Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn sử dụng sơ đồ tư duy để hình thành năng lực tự học cho học sinh trong môn n...

Tài liệu Skkn sử dụng sơ đồ tư duy để hình thành năng lực tự học cho học sinh trong môn ngữ văn 12

.DOC
33
1210
95

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NAM ĐỊNH TRƯỜNG THPT B HẢI HẬU ---— – --- S¸ng kiÕn dù thi cÊp tØnh BÁO CÁO SÁNG KIẾN SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY ĐỂ HÌNH THÀNH NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG MÔN NGỮ VĂN 12 Tác giả : Nguyễn Thị Huyền Trình độ chuyên môn : Cử nhân Ngữ văn Chức vụ : Giáo viên Nơi công tác : Trường THPTB Hải Hậu Hải Hậu, tháng 05 năm 2016 THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: “Sử dụng sơ đồ tư duy để hình thành năng lực tự học cho học sinh trong môn Ngữ văn 12” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Áp dụng giảng dạy Ngữ văn 12 3. Thời gian áp dụng sáng kiến : Từ ngày 25 tháng 8 năm 2015 đến 28 tháng 5 năm 2016 4. Tác giả Họ và tên: Nguyễn Thị Huyền Năm sinh: 1983 Nơi thường trú: Hải Phú – Hải Hậu – Nam Định Trình độ chuyên môn: Cử nhân sư phạm Ngữ văn Chức vụ công tác: Giáo viên Nơi làm việc: Trường THPT B Hải Hậu Điện thoại: 01233853818 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến Tên đơn vị: Trường THPT B Hải Hậu Địa chỉ: Hải Phú – Hải Hậu – Nam Định Điện thoại: 03503874470 NỘI DUNG Thông tin chung về sáng kiến Mục lục Bảng danh mục chữ viết tắt I. Điều kiện, hoàn cảnh tạo ra sáng kiến 1. Cơ sở lí luận 2. Cơ sở thực tế II. Mô tả giải pháp 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến 2. Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến 2.1. Quan niệm về năng lực tự học 2.2. Khái quát về sơ đồ tư duy 3. Các biện pháp cụ thể 3.1. Cách vẽ sơ đồ tư duy 3.2. Cách đọc sơ đồ tư duy 3.3. Sử dụng sơ đồ tư duy trong môn Ngữ văn 12 III. Hiệu quả do sáng kiến mang lại 1. Hiệu quả xã hội 2. Hiệu quả kinh tế IV. Kiến nghị, đề xuất V. Cam kết Tài liệu tham khảo Trang 1 2 3 4 4 4 6 6 7 7 8 9 9 10 11 27 27 28 29 29 30 BẢNG DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Học sinh Giáo viên Trung học phổ thông Sách giáo khoa Sơ đồ tư duy BÁO CÁO SÁNG KIẾN : HS : GV : THPT : SGK :SĐTD I. ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN 1. Cơ sở lí luận Có thể thấy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức, chưa bao giờ nền giáo dục và đào tạo nước ta lại đứng trước thử thách to lớn như hiện nay, nhất là khi nó được xem như là một khâu của quá trình sản xuất, là bộ phận chủ yếu của nền kinh tế tri thức. Trước tình hình đó, ngành Giáo dục và Đào tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo hướng tiếp cận năng lực người học, nghĩa là quan tâm đến việc học sinh làm được cái gì qua việc học... Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công phương thức dạy học nặng về truyền thụ kiến thức sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực và phẩm chất, đồng thời phải chuyển từ cách đánh giá kết quả giáo dục nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, chú trọng kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục. Nghị quyết TW 8 khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức mới, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực”. Trong chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 - 2020 ban hành kèm theo Quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ: “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học”. Rõ ràng, một trong những vấn đề cơ bản của đổi mới PPDH hiện nay là phát huy nội lực của người học, hình thành năng lực tự học của học sinh qua mỗi bài học. Vấn đề này đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với giáo viên là phải đổi mới cách dạy. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn, tổ chức cho học sinh đi tìm kiến thức mới, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Chính vì vậy, học sinh phải là người tự giác, chủ động, tìm tòi phát hiện các kiến thức mới một cách linh hoạt, sáng tạo vào thực tiễn cuộc sống thông qua sự định hướng dẫn dắt của giáo viên trong tiết dạy. Do đó, việc lựa chọn phương pháp dạy học sao cho phù hợp và phát huy được sự yêu thích, tính chủ động của học sinh đối với môn học là một vấn đề rất quan trọng. Đó vừa là kĩ thuật vừa là nghệ thuật sư phạm của người giáo viên. Môn Ngữ văn cũng chia sẻ sứ mệnh đầy khó khăn và vẻ vang ấy. 2. Cơ sở thực tiễn. Trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy môn Ngữ văn nói chung và môn Ngữ văn 12 nói riêng ở trường THPT B Hải Hậu, tôi nhận thấy rằng khối lượng kiến thức mà học sinh phải tiếp cận và nắm bắt là rất bề bộn, nhất là ở môn Ngữ văn 12. Trong khi đó, với môn Ngữ văn học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình, không biết vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề của môn học cũng như trong thực tiễn đời sống. Nhất là đến các kì thi các em cuống cuồng không vì biết làm thế nào để tiêu thụ kiến thức của môn Ngữ văn. Đặc biệt khi môn Ngữ văn 12 lại là môn thi bắt buộc trong kì thi THPT Quốc gia. Chính điều này làm cho việc học tập môn Ngữ văn trở nên nhàm chán, máy móc, thụ động, không sáng tạo, học văn trở thành một cuộc “đấu vật” mệt mỏi và buồn tẻ. Vấn đề ở đây là các em chưa có phương pháp học hiệu quả, chưa thực sự biết biến kiến thức từ sách vở, từ bài giảng của thầy cô thành tri thức, kinh nghiệm và vốn sống sở hữu của bản thân. Hay nói khác đi là các em chưa có năng lực tự học, tự nghiên cứu. Bởi vậy, để giúp học sinh nắm được kiến thức sâu hơn, bền vững hơn, hiệu quả vận dụng được tốt hơn, hình thành cho các em năng lực tự học đối với bộ môn, tôi đã nghiên cứu và tìm đến kĩ thuật sơ đồ tư duy (SĐTD) trong các tiết dạy môn Ngữ văn 12 như là một giải pháp nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học cũng như để hướng dẫn học sinh học tập hiệu quả. Trong qúa trình nghiên cứu và thử nghiệm, tôi nhận thấy rằng kĩ thuật dạy học này thực sự cần thiết bởi với việc sử dụng SĐTD sẽ góp phần hỗ trợ đặc lực trong việc biến quá trình dạy học của giáo viên thành quá trình tự học của học sinh trong môn Ngữ văn. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên học sinh sẽ tự tìm ra chân lí. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP. 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến Hiện nay, thuật ngữ SĐTD không còn xa lạ với các giáo viên và học sinh trong trường phổ thông. SĐTD được mệnh danh là “công cụ vạn năng cho bộ não”, là phương pháp tư duy đầy sáng tạo, hiện đang được hơn 250 triệu người trên thế giới sử dụng. Có thể nói, SĐTD đã và đang mang lại hiệu quả thực sự cho con người nhất là trong lĩnh vực giáo dục. Đây được xem là kĩ thuật dạy học tích cực góp phần đổi mới PPDH và mang đến cho học sinh phương pháp học tập hiệu quả. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng phương pháp học là một công cụ cơ bản của tự học. Song qua dự giờ, thăm lớp, trao đổi với các động nghiệp môn Ngữ văn, tôi thấy các thầy cô đưa kĩ thuật SĐTD vào các tiết dạy của mình còn hạn chế. Hoặc nếu có thì cũng chỉ dừng lại ở việc ôn tập kiến thức trong các kì thi và còn số này cũng không nhiều. Qua tìm hiểu, tôi thấy nguyên nhân chủ yếu là để thiết kế được một SĐTD cho tiết dạy, thực tế, giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian, công sức mà nhiều khi lại không biết phải tổ chức thiết kế hoạt động dạy học như thế nào với SĐTD để phát huy năng lực tự học của học sinh. Do đó, đa số học sinh cũng chưa biết sử dụng SĐTD để ghi nhớ, khắc sâu kiến thức bài học hay giải quyết các bài tập của môn Ngữ văn. Điều này dẫn đến hệ quả là giáo viên dạy Ngữ văn vất vả cứ như đi cày khi truyền đạt tri thức tới học sinh. Như thế sẽ thật khó khơi dậy ở các em niềm yêu thích đối với môn học đầy tính nhân văn này. Còn học sinh luôn tỏ ra rất thụ động trong các giờ Ngữ văn, dẫn đến tâm lí “ngại”, “lười” thậm chí là “sợ” học môn Ngữ văn. Trong khi đó môn Ngữ văn là một trong những môn thi bắt buộc của Bộ trong kì thi THPT Quốc gia thì đây quả là một “vấn đề” nan giải. Từ thực trạng trên, trong bài viết này chúng tôi xin mạnh dạn đề cập đến việc sử dụng SĐTD để hình thành năng lực tự học cho học sinh trong môn Ngữ văn 12 với mong muốn và hi vọng chia sẻ tới các đồng nghiệp một phương pháp dạy và học hiệu quả. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến 2.1. Quan niệm về năng lực tự học 2.1.1. Năng lực Năng lực là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái độ và vận hành (kết nối) chúng hợp lí vào thực hiện thành công nhiệm vụ hoặc giải quyết hiệu quả vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Năng lực là một cấu trúc động (trừu tượng), có tính mở, đa thành tố, đa tầng bậc, hàm chứa trong nó không chỉ là kiến thức, kĩ năng, thái độ … mà cả niềm tin, giá trị, trách nhiệm xã hội… thể hiện ở tính sẵn sàng hành động trong những điều kiện thực tế, hoàn cảnh thay đổi. Năng lực của học sinh phổ thông là năng lực làm chủ những hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái độ… phù hợp với lứa tuổi và vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lí vào thực hiện thành công nhiệm vụ học tập, giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra cho chính các em trong đời sống. Theo PGS.TS Nguyễn Công Khanh ( Đại học sư phạm Hà Nội) thì năng lực của học sinh phổ thông gồm: Năng lực chung và năng lực chuyên biệt. Các năng lực chung gồm: Nhóm năng lực làm chủ phát triển bản thân : tự học, tự giải quyết vấn đề, sáng tạo, quản lí; nhóm năng lực về quan hệ xã hội: giao tiếp, hợp tác; nhóm năng lực công cụ: sử dụng công nghệ thông tin, sử dụng ngôn ngữ, tính toán. Các năng lực chuyên biệt môn học (lĩnh vực hoc tập) gồm: Tiếng Việt, Tiếng nước ngoài, Toán; khoa học tự nhiên; khoa học xã hội và nhân văn; thể chất; nghệ thuật… 2.1.2. Năng lực tự học của học sinh THPT Tự học là một vấn đề đề quan trọng phương pháp đổi mới đổi mới giáo dục. Tự học đặt ra vấn đề giải phóng tiềm năng sáng tạo cho mỗi người, hình thành phương pháp tư duy, đạt được hiệu quả bền vững của giáo dục nhà trường. Đây là tư tưởng đầy tính nhân văn, dân chủ. Nó giúp con người có được công cụ để học tập suốt đời. Theo GS Nguyễn Cảnh Toàn: Tự học là tự mình dùng các giác quan để thu nhận thông tin rồi tự mình động não, sử dụng các năng lực, trí tuệ (quan sát, phân tích, so sánh, tổng hợp) và có khi cả cơ bắp (phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình rồi cả động cơ, tình cảm cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh được một lĩnh vực hiểu biết nào đó, một số kĩ năng nào đó, một số phẩm chất nào đó của nhân loại hay cộng đồng rồi biến chúng thành sở hữu của chính mình. Phát minh ra cái mới cũng được coi là một hình thức tự học cao cấp. Theo tác giả Nguyễn Kì, tự học của học sinh THPT có bốn đặc trưng cơ bản sau: - Thứ nhất là học sinh phải biết tìm ra kiến thức. - Thứ hai là người học tự thể hiện mình, đặt mình vào tình huống tự trình bày bảo vệ sản phẩm, tỏ rõ thái độ của mình trước môi trường xung quanh. - Thứ ba người thầy là người tự tổ chức hướng dẫn cho học sinh tự nghiên cứu tìm ra tri thức và thể hiện mình trước tập thể, trước cộng đồng. - Thứ tư người học tự kiểm tra, tự đánh giá tri thức của mình với bạn bè và dựa vào kết luận của thầy cô tự mình sửa chữa, tự mình điều chỉnh, tự mình hoàn thiện và tự mình rút ra được kinh nghiệm về cách học, cách xử lí tình huống, cách giải quyết vấn đề của mình của mình. Như vậy, năng lực tự học là nội lực phát triển của bản thân người học như tự tìm tòi, tự nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề thực tiễn, tự đổi mới sáng tạo trong công việc hàng ngày. Thực chất năng lực tự học của học sinh THPT chủ yếu là năng lực nghiên cứu sách giáo khoa, ghi chép thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình,vận dụng kiến thức đã học vào làm các bài tập …nhằm phát huy một cách tối đa tính tích cực chủ động, độc lập, tự giác nhằm nắm vững những tri thức mà loài người đang tích lũy, biến nó thành tài sản, thành vốn hiểu biết riêng của bản thân. 2.2. Khái quát về SĐTD 2.2.1. Khái niệm Sơ đồ tư duy (Mind Map) hay còn gọi là lược đồ tư duy, bản đồ tư duy đựơc giáo sư người Anh Tony Buzan phát minh ra vào cuối thế ki XX dựa trên những nghiên cứu về hoạt động của bộ não. Vậy SĐTD là gì? SĐTD là một hình thức ghi chép phi tuyến tính dưới dạng biểu đồ mở rộng; sử dụng đường nét, màu sắc và hình ảnh để biểu thị, phát triển hay đào sâu một ý tưởng nào đó. Nó phản ánh quá trình diễn ra bên trong đầu óc con người; có tác dụng hệ thống hoá các nội dung tri thức, thúc đẩy hoạt động ghi nhớ và tiềm năng sáng tạo vô biên. Xét theo nghĩa như vậy SĐTD không chỉ là sản phẩm của quá trình tư duy mà hơn thế còn phản ánh chính xác sự diễn tiến của tư duy. Nó vừa là kết quả, vừa là quá trình. 2.2.2. Lợi ích của SĐTD Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, tôi thấy nếu sử dụng SĐTD trong dạy học sẽ có những ưu điểm sau: - Đơn giản hóa nội dung bài học, giải quyết được vấn đề quá tải kiến thức, tiết kiệm thời gian, công sức của rngười học. - Hệ thống hóa kiến thức logic, rành mạch giúp học sinh phát huy năng lực diễn đạt trong tạo lập văn bản. - Tối đa khả năng ghi nhớ và tư duy não phải với các đường nét, màu sắc và hình ảnh minh họa. - Là công cụ hỗ trợ đắc lực quá trình tự học của người học . - Tạo niềm hứng thú và đặc biệt yêu thích đối với môn học. 2.2.3. Bản chất của dạy học bằng sơ đồ tư duy Tận dụng được các nguyên tắc của trí nhớ siêu đẳng bao gồm: + Sự hình dung: SĐTD có rất nhiều hình ảnh để bạn hình dung về kiến thức cần nhớ. Đối với não bộ, SĐTD giống như một bức tranh lớn đầy hình ảnh và màu sắc phong phú hơn là một bài học khô khan, nhàm chán. + Sự liên tưởng: SĐTD hiển thị sự liên kết giữa các ý tưởng một các rất rõ ràng, logic. + Làm nổi bật ý tưởng: SĐTD cho phép bạn làm nổi bật các ý tưởng trọng tâm bằng một bức tranh đầy màu sắc, kích cỡ, hình ảnh đa dạng và có sự liên kết chặt chẽ với nhau. 3. Các giải pháp cụ thể 3.1. Cách vẽ một sơ đồ tư duy Giáo viên cần phải hướng dẫn cho học sinh cách vẽ một SĐTD. Để vẽ một bản đồ tư duy hoàn chỉnh, chúng ta thống nhất cách vẽ từ trái qua phải (ngược chiều kim đồng hồ) bao và gồm có các bước cơ bản sau đây: - Bước 1: Vẽ chủ đề ở trung tâm. Bước đầu tiên trong việc tạo ra một bản đồ tư duy là vẽ chủ đề ở trung tâm trên một mảnh giấy. Quy tắc vẽ chủ đề : + Vẽ chủ đề ở trung tâm để từ đó phát triển ra các ý khác. + Có thể tự do sử dụng tất cả màu sắc mà bạn thích. + Không nên đóng khung hoặc che chắn mất hình vẽ chủ đề vì chủ đề cần được làm nổi bật dễ nhớ. + Có thể bổ sung từ ngữ vào hình vẽ chủ đề nếu chủ đề không rõ ràng. - Bước 2 : Vẽ các nhánh chính. Bước tiếp theo là tìm các ý chính làm rõ cho chủ đề trung tâm, từ đó, vẽ ra các nhánh chính đầu tiên. Quy tắc vẽ nhánh chính: + Nhánh chính nên được vẽ gắn liền với trung tâm. + Nhánh chính nên được vẽ theo hướng chéo góc để nhiều nhánh phụ khác có thể được vẽ tỏa ra một cách dễ dàng. - Bước 3: Vẽ các nhánh con Tiếp tục tìm câu hỏi để làm rõ nhánh chính, từ đó vẽ tiếp các nhánh con. Đi kèm các nhánh con là các từ khóa thích hợp Quy tắc vẽ các nhánh con và chi tiết hỗ trợ : + Nên tận dụng các từ khóa và hình ảnh. + Bất cứ lúc nào có thể, hãy dùng những biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và thời gian. Mọi người ai cũng có cách viết tắt riêng cho những từ thông dụng. Mỗi từ khóa - hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc riêng trên nhánh. Tất cả các nhánh của một ý nên tỏa ra từ một điểm. Tất cả các nhánh tỏa ra từ một điểm (thuộc cùng một ý) nên có cùng một màu. Chúng ta thay đổi màu sắc khi đi từ một ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn. - Bước 4: Lặp lại bước 3, để trí tưởng tượng và sáng tạo bằng cách thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan trọng thêm nổi bật, cũng như giúp lưu chúng vào trí nhớ tốt hơn. * Lưu ý học sinh những điều cần tránh khi ghi chép trên sơ đồ tư duy: - Ghi lại nguyên cả đoạn văn dài dòng. - Ghi chép quá nhiều ý vụn vặt không cần thiết. - Dành quá nhiều thời gian để ghi chép. 3.2. Cách đọc một SĐTD Vẽ từ đâu thì bắt đầu đọc từ đó. Nghĩa là, ta sẽ đọc theo ngược chiều kim đồng hồ. 3.3. Sử dụng SĐTD trong môn Ngữ văn 12 3.3.1. Dạy bài mới. Để hình thành kiến thức mới, giáo viên điều hành, hướng dẫn, tổ chức hoạt động dạy và học bằng cách đưa ra những câu hỏi mang tính định hướng. Sau đó, giáo viên sử dụng SĐTD thể hiện nội dung bài dạy. Cách này, có thể áp dụng rất hiệu quả đối với những bài mang tính chất tái hiện kiến thức như các bài về Tác gia văn học, Khái quát văn học, Tiếng Việt, Làm văn, Lí luận văn học. Ví dụ: Với bài “ Tuyên ngôn độc lập”, phần: Tác giả Hồ Chí Minh, sau khi tiến hành hoạt động khởi động, giáo viên vẽ chủ đề trung tâm lên bảng. Sau đó, sử dụng các câu hỏi định hướng đưa học sinh chiếm lĩnh kiến thức mới như sau. + Theo các em, khi học bài này, chúng ta cần phải đảm bảo được những luận điểm cơ bản nào? - HS trả lời: Tiểu sử, sự nghiệp văn học hoặc tiểu sử, quan điểm sáng tác, di sản văn học, phong cách nghệ thuật. + Giáo viên định hướng cách hai và đây cũng là 4 nhánh chính của sơ đồ tư duy bài học. Tiếp tục tiếp cận bài học bằng cách hoàn thiện những nhánh chính của SĐTD. Mục tiểu sử + GV: Theo em, những yếu tố nào làm nên sự vĩ đại của Hồ Chí Minh? - HS dựa vào SGK trả lời ngắn gọn (Quê hương, gia đình, thời đại, bản thân). + Gv nhận xét và thể hiện trên SĐTD Mục quan điểm sáng tác + GV: Quan điểm sáng tác là chỗ đứng để nhìn nhận nghệ thuật, là lập trường, quan niệm, ý kiến của mỗi nhà văn về văn học. Quan điểm đó được thể hiện trong các tác phẩm của họ. Em hãy cho biết, quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh có mấy nội dung? Cụ thể mỗi nội dung ấy là gì? - HS: trả lời 3 nội dung. + GV nhận xét, có thể lấy dẫn chứng chứng minh để tăng tính thuyết phục của bài học, sau đó thể hiện trên SĐTD Mục di sản văn học + GV: Những áng văn chính luận, Truyện và kí, Thơ ca của Bác viết nhằm mục đích gì? Ở mỗi thể loại, em hãy kể tên một số tác phẩm tiêu biểu? - HS trả lời, GV thể hiện trên SĐTD Mục phong cách nghệ thuật + GV: Phong cách nghệ thuật là những đặc điểm riêng biệt về tư tưởng và hình thức nghệ thuật của mỗi nhà văn trong cách nhìn, cách cảm nhận cuộc sống và con người trong cách chọn đề tài, chủ đề và cấu trúc của tác phẩm… Mỗi nhà văn đều có phong cách riêng, nhà văn càng lớn, phong cách càng đậm nét. Dựa vào SGK, em hãy nêu những nhận định chung cũng như đặc điểm riêng về từng thể loại trong phong cách nghệ của Bác ? - HS: Trả lời + GV: Nhận xét, lấy dẫn chứng để chứng minh và thể hiện trên SĐTD Với bài “ Tuyên ngôn độc lập” phần một: Tác giả Hồ Chí Minh, ta có SĐTD như hình trang 13 Ví dụ 2: Với bài “Phong cách ngôn ngữ khoa học”, GV giới thiệu bài mới và đưa ra các câu hỏi liên quan đến việc hình thành kiến thức mới ( Văn bản khoa học có mấy loại? Ngôn ngữ khoa học tồn tại ở những dạng nào? Những đặc trưng cơ bản của phong cách ngôn ngữ khoa học? ). Cuối bài học ta có SĐTD như hình trang 15 3.3.2. Củng cố bài học Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ SĐTD. GV gọi HS nên trình bày SĐTD bài học của mình hoặc của nhóm mình, gọi HS các nhóm khác nhận xét, bổ sung. GV nhận xét, chỉnh sửa cho HS về kiến thức, đường nét. Sau đó, GV đưa ra SĐTD của bài học đã được chuẩn bị trước trên máy chiếu hay trên bảng phụ để học sinh tham khảo. Sau đó, yêu cầu HS về nhà học bài cũ bằng cách hoàn thiện SĐTD cuả mình về bài học, GV sẽ kiểm tra vào tiết học sau. Như vậy sau mỗi bài học, HS đều có SĐTD riêng, các em bảo quản, lưu giữ để sâu này thuận lợi cho việc ôn tập cuối năm nhất là học sinh lớp 12. Ví dụ: Văn bản “ Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, ta có SĐTD ở phần củng cố như hình trang 17 3.3.3. Kiểm tra, đánh giá GV có thể sử dụng SĐTD để kiểm tra, đánh giá học sinh ngay trong quá trình dạy học để có thể tác động kịp thời nhằm năng cao hoạt động dạy và học. + Sử dụng SĐTD để kiểm tra việc học bài cũ ở nhà của học sinh. Cách làm này, đòi hỏi học sinh phải nắm được hệ thống ý của bài, tránh lối học vẹt hay ghi nhớ máy móc. - Ví dụ 1: Làm thế nào để nhận biết một văn bản có thuộc phong cách ngôn ngữ khoa học hay không? Hãy thể hiện điều đó bằng SĐTD? → HS sẽ phải dùng SĐTD để thể hiện các đặc trưng của phong cách ngôn ngữ khoa học. - Ví dụ 2: GV có thể trình chiếu SĐTD của bài học trước lên bảng và yêu cầu HS trình bày suy nghĩ, hiểu biết của mình về nội dung đó nằng một đoạn văn. Đơn cử như khi kiểm tra bài “Người lái đò sông Đà”, GV có thể trình chiếu SĐTD trên máy chiếu hoặc thể hiện trên bảng phụ (như hình vẽ trang 17) và yêu cầu học sinh làm nổi bật sự hung bạo của sông Đà qua cảnh đá bờ sông dựng vách thành bằng một đoạn văn từ 5-7 dòng. → Với cách làm này, HS sẽ hình thành năng lực tự học, năng lực cảm thụ văn học, năng lực tạo lập văn bản. + GV dùng SĐTD để kiểm tra năng lực tìm ý và lập dàn ý trong văn nghị luận mà việc tìm và lập ý trong văn nghị luận giống như việc xây dựng nền móng và dựng nên dàn giáo của một căn nhà. Nếu nền móng và dàn giáo không vững thì căn nhà sẽ bị đổ. Do vậy công việc này sẽ tránh cho học sinh mắc lỗi viết lan man, lủng củng, lặp ý. Hơn nữa, khi học sinh biết sử dụng SĐTD lập ý là các em đã biết chuyển kiến thức từ bài giảng của thầy cô thành kiến thức của riêng mình. Đây là điều rất cần thiết với người học văn. - Ví dụ: Nhận xét về nhân vật thị trong “Vợ nhặt” của Kim Lân có ý kiến cho rằng “ Đó là một người phụ nữ nghèo, cùng đường và liều lĩnh”. Nhưng có ý kiến khác lại khẳng định “ Đó là một người phụ nữ giàu nữ tính khát vọng”. Anh (chị) hãy bình luận về hai ý kiến trên. - Với đề bài này, mỗi học sinh sẽ có một một SĐTD thể hiện dàn ý khác nhau làm nên dấu ấn riêng của bản thân. Các em sẽ biến kiến thức từ sách vở, từ bài giảng của thày cô thành kiến thức của chính mình. Như vậy năng lực tự học không những được hình thành mà còn được phát huy cao độ. Sau đây, là hai SĐTD khác nhau của em Nguyễn Thị Tho và em Nguyễn Thị Thoa lớp 12 C6 trường THPT B Hải Hậu khi cùng lập dàn ý cho đề văn trên. Sơ đồ tư duy bài làm của em Nguyễn Thị Tho lớp 12C6
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng