợ nhặt, Kim Lân, SGK Ngữ văn, tập 2)
Câu 1: Nêu hoàn cảnh liên quan đến nhân vật Tràng được thể hiện trong đoạn
trích trên.
Câu 2: Biện pháp tu từ nào được tác giả sử dụng trong vế in đậm của câu sau:
Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm
bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Em hiểu gì về cuộc sống qua
cách miêu tả đó?
15
Câu 3: Hành động, tâm lí của hình tượng người đàn bà nói lên điều gì bản
chất con người này?
Câu 4: Việc sử dụng từ ngữ trong diễn đạt của đoạn văn dưới đây có chỗ
chưa phù hợp, hãy sửa lại thành đoạn văn khác chuẩn xác hơn và súc tích hơn
mà vẫn giữ được ý chính:
Cuộc sống “vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”,
vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời
phía trước mình ra sao. Tràng đã thật liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng
thế. Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy trong con
người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân
thành.
Đọc đoạn trích (B) và trả lời các câu hỏi từ câu 5 đến câu 8:
(B) Là những người thua cuộc trong trận đấu với Bờ Biển Ngà, nhưng
cách hành xử đầy văn hóa của cả cổ động viên và các cầu thủ Nhật đã khiến
thế giới phải nể phục.
Sau khi tiếng còi kết thúc trận đấu vang lên, những người Nhật đã nán
lại, cầm theo những chiếc túi nhựa để nhặt rác vương vãi tại khu vực ghế
ngồi của các cổ động viên Nhật. Trong lúc cổ vũ, họ cũng giống như cổ động
viên đến từ các nước khác, có vứt rác xuống khán đài, nhưng khi trận đấu kết
thúc, chính họ sẽ ở lại để thu dọn rác mà mình đã vứt ra… Tại Nhật, hành
động này sẽ chẳng có gì đặc biệt bởi đó đã là thói quen của người Nhật từ
bao lâu nay. Mỗi khi tham gia vào những sự kiện lễ hội, thể thao, họ luôn có ý
thức giữ gìn cảnh quan nơi mình tới.
Trước khi rời sân đấu, những cầu thủ của đội Nhật đã xếp hàng ngay
ngắn, cúi đầu hướng về phía những cổ động viên trung thành, đã lặn lội đi theo
họ sang tận Brazil để cổ vũ. Các cầu thủ Nhật đã ở lại để xin lỗi những cổ động
viên nước mình.
(Theo dantri.com.vn,16/6/2014)
16
Câu 5. Trận đấu giữa Nhật Bản với Bờ Biển Ngà diễn ra vào ngày
15/6/2014, hãy cho biết đoạn trích trên được viết theo phong cách ngôn ngữ
nào của văn bản?
Câu 7. Đoạn trích trên thể hiện những hành vi ứng xử nào của cổ động
viên và cầu thủ Nhật Bản? Những hành vi ứng xử đó phản ánh điều gì về con
người và đất nước Nhật Bản?
Câu 8. Viết một đoạn văn ngắn bày tỏ nhận thức bài học cuộc sống cho
bản thân từ các thông tin được đề cập trong đoạn trích trên.
MÃ ĐỀ 3 (Dẫn theo tài liệu tập huấn, Bộ GD &ĐT, 2014):
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi từ Câu 9 đến Câu 16:
TRÁI TIM HOÀN HẢO
Có một chàng thanh niên đứng giữa thị trấn và tuyên bố mình có trái
tim đẹp nhất vì chẳng hề có một tì vết hay rạn nứt nào. Đám đông đều đồng ý
đó là trái tim hoàn hảo nhất mà họ từng thấy. Bỗng một cụ già xuất hiện và
nói: “Trái tim của anh không đẹp bằng trái tim tôi!”. Chàng trai cùng đám
đông ngắm nhìn trái tim của cụ. Nó đang đập mạnh mẽ nhưng đầy những vết
sẹo. Có những phần của tim đã bị lấy ra và những mảnh tim khác được đắp
vào nhưng không vừa khít nên tạo một bề ngoài sần sùi, lởm chởm ; có cả
những đường rãnh khuyết vào mà không hề có mảnh tim nào trám thay thế.
Chàng trai cười nói:
- Chắc là cụ nói đùa! Trái tim của tôi hoàn hảo, còn của cụ chỉ là
những mảnh chắp vá đầy sẹo và vết cắt.
Cụ già trầm tĩnh đáp:
- Mỗi vết cắt trong trái tim tôi tượng trưng cho một người mà tôi yêu,
không chỉ là những cô gái mà còn là cha mẹ, anh chị, bạn bè...Tôi xé một mẩu
tim mình trao cho họ, thường thì họ cũng sẽ trao lại một mẩu tim của họ để
tôi đắp vào nơi vừa xé ra. Thế nhưng những mẩu tim chẳng hoàn toàn giống
17
nhau, mẩu tim của cha mẹ trao cho tôi lớn hơn mẩu tim tôi trao cho họ,
ngược lại với mẩu tim của tôi và con cái tôi. Không bằng nhau nên chúng tạo
ra những nếp sần sùi mà tôi luôn yêu mến vì chúng nhắc nhở đến tình yêu mà
tôi đã chia sẻ. Thỉnh thoảng tôi trao mẩu tim của mình nhưng không hề nhận
lại được gì, chúng tạo nên những vết khuyết. Tình yêu đôi lúc chẳng cần sự
đền đáp qua lại. Dù những vết khuyết đó thật đau đớn nhưng tôi vẫn luôn hi
vọng một ngày nào đó họ sẽ trao lại cho tôi mẩu tim của họ, lấp đầy khoảng
trống mà tôi luôn chờ đợi.
Chàng trai đứng yên với giọt nước mắt lăn trên má. Anh bước tới xé một
mẩu từ trái tim hoàn hảo của mình trao cho cụ già. Cụ già cũng xé một mẩu
từ trái tim đầy vết tích của mình trao cho chàng trai. Chúng vừa nhưng không
hoàn toàn khớp nhau, tạo nên một đường lởm chởm trên trái tim chàng trai.
Trái tim của anh không thật sự hoàn hảo nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết vì
tình yêu từ trái tim của cụ già đã chảy trong trái tim anh.
(Theo Trí Quyển - Quà tặng cuộc sống – NXB Trẻ TP HCM, 2006)
Câu 9. Nội dung chính của văn bản trên là gì?
.............................................................................................................................
Câu 10. Em hiểu thế nào về nhan đề Trái tim hoàn hảo?
.............................................................................................................................
Câu 11. Văn bản trên có sự kết hợp những phương thức biểu đạt nào?
..........................................................................................................................
Câu 12. Đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật thể hiện của văn bản trên là gì?
.......................................................................................................................
Câu 13. Hãy cho biết ý nghĩa biểu tượng của những chi tiết sau:
- vết sẹo:....................................................................................................
- đường rãnh khuyết: ................................................................................
- đường lởm chởm:....................................................................................
18
Câu 14. Hãy giải thích về “giọt nước lăn trên má” của chàng trai.
...................................................................................................................
Câu 15. Bài học gì được rút ra từ câu chuyện trên?
..........................................................................................................................
Câu 16. Viết đoạn văn (khoảng 10-15 dòng) nêu cảm nhận của anh/chị về
câu văn: “Trái tim của anh không thật sự hoàn hảo nhưng lại đẹp hơn bao giờ
hết vì tình yêu từ trái tim của cụ già đã chảy trong trái tim anh.”?
..........................................................................................................................
3. Bồi dưỡng kĩ năng đọc hiểu cho học sinh trong quá trình kiểm tra,
đánh giá.
Để thực hiện đọc – hiểu và phát huy tính chủ động, sáng tạo của học
sinh, giáo viên cần có thái độ cởi mở, chấp nhận những cách hiểu khác nhau
miễn là có lí. Trong trường hợp có cách hiểu khác nhau thì giáo viên phát huy
đối thoại, thảo luận, phân tích giá trị của từng cách hiểu dựa trên nền tảng
kiến thức cơ bản, để lựa chọn cách hiểu có ý nghĩa nhất, hay nhất, có sức
thuyết phục cao.
3.1. Kĩ năng nắm bắt, hồi tưởng và khái quát thông tin.
Kĩ năng này giúp học sinh thực hiện các câu hỏi dạng tái hiện lại, nhận
biết thông tin.
Câu hỏi dạng tái hiện lại, nhận biết thông tin.
Câu 1: Nêu hoàn cảnh liên quan đến nhân vật Tràng
được thể hiện trong đoạn trích trên.
MÃ ĐỀ 2
Câu 2: Biện pháp tu từ nào được tác giả sử dụng trong
vế in đậm của câu sau: Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói
khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy
19
Tràng về với một người đàn bà nữa.?
Câu 5. Trận đấu giữa Nhật Bản với Bờ Biển Ngà diễn
ra vào ngày 15/6/2014, hãy cho biết đoạn trích trên
được viết theo phong cách ngôn ngữ nào của văn bản?
Câu 7. Đoạn trích trên thể hiện những hành vi ứng xử
nào của cổ động viên và cầu thủ Nhật Bản?
Câu 9. Nội dung chính của văn bản trên là gì?
Câu 11. Văn bản trên có sự kết hợp những phương thức
MÃ ĐỀ 3
biểu đạt nào?
Câu 12. Đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật thể hiện của
văn bản trên là gì?
3.1.1. Đối với những văn bản trong chương trình phổ thông.
- Đọc kĩ ngữ liệu và xác định các đơn vị kiến thức cần thiết và liên quan:
tác giả và tác phẩm (bối cảnh sáng tác, thể loại, nội dung cơ bản và đặc trưng
nghệ thuật,...), vị trí đoạn trích,....
- Đọc kĩ các yêu cầu từ ngữ liệu để chuẩn bị thực hiện các yêu cầu: Lựa
chọn đơn vị kiến thức trong bộ môn và liên môn phù hợp với yêu cầu. Muốn
lựa chọn đúng và trúng yêu cầu, học cần nắm được đặc trưng bản chất cốt lõi
của đơn vị kiến thức cần nêu ra.
Nếu đề yêu cầu chỉ ra phương thức biểu đạt được sử dụng thì học sinh
phải hiểu được:
Phương thức biểu đạt
Đặc trưng, bản chất
Tự sự
Kể lại, thuật lại
Miêu tả
Thể hiện cụ thể về đặc trưng, chi tiết, vẻ đẹp, điểm
nổi bật của đối tượng để người đọc hình dung cụ thể
20