Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Skkn tiếp cận bài thơ tương tư của nguyễn bính từ góc nhìn bản sắc dân tộc...

Tài liệu Skkn tiếp cận bài thơ tương tư của nguyễn bính từ góc nhìn bản sắc dân tộc

.PDF
23
1647
94

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 2 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ KINH NGHIỆM BỒI DƯỠNG ĐỘI TUYỂN HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Người thực hiện: Hoàng Thị Chiên Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc lĩnh vực môn: Ngữ văn THANH HOÁ NĂM 2013 1 MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÍ LUẬN II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI TRANG 2 4 4 4 II.1. Những thuận lợi và khó khăn đối với giáo viên khi thực hiện đề tài II.2.Thực trạng chung về việc bồi dưỡng học sinh giỏi và số lượng, chất lượng giải học sinh giỏi trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài. 4 5 III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TÔI Đà VÀ ĐANG LÀM ĐỂ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CÓ HIỆU QUẢ 6 III.1. Người giáo viên phải luôn giữ được ngọn lửa nhiệt tình, đam mê với nghề nghiệp III.2. Chủ động phân loại học sinh, phát hiện ra những học sinh có khả năng về môn văn III.3. Tiến hành tuyển chọn đội tuyển học sinh giỏi. III.4. Lập kế hoạch bồi dưỡng đội tuyển và phân công người dạy rõ ràng III.5. Sưu tầm, giới thiệu các tài liệu tham khảo yêu cầu học sinh tự học, tự tìm hiểu ở thư viện và nhiều nguồn khác III.6. Giáo viên vừa cung cấp, vừa yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép vào một cuốn sổ riêng những lời nhận định, đánh giá sắc nét, độc đáo của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học và những câu thơ, đọan thơ hay của nhiều tác giả văn học qua các giai đọan văn học gắn với các chuyên đề mà giáo viên bồi dưỡng. III.7. Giáo viên lựa chọn một số chuyên đề quan trọng gắn với chương trình thi để giúp học sinh đi vào nắm bắt kiến thức của các chuyên đề đó có chiều sâu và rộng III.8. Chọn lọc một số đề thi qua các kì thi học sinh giỏi tỉnh Thanh Hoá, tỉnh bạn, kì thi quốc gia qua một số năm để hướng dẫn học sinh cách tiếp cận đề, nắm yêu cầu đề ra, định hướng lập ý và tìm ý cho một bài văn nghị luận. III.9. Ra đề làm bài văn trên lớp, kể cả bài viết ở nhà để học sinh viết theo thời gian ấn định.Giáo viên chấm bài, giúp học sinh phát huy ưu điểm và khắc phục nhược điểm. III.10. Giáo viên gần gũi, quan tâm đến học sinh, thường xuyên động viên học sinh bằng những lời chân thành, khích lệ các em cố gắng. III.11. Gặp gỡ và truyền đạt một số bí quyết để học sinh có thể đạt giải 6 IV. KẾT QUẢ C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT TÀI LIỆU THAM KHẢO 7 8 8 8 9 11 15 16 17 18 19 21 22 2 A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Ở thời đại nào cũng vậy, người tài đều có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến sự sống còn của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam ta, điều đó lại càng được khẳng định rõ nét qua lịch sử của dân tộc. Người xưa từng nói “ Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên ”(Hiền tài là nguyên khí của quốc gia - Thân Nhân Trung.) Tiếp nối truyền thống ấy, ngày nay Đảng và Nhà Nước ta luôn coi giáo dục là “quốc sách hàng đầu”, luôn xác định “ Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” là mục tiêu quan trọng mà ngành giáo dục hướng tới. Bộ giáo dục và đào tạo đã có rất nhiều chủ trương mới về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Đó là chú trọng tiếp tục xây dựng hệ thống các trường chuyên một cách hoàn thiện hơn; khuyến khích và tôn vinh những học sinh có thành tích cao trong học tập; các học sinh có năng khiếu được học với chương trình nâng cao phù hợp với năng lực và nguyên vọng của các em; những năm trước, học sinh đạt giải học sinh giỏi quốc gia từ giải ba trở lên còn được tuyển thẳng vào Đại học theo nguyện vọng... Chính vì vậy mà có thể nói công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là công tác mũi nhọn và trọng tâm của ngành giáo dục. Nó có tác dụng tích cực, thiết thực và mạnh mẽ trong việc nâng cao chất lượng cho đội ngũ giáo viên và kích thích tinh thần say mê học tập của học sinh, nâng cao chất lượng và khẳng định uy tín, thương hiệu nhà trường, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung. 2. Năm nào cũng vậy, Sở giáo dục và đào tạo Thanh Hoá đều tổ chức kì thi chọn học sinh giỏi các cấp, trong đó có thi học sinh giỏi THPT. Kì thi này nhằm lựa chọn và tôn vinh những học sinh có thành tích cao trong các môn học. Đồng thời, kết quả của cuộc thi này cũng là một căn cứ , một kênh thông tin quan trọng để Sở giáo dục và đào tạo đánh giá chất lượng giáo dục của mỗi trường học trong phạm vi toàn tỉnh. Vì thế, hàng năm, trường THPT Triệu Sơn 2 vẫn coi công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của thầy và trò. 3. Nghề dạy học là một nghề “Cao quý nhất trong những nghề cao quí nhất”. Người dạy học không chỉ dạy chữ mà còn dạy người. Thầy cô giáo vừa là người giúp các em lĩnh hội tri thức và vân dụng nó một cách linh hoạt vào cuộc sống, vừa chính là những kỹ sư xây đắp tâm hồn bao thế hệ học sinh. Người giáo viên dạy môn Ngữ văn càng có nhiều ưu thế nhất trong việc này. Niềm vui sướng đối với người thầy người cô là đào tạo ra những học sinh học giỏi, chăm ngoan, thành đạt, có đạo đức, có nhân cách tốt đẹp, biết cư xử đúng với chuẩn mực đạo lí dân tộc... Nhưng một trong những niềm sung sướng vinh dự, hạnh phúc nhất trong cuộc đời người giáo viên là đào tạo và bồi dưỡng được những học sinh giỏi . Để có được học sinh giỏi thì ngoài năng lực, tố chất 3 của học sinh còn cần có công lao bồi dưỡng của người thầy. Là một giáo viên Ngữ văn đứng lớp giảng dạy gần mười năm và đã từng tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi qua một số năm học, tôi đã cảm nhận được điều đó. 4. Phương pháp dạy và học văn đã được nói và bàn luận rất nhiều từ trước đến nay trên sách báo, trong các bản tham luận, các sáng kiến kinh nghiệm...bày tỏ những băn khoăn, trăn trở của mỗi giáo viên dạy môn văn khi đứng lớp. Một tiết dạy bình thường trên lớp cũng cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng mới có thể dạy tốt và mang lại hiệu quả được. Nhưng một tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi còn có yêu cầu cao hơn rất nhiều. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ nặng nề nhưng cũng rất đỗi vinh dự cho người giáo viên khi tham gia bồi dưỡng. Câu hỏi mà bất cứ ai khi tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi cũng luôn đặt ra là: Làm thế nào cho thật sự đạt kết quả tốt nhất trong khoảng thời gian hơn mấy tháng ngắn ngủi? Làm sao để các em phát huy hết năng lực của mình trên một thời gian làm bài trong ba giờ ấn định ? Làm thế nàơ để công lao vất vả của thầy và trò không bị uổng phí ? Làm sao để mang lại niềm vinh dự cho bản thân của các em và thành tích của nhà trường ? Mối băn khoăn đó luôn thường trực trong suy nghĩ của tôi trong những năm qua. 5. Tôi đã tìm hiểu và tham khảo nhiều sách báo, tìm kiếm trên in-ter-net để thu thập những kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi THPT. Tôi đã đọc được những kinh nghiệm quí báu của thầy Đỗ Nguyên Thương ở Sở Giáo dục và đào tạo Phú Thọ trên báo Văn học và tuổi trẻ số 7+8+9 năm 2012, những kinh nghiệm của thầy Lê Đức Đồng ở Sở giáo dục và đào tạo Sóc Trăng ( trên báo Dân trí)... nhưng nhìn chung chưa thấy có nhiều chuyên đề trình bày thật sự hệ thống, thấu đáo, đầy đủ về vấn đề này.Và đặc biệt trong những tài liệu đó chưa có một số suy nghĩ giống như cá nhân tôi trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi. Với tất cả mọi nỗ lực của mình trong suy nghĩ, tìm tòi, trao đổi, thảo luận với các đồng nghiệp trong trường và các đồng nghiệp khác trong ngành; cùng với việc cọ xát thực sự trong thực tiễn trải nghiệm công tác bồi dưỡng học sinh giỏi văn ở khối 12 qua một số năm học; cùng với cả niềm mong ước và hy vọng là được trao đổi cùng đồng nghiệp, nhận được sự góp ý chân thành của những người trong nghề, và góp một phần nhỏ bé của mình trong việc nâng cao chất lượng giáo dục... tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài : Một số kinh nghiệm bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi môn Ngữ văn trung học phổ thông. 4 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÍ LUẬN Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ rất quan trọng, lớn lao, khó khăn, nặng nề nhưng rất đỗi vinh dự. Học sinh giỏi thường là học sinh có tố chất đặc biệt - khác các học sinh khác về kiến thức, khả năng cảm thụ văn chương, khả năng tư duy và nhất là khả năng viết bài ( nhiều em có thể viết bài gửi các báo, có những đề tài nghiên cứu phù hợp với lứa tuổi). Như vậy tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị và đầu tư nhiều hơn là tiết dạy bình thường trên lớp, thậm chí phải có quá trình tích lũy kinh nghiệm qua thời gian mới có thể đạt hiệu quả và thuyết phục học sinh, làm cho các em thực sự hứng thú và tin tưởng. Đó là yêu cầu của ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường và cũng là mục tiêu của người bồi dưỡng. Giáo viên tham gia bồi dưỡng phải có sự học tập và trau dồi không ngừng nghỉ, cùng với lòng nhiệt huyết, quyết tâm cao mới có thể đáp ứng được yêu cầu của công việc. Qua một số năm bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi (chủ yếu là học sinh lớp 12), tôi đã đúc rút ra một số kinh nghiệm, dù chỉ thực hiện tập trung trong mấy tháng ít ỏi mà có thể có được những thành công nhất định. Vậy nên với chuyên đề này tôi mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ của mình với mong muốn thiết tha là được trao đổi kinh nghiệm với các đồng nghiệp, chia sẻ, học tập lẫn nhau để cùng tiến bộ; góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên và hiệu quả học tập của học sinh nói chung. Đó cũng là nội dung, mục đích hướng tới của sáng kiến kinh nghiệm . II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI II.1. Những thuận lợi và khó khăn đối với giáo viên khi thực hiện đề tài. Khi nghiên cứu và thực hiện đề tài này, bản thân tôi đã có những thuận lợi và khó khăn nhất định. II.1.1. Thuận lợi: - Các yếu tố chủ quan có ảnh hưởng tích cực tới đề tài: + Là một giáo viên nhiệt tình và tâm huyết, tôi thường xuyên nghiên cứu giảng dạy, dành nhiều thời gian để suy ngẫm về chuyên môn, về tính hiệu quả của giờ lên lớp, đặc biệt là giờ dạy bồi dưỡng học sinh giỏi. + Bản thân tích cực chịu khó trao đổi với đồng nghiệp trong và ngoài trường để học hỏi và rút ra được những kinh nghiệm cần thiết áp dụng vào quá trình bồi dưỡng. Vì thế qua từng năm công tác kinh nghiệm giảng dạy cũng được tích luỹ phong phú hơn. - Yếu tố khách quan ảnh hưởng tích cực đến vấn đề liên quan đến đề tài: + Ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường có sự quan tâm, động viên đúng mức đến công tác bồi dưỡng học sinh giỏi; đồng nghiệp nhiệt tình, hỗ trợ đắc lực trong giảng dạy... II.1.2. Khó khăn: 5 - Chất lượng đầu vào (lớp 10) không cao, ít có những học sinh đam mê và có tư chất văn chương thực sự . - Tài liệu, sách báo tham khảo ở thư viện còn hạn chế. Chưa có đủ tư liệu để học sinh và giáo viên tham khảo, nghiên cứu một cách thoải mái, dễ dàng. - Do xu hướng lựa chọn nghề nghiệp gần đây của xã hội mà tinh thần học tập và sự quan tâm của học sinh chưa cao đối với môn Ngữ văn ( Bởi vì môn Ngữ văn trong nền kinh tế thị trường có đầu ra khá thấp so với các môn tự nhiên, điều kiện và cơ hội xin việc làm rất khó đối với những ngành có bộ môn Ngữ văn). Học sinh sôi nổi tham gia vào đội tuyển học sinh giỏi văn ít so với các đội tuyển tự nhiên, nhiều em học được văn nhưng lại gặp sự phản đối từ gia đình... - Chất lượng đội tuyển không đồng đều, áp lực trong việc phải có nhiều giải và đạt giải cao... II.2. Thực trạng về việc bồi dưỡng học sinh giỏi và số lượng, chất lượng giải học sinh giỏi trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài. Tôi bắt đầu công tác giảng dạy môn Ngữ văn vào tháng 10 năm 2004 tại trường THPT Quan Hoá, đến tháng 8 năm 2008 tôi chuyển công tác về trường THPT Triệu Sơn 2. Tính đến nay tôi cũng đã dạy học năm thứ chín. Trong thời gian dạy học tại trường THPT Quan Hoá tôi cũng đã có hai năm học được giao trách nhiệm chính trong việc bồi duỡng học sinh giỏi. Tôi cũng đã có nhiều cố gắng song hiệu quả công việc chưa cao. Kết quả cụ thể là: + Năm học 2005 - 2006: đội tuyển gồm 03 em nhưng không đạt một giải nào. + Năm học 2006 - 2007: đội tuyển 02 em thì có một em đạt giải khuyến khích cấp tỉnh. Tại trường THPT Triệu Sơn 2, những năm học từ 2006 - 2007 trở về trước, số lượng giải học sinh giỏi văn hàng năm cũng khá thấp, dao động từ 2/10 đến 4/10 học sinh. Từ năm học 2007 - 2008 đến nay, sau khi tôi và một số đồng nghiệp áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực tiễn bồi dưỡng học sinh giỏi thì kết quả thay đổi rõ rệt. Học sinh chủ động và lạc quan khi tham gia vào đội tuyển, học tập sôi nổi có hứng thú và tin tưởng vào kết quả khi làm bài. Số lượng và chất lượng giải đều tăng lên ( Sẽ chứng minh ở phần kiểm nghiệm). Đó là điều vui mừng không thể nói hết bằng lời. 6 III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TÔI Đà VÀ ĐANG LÀM ĐỂ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CÓ HIỆU QUẢ Muốn bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi đạt kết quả cao, theo tôi cần phải chú ý đến rất nhiều yếu tố: đó là có sự chỉ đạo kịp thời, sát sao, sự quan tâm sâu sắc từ phía Ban giám hiệu và các tổ chức trong nhà trường ; là sự ủng hộ, tạo điều kiện của gia đình học sinh, của giáo viên chủ nhiệm... nhưng quan trọng nhất vẫn là hai yếu tố giáo viên đứng lớp và học sinh. Biết rằng phương pháp để tiếp nhận và tìm hiểu văn học vô cùng phong phú, khó có thể nói hết được. Mỗi giáo viên bồi dưỡng và người tìm hiểu văn học đều có góc nhìn và cảm nhận riêng. Song trong khuôn khổ chuyên đề này tôi chỉ xin tập trung vào những việc mà bản thân tôi đã và đang làm cũng như những điều tôi chiêm nghiệm được qua thực tiễn đào tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi. III.1. Người giáo viên phải luôn giữ được ngọn lửa nhiệt tình, đam mê với nghề nghiệp Như trên đã nói, thực tế dạy học văn ngày nay gặp rất nhiều rào cản, mà những rào cản đó xuất phát từ nhiều phía: có thể là do chương trình quá nặng, do giáo viên dạy kém nhiệt tình, tâm huyết, hoặc do xu hướng, thực trạng của nền kinh tế thị trường đã khiến nhiều gia đình định hướng cho con em họ không theo những môn khoa học xã hội...trước khá nhiều bất lợi như thế, người giáo viên phải làm thế nào để dạy tốt môn văn và khiến học sinh yêu thích, say mê? Đó là câu hỏi làm trăn trở mỗi trái tim, đánh động lương tâm nghề nghiệp của biết bao thầy cô và cả những nhà quản lí giáo dục. Cá nhân tôi nhận thấy, muốn làm cho học sinh yêu thích môn Ngữ văn, nhất là trong thời điểm nhạy cảm này, điều trước tiên là người giáo viên dạy văn phải luôn giữ được ngọn lửa đam mê của tình yêu nghề nghiệp và thổi bùng ngọn lửa ấy vào các em học sinh. Người giáo viên phải thật sự yêu bộ môn văn và xem việc giảng dạy là trách nhiệm, sứ mệnh cao cả, vinh quang.Bởi vì việc thầy cô yêu nghề, yêu môn văn sẽ là tiền đề tốt nhất để động viên, khơi gợi hứng thú học tập của học sinh; đó cũng là động lực để thầy cô cố gắng tìm tòi, suy ngẫm, tìm ra những phương pháp hợp lí, phù hợp nhất đối với tưng đối tượng học sinh để giảng dạy có hiệu quả, làm cho các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp của văn chương. Thật vậy, kinh nghiệm quí giá này tôi rút ra được sau năm học 2006 – 2007, lúc đó tôi còn dạy học ở THPT Quan Hoá. Thật ra, nói một cách khách quan, chất lượng học sinh miền núi bao giờ cũng có những hạn chế nhất định so với học sinh miền xuôi. Vì thế mà trong các kì thi, nhất là thi học sinh giỏi toàn tỉnh thường không có giải hoặc giải không cao. Tuy nhiên lí do chính là do bản thân tôi chưa có nhiều kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh. Năm học 2005 - 2006, đội tuyển văn của trường THPT Quan Hoá rất ít vì không có nguồn từ trước đó. Khi được giao nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi, 7 tôi không cho thi mà trực tiếp chọn luôn 03 học sinh ( căn cứ vào kết quả và năng lực của các em trên lớp). Có thể nói là tôi đã “bắt cóc” ba em vào đội tuyển.Tôi hướng dẫn cho học sinh tự học, tôi đã dạy một số chuyên đề nhưng cũng không hết được vấn đề cơ bản. Tôi cũng không tự tin là học sinh của mình có thể đạt giải, vì từ trước tới thời điểm đó chưa có một học sinh nào đạt giải học sinh giỏi tỉnh môn văn. Hơn nữa tôi nghĩ “Học sinh của mình xuất phát điểm rất thấp, có dạy thì cũng không thể tiến bộ vượt bậc được, làm sao có thể đọ sức được với những học sinh miền xuôi giỏi giang, lại học ngày học đêm?”. Vì thế, nhiều lúc lòng nhiệt tình và sự quyết tâm của tôi không còn nữa. Kết quả năm đó không em nào đạt giải. Đến năm học 2006 – 2007, tôi tiếp tục dạy lớp 12 và có nhiệm vụ bồi dưỡng đội tuyển. Năm đó tôi chỉ chọn 02 học sinh là Phạm Văn Long và Nguyễn Hà Phương, cả hai em đều dân tộc Thái. Tôi đã động viên các em rất nhiều để khích lệ tinh thần, và ba cô trò đều cố gắng (phần vì trách nhiệm nặng nề, phần vì trong thâm tâm tôi vẫn mong học sinh của mình có thể đạt giải). Có khi học sinh phải học cả ban đêm. Tôi giao bài tập cho các em viết rồi đọc, sửa chữa...kết quả năm đó em Hà Phương đạt giải khuyến khích cấp tỉnh. Niềm vui vỡ oà trong tôi. Tôi nhận ra rằng không có gì là không thể, nếu mình nhiệt tình, biết động viên học sinh và luôn khát khao chiến thắng thì sẽ góp phần quan trọng đem lại thành công. Dù rằng kết quả còn vô cùng khiêm tốn nhưng nó là động lực giúp tôi bước tiếp hành trình gian nan của mình. Ngày nay, ngày càng nhiều những phương pháp, kĩ thuật dạy học mới ra đời, các thầy cô giáo có thể tham khảo nhiều cách thức khác nhau và áp dụng vào công tác giảng dạy. Tuy nhiên dù sử dụng phương pháp nào đi nữa thì thầy cô cũng chỉ có thể thành công khi chủ động được kiến thức và thật sự tâm huyết với nghề. III.2. Chủ động phân loại học sinh, phát hiện ra những học sinh có khả năng về môn văn Đây là công việc mà tôi cũng như các đồng nghiệp trong tổ Văn trường THPT Triệu Sơn 2 đã và đang làm để có thể phát hiện và lựa chọn được những học sinh có tư chất, những ứng viên vào đội tuyển. Để có được những học sinh giỏi văn trong đội tuyển của nhà trường, trong quá trình dạy tôi luôn chú ý để tìm ra những hạt nhân sáng giá nhất. Đầu tiên, tôi chú ý đến những em có đầu vào lớp 10 cao hơn những em khác ( từ 7 điểm trở lên). Sau đó tôi theo dõi quá trình học tập lớp 10, 11 của các em qua các điểm kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kì, qua kết quả thi học sinh giỏi trường (nếu có), rồi gặp gỡ, động viên...để tạo nguồn cho đội tuyển. Bằng việc làm này, hằng năm tôi và đồng nghiệp đã lựa chọn được một số học sinh có tố chất, yêu thích môn văn...để chuẩn bị cho việc thành lập đội tuyển chính thức khi các em học lớp 12. Ví dụ năm học 2008 - 2009 tôi chọn được 02 em ngay từ lớp 10 đều có lòng đam mê và tố chất học văn là Lê Thị Huyền và Mai Thị Lạng ( lớp 10A5). Cả hai em này đều trở thành thành viên đội tuyển 8 học sinh giỏi năm học 2010 - 2011, đều đạt giải cao và đậu Đại học với số điểm môn văn là 8,0. III.3. Tiến hành tuyển chọn đội tuyển học sinh giỏi. Tuyển chọn đội tuyển học sinh giỏi là khâu quan trọng bậc nhất quyết định chất lượng đội tuyển.Vì thế từ năm học 2008 – 2009, khi được giao nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi ( cùng với một đồng nghiệp nữa), tôi rất chú trọng việc này. Làm thế nào lựa chọn được những em học sinh yêu và đam mê văn học? Làm sao chọn lựa được những em có tư chất tốt và siêng năng, cần cù luyện tập để gặt hái được những kết quả tốt nhất? Những câu hỏi ấy cứ làm tôi trăn trở mãi. Và tôi cùng với đồng nghiệp đã tiến hành lựa chọn đội tuyển chính thức bằng cách: cho học sinh đăng kí dự thi tuyển, sau đó tiến hành thi chọn rất nghiêm túc, chặt chẽ, theo cấu trúc đề học sinh giỏi. Tôi chấm và chọn ra những bài viết đạt từ 10,0 điểm trở lên ( thang điểm 20). Tiếp tục dạy một thời gian ngắn (2 tuần), rồi cho thi tiếp vòng 2, chọn lấy 15 em theo thứ tự điểm từ cao xuống thấp. Tôi lại dạy 2 tuần nữa, chọn ra 12 học sinh. Cuối cùng chọn 10 học sinh trong đội tuyển chính thức. Lúc này khoảng cuối tháng 11, còn khoảng hơn 3 tháng là đến kì thi. Chúng tôi tập trung dạy rất tích cực (theo kế hoạch đã chuẩn bị) để một mặt vừa cung cấp kiến thức cho các em, mặt khác rèn kĩ năng làm bài và giúp các em ổn định tâm lí khi thi. III.4. Lập kế hoạch bồi dưỡng đội tuyển và phân công người dạy rõ ràng Song song với việc thành lập đội tuyển, tôi đã lập bản kế hoạch bồi dưỡng đội tuyển và dự kiến người dạy hỗ trợ với mình ( Căn cứ vào sở trường của mỗi người mà phân công chuyên đề dạy phù hợp) để trình tổ trưởng chuyên môn và Ban giám hiệu xét duyệt. Trong kế hoạch tôi dự kiến các chuyên đề ôn luyện, số tiết thực hiện...Thông thường kế hoạch của tôi gồm các nội dung sau: Tên chuyên đề; thời gian thực hiện; người thực hiện; số tiết cho từng chuyên đề; thời gian kiểm tra chất lượng lần 1, 2, 3, 4; người chấm bài... Khi làm được điều này, tôi thấy chủ động trong việc dạy học, không còn gặp phải tình trạng dạy chồng chéo lên nhau, ai thích gì dạy nấy, hay dạy học gấp rút về sau mà bỏ quá nhiều thời gian “chết” như các năm trước đó nữa. III.5. Sưu tầm, giới thiệu các tài liệu tham khảo yêu cầu học sinh tự học, tự tìm hiểu ở thư viện và nhiều nguồn khác Tài liệu tham khảo rất quan trọng đối với việc mở rộng kiến thức cho học sinh. Đối với học sinh giỏi, tài liệu có tầm quan trọng đặc biệt. Sau khi đã tuyển chọn, lập đội tuyển học sinh giỏi, thời gian bồi dưỡng còn hơn 3 tháng là đến ngày thi. Nhưng nếu xác định trước những học sinh sẽ vào đội tuyển lớp 12 thì từ cuối năm 11, và trong hè tôi đã hướng dẫn cho học sinh các lọai sách, tên sách để học sinh tìm đọc hoặc cho học sinh mượn đọc một số sách cần thiết mà tôi có hoặc là mượn và trao đổi cùng các đồng nghiệp... Tôi liên tục lên mạng in-ter-net để tìm thêm tư liệu, tuyển chọn, biên soạn rồi phô-tô cho các em đọc. Cuốn tạp chí tôi tin tưởng và tâm đắc từ khi còn là 9 sinh viên - tạp chí Văn học và tuổi trẻ của nhà xuất bản Giáo dục, số ra hàng tháng được tôi giới thiệu đến các em và coi đây là một ấn phẩm uy tín, chất lượng cho cả cô và trò tham khảo. Đối với một học sinh giỏi thì yêu cầu kiến thức phải thực sự phong phú và sâu rộng. Có như vậy các em mới tự tin, chủ động, mạnh dạn và phóng túng trong khi làm bài. Kiến thức mỏng và nghèo nàn thì không thể tránh khỏi những lúng túng, ngượng ngập trong bài viết bởi thiếu sự liên hệ, mở rộng, nâng cao. Vì thế, tôi đã nhắc nhở học sinh đọc thêm những tài liệu có liên quan. Đó là các tác phẩm tiêu biểu của những tác giả lớn trong chương trình học nhưng lại không được in trong sách giáo khoa để các em có phông viết rộng hơn, linh hoạt hơn. Chẳng hạn như khi học Nam Cao, một học sinh giỏi văn không chỉ biết tác phẩm Chí Phèo, Đời Thừa, Lão Hạc mà cần phải đọc rộng và am hiểu thêm nhiều truyện ngắn của Nam Cao trước và sau cách mạng tháng Tám. Khi dạy về đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, tôi giới thiệu cả trường ca Mặt đường khát vọng; khi dạy đến Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, tôi yêu cầu học sinh đọc Đất nước đứng lên; dạy Vợ chồng A Phủ, học sinh cần đọc cả tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài... Ngoài việc nắm và cảm thụ tác phẩm văn học, học sinh còn cần phải đọc các sách nghiên cứu lý luận phê bình về văn học mới thực sự có điều kiện thâm nhập một cách đầy đủ về tác phẩm đó. Ví dụ khi học thơ Mới với các bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, giáo viên không thể không hướng dẫn học sinh đọc thêm các tập thơ của Xuân Diệu trước cách mạng tháng tám, tập thơ Lửa Thiêng của Huy Cận, các tập thơ của Hàn Mặc Tử và cần đọc kỹ cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân để học tập, cảm nhận những lời bình giảng độc đáo, súc tích. Và còn nhiều những tài liệu nghiên cứu phê bình của các tác giả nổi tiếng khác về văn học rất giá trị mà học sinh cần phải đọc. Tôi còn tăng cường biện pháp kiểm tra, nắm bắt vấn đề tự học và nghiên cứu của học sinh. Nếu có học sinh chưa thực hiện đầy đủ, còn có những lỗ hổng kiến thức thì giáo viên phải đôn đốc, nhắc nhở và có biện pháp cần thiết để học sinh làm việc. Nói tóm lại, không đọc hay đọc ít là một hạn chế rất lớn không tránh khỏi đối với một học sinh giỏi. Đọc nhiều, đọc rộng sẽ phát huy được nhiều mặt tích cực nhất là ở những học sinh có ít nhiều năng khiếu văn chương. III.6. Giáo viên vừa cung cấp, vừa yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép vào một cuốn sổ riêng những lời nhận định, đánh giá sắc nét, độc đáo của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học và những câu thơ, đọan thơ hay của nhiều tác giả văn học qua các giai đọan văn học gắn với các chuyên đề mà giáo viên bồi dưỡng. Trong quá trình giảng dạy, tôi đã yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép từ trong sách vở, tài liệu những lời nhận định hay, những đánh giá độc đáo, đặc sắc của những tác giả tên tuổi về tác phẩm văn học, về vấn đề mang tính lý luận văn học, hay những câu thơ, đoạn thơ, đoạn văn hay của nhiều tác giả gắn với các chuyên đề mà tôi bồi dưỡng. Nội dung này tôi đã yêu cầu học sinh ghi vào một 10 cuốn sổ riêng để các em đọc lại nhiều lần và ghi nhớ. Những tư liệu này rất quý giá đối với học sinh. Nó vừa giúp các em mở mang vốn tri thức, khám phá vấn đề theo chiều rộng, chiều sâu, vừa là những dẫn chứng quan trọng, hấp dẫn, tiêu biểu, tạo nên những điểm nhấn, điểm sáng, giàu sức thuyết phục hơn trong các bài làm. Ví dụ như khi dạy chuyên đề về Xuân Diệu và thơ ông, tôi đã cung cấp cho học sinh những lời nhận định của một số tác giả trong và ngoài nước. Cụ thể là: - “Xuân Diệu là một nhà thơ lớn, đặc sắc, độc đáo của nền thơ hiện đại Việt Nam...cho tới nay và những năm tháng trước mắt liệu có ai vượt được Xuân Diệu trong lĩnh vực thơ tình?Và không ai có thể thay thế được Xuân Diệu ” (Tố Hữu.) Bà Bra-gri-a-ma, nhà thơ nữ lừng danh ở chân núi Vi-to-sa (Bun ga ri) khi tuyển thơ tình trên thế giới đã khoe với các bạn Việt Nam: “Tôi mở đầu tuyển tập hàng trăm tác giả này bằng nhà thơ Nga Pu-skin và kết thúc bằng nhà thơ Xuân Diệu - Việt Nam, Xuân Diệu là nhà thơ tình lớn của phương Đông vậy!” - “Nhà thơ Xuân Diệu mất đi thấy có mang theo một mảng đời văn tôi” ( Nguyễn Tuân). - “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” (Thế Lữ, lời tựa cho tập Thơ thơ). - “ Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời,... khi vui cũng như khi buồn người đề nồng nàn, tha thiết.....Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ Mới” ; “ Với Thế Lữ thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai xua ai nấy về hạ giới...” ( Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam) Khi dạy đến chuyên đề Kim Lân và tác phẩm Vợ nhặt, tôi cung cấp cho học sinh một số nhận định: - “Kim Lân là người một lòng đi về với đất, với người, với những thuần hậu nguyên thuỷ của cuộc sống nông thôn” (Nguyên Hồng) - “Dù kề bên cái đói, cái chết, người ta vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng vào tương lai”(Kim Lân) - “Hãy biết sống cả những khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa”. ( Lời nhân vật Pa-ven Coóc-sa-ghin trong Thép đã tôi thế đấy của Ô-xtơ-rốpxki) Dạy về Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường, để làm rõ vẻ đẹp trầm mặc của sông Hương, tôi tìm cho học sinh bài Sông Hương một nét thơ của tác giả Lam Hồ trên Văn học và tuổi trẻ: “ Sông trầm mặc như muôn đời vẫn thế Chảy vô tình để bồ kết đưa hương Nét thơ Đường thả giữa lòng xứ Huế Hay câu Kiều của dân tộc yêu thương?” 11 Hay những câu thơ nói lên đặc trưng dòng chảy Hương giang khi qua thành Huế: “ Con sông dùng dằng con sông không chảy Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu” ( Tạm biệt - Thu Bồn) Khi dạy chuyên đề “ Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh học sinh sẽ được nắm bắt về hình ảnh Bác qua Nhật ký trong tù : một tâm hồn lớn, một trí tuệ lớn, một nhân cách lớn.v.v...Một số dẫn chứng để các em có thể vận dụng vào bài làm liên quan đến chuyên đề này là: “ Lại thương nỗi đọa đày thân Bác Mười bốn trăng tê tái gông cùm Ôi chân yếu mắt mờ tóc bạc Mà thơ bay cánh hạc ung dung” ( Tố Hữu) - “ Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh Vần thơ Bác viết, vần thơ thép Mà vẫn mêng mông bát ngát tình” (Đọc thơ bác - Hoàng Trung Thông) - “Đây là bức chân dung của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng. Nhưng trong ba phẩm chất ấy, đại nhân là cái gốc, là cơ sở” ( Viên Ưng- nhà thơ Trung Quốc.) - “ Nhật kí trong tù là một tác phẩm lớn, một viên ngọc mà tác giả hình như chỉ đánh rơi vào kho tàng văn học - như một hành động ngẫu nhiên. ” (Đặng Thai Mai) Những nốt nhấn như vậy là rất cần thiết trong bài làm của học sinh giỏi. Thiếu nó bài viết cũng kém đi phần tươi mát, sinh động và cũng dễ trở nên khô khan hoặc đơn điệu, nhàm chán. Và còn rất nhiều những lời nhận định hay và giá trị, những dẫn chứng khác về các tác giả, tác phẩm...văn học, giáo viên giúp học sinh sưu tầm, ghi chép. Tuy nhiên không phải những lời nhận định hay ý thơ nào học sinh cũng đều hiểu. Nếu có những nhận định ý kiến nào mà học sinh chưa hiểu hoặc hiểu chưa đầy đủ thì giáo viên phân tích, giảng giải cho học sinh rõ những nội dung ý nghĩa của vấn đề. Đó chỉ là một vài ví dụ minh chứng, còn lại là kiến thức mêng mông, rộng lớn mà người giáo viên bồi dưỡng hướng dẫn học sinh phải có ý thức học tập vận dụng để mang lại sự hiệu quả, chất lượng cho bài viết. III.7. Giáo viên lựa chọn một số chuyên đề quan trọng gắn với chương trình thi để giúp học sinh đi vào nắm bắt kiến thức của các chuyên đề đó có chiều sâu và rộng Đối với bồi dưỡng học sinh giỏi, việc dạy bồi dưỡng theo các chuyên đề là điều cần thiết và nên làm nhiều nhất để cung cấp kiến thức cho học sinh, đồng thời giúp các em rèn luyện kĩ năng làm bài tốt hơn. 12 Qua theo dõi cách ra đề của những năm gần đây, tôi thấy cấu trúc đề thường là 02 hoặc 03 câu, gồm hai phần chính là nghị luận xã hội và nghị luận văn học, trong đó nghị luận văn học chiếm 2/3 số điểm của đề bài. Phần nghị luận văn học thường tập trung vào những tác phẩm có tính ngợi ca về con người, vẻ đẹp đất nước, cách mạng hoặc thiên về những tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc; có khi lại thiên về những tác phẩm mới được đưa vào sách giáo khoa... Vì thế, trong những năm qua tôi đã biên soạn và dạy cho học sinh một số chuyên đề. Tôi cùng đồng nghiệp đã tiến hành dạy liên tục, một tuần hai buổi vào chiều thứ hai và chủ nhật hàng tuần (một buổi dạy hai tiếng rưỡi đến ba tiếng). Các chuyên đề chính như sau: Số tt 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Tên chuyên đề Kĩ năng làm văn nghị luận xã hội Kĩ năng làm văn nghị luận văn học Thơ mới Thơ cách mạng trước 1945 Văn xuôi lãng mạn trước 1945 Văn xuôi hiện thực trước 1945 Thơ ca kháng chiến chống Pháp Thơ ca kháng chiến chống Mĩ Văn xuôi cách mạng 1945 – 1975 Thơ văn sau 1975 Kịch Lí luận văn học Số buổi 2 3 2 2 2 3 3 2 3 2 1 2 Với các chuyên đề trên, trong từng buổi dạy tôi lại chia nhỏ ra từng vấn đề cụ thể để học sinh dễ nắm bắt. Chẳng hạn, khi dạy về Kĩ năng làm văn nghị luận xã hội, tôi chia nhỏ làm hai dạng đề chính là Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí và nghị luận về một hiện tượng đời sống.Với mỗi dạng, tôi lần lượt cho học sinh ôn lại khái niệm, nhắc lại cách thức làm bài gắn với bố cục của bài làm, giới thiệu một số dạng đề, yêu cầu học sinh xác định đề, lập dàn ý rồi sau đó giáo viên sẽ củng cố lại. Cuối cùng giao bài tập về nhà cho học sinh làm. Ví dụ khi tôi dạy Kĩ năng làm bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lí. - Trước tiên tôi cho học sinh nhắc lại khái niệm: Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí là bàn về một tư tưởng, đạo lí nhằm giới thiệu, giải thích, phân tích, biểu dương những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch xung quanh vấn đề bàn luận, trên cơ sở đó rút ra bài học nhận thức và hành động cần thiết về tư tưởng, đạo lí. - Sau đó, tôi nhắc lại cách thức làm bài. Có thể trình bày bài theo các bước cụ thể sau: 13 + Giới thiệu, giải thích tư tưởng, đạo lí cần bàn luận. + Phân tích, biểu dương những mặt đúng, phê phán, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề bàn luận. + Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động về tư tưởng, đạo lí. - Giới thiệu một số dạng đề thường gặp cho học sinh: vấn đề tư tưởng đạo lí có thể được thể hiện ngay trong đề bài, hoặc được đúc kết dưới nhiều dạng: + Một câu tục ngữ, ca dao + Một câu danh ngôn + Một câu chuyện... + Dạng đề mở Một số đề minh hoạ Đề 1: Bàn về tính tự lập của con người trong cuộc sống. Đề 2: Trình bày suy nghĩ của anh/chị về câu tục ngữ sau: “ Có công mài sắt, có ngày nên kim”. Đề 3: Viết một bài văn ngắn ( khoảng 400 từ) trình bày suy nghĩ của anh chị về câu nói sau: “Cái chết không phải là điều mất mát lớn nhất trong cuộc đời. Sự mất mát lớn nhất là bạn để cho tâm hồn mình tàn lụi ngay khi còn sống”(Norman- kusin) Đề 4: Bài học anh/ chị rút ra được từ câu chuyện sau : Vết nứt và con kiến Khi ngồi ở bậc thềm trước nhà, tôi nhìn tháy một con kiến đang tha chiếc lá trên lưng.Chiếc lá lớn hơn con kiến gấp nhiều lần Bò được một lúc, con kiến chạm phải một vết nứt khá lớn trên nền xi măng. Nó dừng lại giây lát. Tôi nghĩ con kiến hoặc là quay lại, hoặc là nó sẽ một mình bò qua vết nứt đó. Nhưng không. Con kiến đặt chiếc lá ngang qua vết nứt trước, sau đó đến lượt nó vượt qua bằng cách bò lên trên chiếc lá. Đến bờ bên kia, con kiến lại tha chiếc lá và tiếp tục cuộc hành trình.( Theo Hạt giống tâm hồn) Đề 5: Điều quan trọng nhất trong cuộc sống của bạn. - Tôi còn nhấn mạnh và lưu ý với học sinh: Làm văn nghị luận xã hội thực chất là cách kéo gần các em trở về cuộc sống, làm cho các em có những nhận thức thật đúng đắn, những hành động thật đẹp đẽ, nhân văn, những cách ứng xử thật phù hợp với đạo lí làm người và phải hành động để góp phần làm cho cuộc sống này tốt đẹp hơn. Làm văn nghị luận xã hội không phải là để nói khoác rồi sau đó, khi vừa buông bút ra khỏi tay, ta lại làm ngược lại với những điều ta viết.(Có học sinh phê phán rất gay gắt tình trạng học sinh trốn học chơi điện tử, nhưng khi nạp bài xong lại đi ra quán nét ngay; trong phòng thi, có em viết cần lên án, phê phán hiện tượng tiêu cực trong thi cử nhưng chính mình lại sử dụng tài liệu ngay trong lúc làm bài nghị luận xã hội đó)... Với các đề ra như vậy hướng vào chuyên đề sẽ kích thích học sinh làm việc và tư duy một cách toàn diện. Trong quá trình dạy, tôi cũng rất chú ý đến chuyên đề kĩ năng làm văn nghị luận văn học. Tôi đã dạy kĩ năng làm bài của một số dạng đề cơ bản mà tôi thấy xuất hiện nhiều trong những đề thi học sinh giỏi, thi đại học gần đây: Nghị 14 luận về một bài thơ, đoạn thơ; một nhân vật văn học; một đoạn trích văn xuôi; Dạng bài so sánh văn học; Nghị luận về một vấn đề văn học... Sau khi dạy kĩ về cách làm bài, tôi ra đề để học sinh luyện tập. Có khi tôi chỉ yêu cầu học sinh xác định đề, lập dàn ý hay viết phần mở bài, phần kết luận để rèn chắc kĩ năng cho các em. Tôi đặc biệt quan tâm tới chuyên đề Lí luận văn học, bởi vì đối với một bài văn của học sinh giỏi, bao giờ các em cũng phải biết vận dụng kết hợp kiến thức lí luận với khả năng đọc - hiểu, cảm thụ văn bản để làm cho bài viết “có tầm”. Kiến thức lí luận văn học vốn là những kiến thức khái quát về bản chất, giá trị của văn học, cấu trúc tác phẩm, quá trình văn học...được vận dụng trong bài làm văn. Bài làm văn nếu thể hiện kiến thức lí luận tốt sẽ trở nên chắc chắn, sâu sắc và thuyết phục. Xác định được tầm quan trọng của lí luận văn học, tôi đã cung cấp cho học sinh một số vấn đề, khái niệm thường gặp và có liên quan đến các tác phẩm trong chương trình học như: Phong cách nghệ thuật, không gian và thời gian nghệ thuật, giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo, vẻ đẹp ngôn ngữ, chất thơ trong tác phẩm văn xuôi, đề tài, chủ đề, cảm hứng nghệ thuật, ý nghĩa tư tưởng, tính sử thi, cảm hứng lãng mạn, chủ nghĩa anh hùng cách mạng... Tôi chỉ cho học sinh cách làm bài nếu gặp đề bài liên quan đến vấn đề này. Trước tiên phải giải thích khái niệm, sau đó tìm ra các biểu hiện trong tác phẩm, tiếp theo là triển khai cụ thể và cuối cùng là đánh giá vấn đề. Ví dụ, nếu học sinh gặp đề bài : Giá trị nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân. Cách thức triển khai như sau: - Mở bài: Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm, dẫn vào vấn đề cần nghị luận. - Thân bài: + Giải thích khái niệm giá trị nhân đạo: Bắt đầu giải thích ý nghĩa từ Nhân đạo, từ đó suy ra Một tác phẩm có giá trị nhân đạo là một tác phẩm phải thể hiện được niềm cảm thông với con người lao khổ; phải nâng niu cái đẹp trong tâm hồn con người; phải phê phán đấu tranh với cái xấu, cái ác. + Khẳng định truyện ngắn Vợ nhặt đã thể hiện khá đầy đủ những đặc điểm đó. + Phân tích triển khai cụ thể từng biểu hiện + Bàn bạc mở rộng: Điểm đáng nói nhất về giá trị nhân đạo của tác phẩm là nói lên được niềm tin tưởng sâu sắc của nhà văn vào con người lao động nghèo khổ, vào bản năng sống, khát vọng sống mạnh mẽ của họ. Tình cảm nhân đạo ở đây có nhiều nét mới so với các tác phẩm trước cách mạng. - Kết bài: Kết thúc vấn đề, khẳng định vai trò quan trọng của giá trị nhân đạo trong tác phẩm văn học nói chung và trong Vợ nhặt nói riêng. Còn rất nhiều những chuyên đề khác mà tôi không thể nói hết ở đây. Các chuyên đề khác cách thức tiến hành có nhiều điểm tương tự như các chuyên đề trên. 15 III.8. Chọn lọc một số đề thi qua các kì thi học sinh giỏi tỉnh Thanh Hoá, tỉnh bạn, kì thi quốc gia qua một số năm để hướng dẫn học sinh cách tiếp cận đề, nắm yêu cầu đề ra, định hướng lập ý và tìm ý cho một bài văn nghị luận. Có kiến thức văn học và kỹ năng viết là cần thiết trong một bài văn nghị luận, nhưng điều đó chưa đủ những yếu tố để đảm bảo thành công trong một bài viết. Điều quan trọng trong một bài văn nghị luận là học sinh phải xác định được yêu cầu của đề ra, định hướng, tìm ý và lập được dàn ý. Vậy để rèn luyện cho học sinh giỏi trong công tác bồi dưỡng về kỹ năng này, giáo viên có thể chọn một số đề thi học sinh giỏi quốc gia, học sinh giỏi tỉnh trước đây để giúp học sinh luyện tập. Ví dụ về một câu trong đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 2008: Câu 2 (12,0 điểm): Thơ nữ viết về tình yêu thường thể hiện sâu sắc bản lĩnh và ý thức về hạnh phúc của chính người phụ nữ. Hãy phân tích, so sánh bài thơ "Tự tình" (bài II) của Hồ Xuân Hương và "Sóng" của Xuân Quỳnh để làm rõ nét chung và nét riêng trong tâm sự tình yêu của hai nữ tác giả ở hai thời đại khác nhau. Ví dụ khác về đề văn của tỉnh Yên Bái: “ Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của những chặng đời sống con người ta trên con đường dài dằng dặc đi tìm cõi hoàn thiện” ( Nguyễn Minh Châu) Anh ( chị ) suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên. Với đề trên, giáo viên yêu cầu học sinh xác định đề, lập dàn ý rồi bổ sung, củng cố: - Về yêu cầu đề: thao tác giải thích, bình luận là chính. - Những ý chính cần xác định là: + Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là cuộc sống con người có nghĩa là như thế nào ? + Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của một chặng đời sống con người ta, trên con đường dài dằng dặc đi đến cõi hòan thiện nghĩa là như thế nào ? + Chứng minh qua một số tác phẩm văn học trong và ngoài nước. + Nhận xét, đánh giá về ý kiến trên. Một ví dụ khác về đề thi học sinh giỏi tỉnh Thanh Hoá năm 2008 - 2009: C©u 1 (6 ®iÓm): Bµn vÒ chñ ®Ò: “ Tr−êng häc th©n thiÖn - Häc sinh tÝch cùc”. C©u 2 (6 ®iÓm): C¸ch thÓ hiÖn t×nh yªu vµ nçi nhí cña Xu©n Quúnh trong ®o¹n th¬ sau: “ Con sãng d−íi lßng s©u .................................... C¶ trong m¬ cßn thøc” (Sãng - Xu©n Quúnh - Ng÷ v¨n 12, tËp 1 - NXBGD 2008 - trang 155). 16 C©u 3(8 ®iÓm): C¶m høng vÒ thiªn nhiªn ®Êt n−íc trong “Ng−êi l¸i ®ß S«ng §µ” (NguyÔn Tu©n) vµ “Ai ®+ ®Æt tªn cho dßng s«ng?” (Hoµng Phñ Ngäc T−êng) (Ng÷ v¨n 12, tËp 1 - NXBGD 2008). Trong những năm gần đây đề thi học sinh giỏi tỉnh có thêm một câu nghị luận xã hội. Vì vậy giáo viên bồi dưỡng cũng cần phải chọn lọc những đề nghị luận xã hội hay và có ý nghĩa sâu sắc để giúp học sinh học tập. ( Phần này có thể tham khảo mục 7 ở trên, chuyên đề Nghị luận xã hội). Những đề văn như vậy giáo viên yêu cầu học sinh tự xác định đề, lập dàn ý cùng với sự định hướng của giáo viên sẽ kích thích các em động não, tư duy để hiểu ý nghĩa nội dung yêu cầu đề , có cách trình bày ý và các thao tác lập luận sao cho đầy đủ và thuyết phục nhất. Đề ra để học sinh luyện tập rất nhiều nhưng khuôn khổ sáng kiến này không cho phép tôi trình bày dài. Chỉ đơn cử vài ví dụ minh họa. Hướng dẫn và định hướng cho học sinh theo những cách thức như trên sẽ có ý nghĩa góp phần khơi gợi, tạo khả năng chủ động cho các em biết tư duy, phân tích, xác định đề và tìm ý một cách nhanh chóng khi đứng trước một đề văn. Các em sẽ biết cách đi đúng hướng, chặt chẽ, khai thác khá đầy đủ các ý lớn, nhỏ cần thiết khi làm bài và vận dụng hợp lý các thao tác lập luận trong một bài văn nghị luận. III.9. Ra đề làm bài văn trên lớp, kể cả bài viết ở nhà để học sinh viết theo thời gian ấn định.Giáo viên chấm bài, giúp học sinh phát huy ưu điểm và khắc phục nhược điểm. Trong bốn kĩ năng Nghe - nói - đọc - viết, kĩ năng nào cũng quan trọng. Đối với học sinh, viết bài chính là một trong những kĩ năng quan trọng nhất. Bởi vì học sinh có thể có kiến thức, hiểu biết rộng nhưng nếu không biết cách diễn đạt những suy nghĩ, tình cảm và kiến thức của mình thì cũng không có hiệu quả. Vì thế trong quá trình bồi dưỡng tôi cũng quan tâm đến việc này. Tôi thường dành riêng một số buổi học, ra đề bài để các em làm từ 150-180 phút. Đề bài tôi ra thường khá linh hoạt về nội dung, nhưng đều giống với cấu trúc đề thi học sinh giỏi những năm gần đây. Tôi cũng trực tiếp chấm bài, sửa lỗi cho các em. Đây là cơ sở để tôi nắm bắt khả năng của học sinh trên nhiều phương diện, từ cách hiểu đề, xác định yêu cầu của đề ra, tìm ý và lập dàn ý đến cách hành văn trong một bài làm cụ thể. Năng lực viết và cảm thụ văn học của học sinh cũng bộc lộ rõ từ đây. Sau khi nhận bài của học sinh, tôi đọc thật kĩ từng phần. Sau đó tôi cảm nhận bài của các em bằng tâm trạng thư thái, nâng niu trân trọng những phát hiện, tìm tòi của học sinh. Tôi tìm những lỗi trong bài viết: Lỗi chính tả, lỗi viết tắt, viết số không đúng qui định; lối thiếu ý, lỗi diễn đạt, lỗi hành văn, cách trình bày...nếu học sinh mắc lỗi phần nào thì sẽ chữa phần đó. Tiếp dến, tôi nhận xét một cách kĩ lưỡng, thấu đáo vào bài làm (Có khi cần thiết tôi viết cả câu hay một đoạn vào bài để học sinh đối chiếu). Nhận xét bao giờ cũng phải chỉ được ưu điểm, nhược điểm của học sinh trong bài làm, đồng thời vừa phải có tác dụng động viên, nâng đỡ tinh thần để các em tự tin vào chính mình, biết phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu trong những bài sau. 17 Có thể nói, chấm bài là một khâu công phu, vất vả nhưng rất quan trọng, cần thiết để giúp học sinh tiến bộ. Tuy nhiên thời gian lên lớp giữa thầy và trò không nhiều, nên giáo viên không thể cho học sinh làm được nhiều bài trên lớp khi bồi dưỡng vì rất mất thời gian. Để khắc phục điều này giáo viên có thể tranh thủ sau vài buổi học có thể cho các em một đề văn và yêu cầu các em về nhà viết và đề nghị các em tự giác độc lập làm bài và tự giới hạn bài viết của mình trong một thời gian cho phép nhất định. Điều đó sẽ rèn luyện cho các em rất nhiều về tư duy viết, tốc độ viết... III.10. Giáo viên gần gũi, quan tâm đến học sinh, thường xuyên động viên học sinh bằng những lời chân thành, khích lệ các em cố gắng Đây là một điều tưởng chừng không liên qua gì đến chuyên môn nhưng thực ra vô cùng quan trọng và hiệu quả. Chính những lời động viên kịp thời, sự khích lệ của giáo viên đã giúp học sinh cố gắng hết mình để học tập đạt kết quả cao, không phụ lòng thầy cô và gia đình, bè bạn. Ngoài việc chú trọng cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng, tôi còn chú ý đến vấn đề khích lệ tinh thần cho học sinh. Tôi thường xuyên gặp gỡ, trao đổi, tìm hiểu nguyện vọng mơ ước của các em. Tôi còn tìm hiểu cả hoàn cảnh gia đình, cả những khúc mắc trong cuộc sống, những biến đổi về tâm lí, tình cảm... ( việc này dễ làm nhất với những học sinh lớp chủ nhiệm và lớp trực tiếp dạy). Tôi còn viết thư động viên, có lúc chỉ cần một mảnh giấy nho nhỏ, một tin nhắn, hay chỉ đơn giản là gấp một con hạc giấy, một ngôi sao nhỏ tặng các em kèm theo lời chúc may mắn...Nhưng thật bất ngờ, chính những việc làm đó lại là nguồn động lực vô giá đối với học sinh trên con đường thi cử, thực hiện ước mơ, và cả trong cuộc sống. Tôi đã có những kỉ niệm thật xúc động về điều này. Năm học 2009 - 2010 tôi có một học sinh là Nguyễn Văn Dũng lớp 12C4 tham gia thi học sinh giỏi. Em kể rằng : khi đọc đề xong em thấy không biết bắt đầu từ đâu và ngồi suy nghĩ. Sau đó em viết lên tờ đề thi một cụm từ ngắn gọn là “ Vì cô Chiên” rồi dốc hết sức làm bài.Kết quả là em được giải khuyến khích. Cũng trong năm học này có em Hứa Thị Mai, khi thi vòng cuối cùng vào đội tuyển chính thức điểm của em gần như thấp nhất. Tuy nhiên căn cứ vào quá trình học tôi vẫn quyết định cho em vào. Tôi đã gần gũi động viên em rất nhiều. Năm đó em đạt giải Nhì - giải cao nhất của đội tuyển tính đến thời điểm ấy. Và cả khi đã là sinh viên, em vẫn gửi về những tình cả đầy yêu thương “ cô ơi, em cảm ơn cô! Nhờ cô mà em mới có được sự tự tin và tinh thần chiến đấu để có được thành công”. Năm học 2010 - 2011, đội tuyển của tôi có em Nguyễn Thị Oanh lớp 12A5 bị sốt và lên thuỷ đậu đúng vào ngày thi. Em nhất định không bỏ thi dù mặt đỏ bừng, bố mẹ và thầy cô can ngăn. Em nói khi thi xong: “Cô ơi em cũng không biết mình viết gì nữa, em đã làm hết sức mình thôi cô ạ ”. Kết quả em đạt giải Ba. Tôi luôn chân thành với học sinh và không hề coi nhẹ việc động viên các em vì nó tạo nên hiệu quả không ngờ trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi và gắn 18 kết tình cảm giữa cô và trò. Đến bây giờ tôi vẫn làm việc này một cách rất tự nhiên và thường xuyên . III.11. Gặp gỡ và truyền đạt một số bí quyết để học sinh có thể đạt giải Trước khi đi thi khoảng một tuần, cả tổ sẽ gặp mặt đội tuyển và dành thời gian liên hoan, tâm sự và ủng hộ cả vật chất lẫn tinh thần cho các em. Các thầy cô vừa động viên vừa nhắc học sinh chuẩn bị những điều cần thiết: - Trước khi thi: + Phải giữ cho tinh thần thoải mái. + Chủ động kiến thức. + Mang đồng hồ để căn chỉnh thời gian. - Khi vào phòng thi: + Bình tĩnh, tự tin. + Không được bỏ cuộc kể cả khi gặp những câu quá bất ngờ. + Xác định đề, lập dàn ý trước khi viết; làm ngay câu nào mình thấy dễ hoặc thấy thích hơn những câu khác; hoặc làm câu nhiều điểm trước. + Cố gắng làm trọn vẹn tất cả các câu, tránh việc chỉ làm một hay hai câu. + Chú ý dung lượng viết không quá ngắn hoặc quá dài. + Không được phân tâm khi thấy người bên cạnh xin giấy trước. + Chiến đấu hết mình, tiến lên phía trước, hướng đến thành công... 19 IV. KẾT QUẢ: IV.1. Những kết quả ban đầu Để có được những giải học sinh giỏi tỉnh, nhất là giải cao thì còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, đặc biệt là yếu tố học sinh trong khâu xác định đề và viết bài. Tuy nhiên, sau 06 năm áp dụng những giải pháp bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi , dù mức độ mỗi năm mỗi khác, nhưng nhìn chung tôi đã bước đầu thu được những kết quả khả quan: IV.1.1. Về phía học sinh - Ngày càng nhiều học sinh chủ động, tích cực, hăng hái và sôi nổi tham gia thi vào đội tuyển.Trong quá trình học đội tuyển,các em thể hiện sự hứng thú rõ rệt, tin tưởng, lạc quan vào kết quả khi thi. Đặc biệt các em có một tinh thần chiến đấu rất mạnh mẽ trong thi cử: làm bài hết sức mình. - Ngoài kiến thức cơ bản, học sinh say sưa sưu tầm những kiến thức mới làm cho vốn kiến thức ngày càng phong phú. Thành công hơn nữa là trong những bài thi tập trung toàn trường ( thi học kì, thi học sinh giỏi, thi thử đại học), hầu như các em trong đội tuyển đều đạt từ điểm 8 trở lên. Đây là điều tôi thực sự rất hài lòng. - Nếu như từ năm học 2006 - 2007 trở về trước, số lượng giải học sinh giỏi tỉnh môn văn khá khiêm tốn, chỉ dao động từ 2 đến 4/10 giải thì từ khi áp dụng các giải pháp của sáng kiến, nhìn chung số lượng và chất lượng giải ngày càng tăng lên: Năm học 2008 - 2009 đạt 5/10 giải, năm học 2009 - 2010 đạt 8/10 giải, năm học 2010 - 2011 đạt 10/10 giải... Chất lượng và kết quả của đội tuyển môn văn trường THPT Triệu Sơn 2 đã được Sở Giáo dục Thanh Hoá và các trường bạn đánh giá cao. Đặc biệt là năm học 2010 - 2011 (Năm đó tôi và một đồng nghiệp nữa chịu trách nhiệm chính), đội tuyển đạt 10/10 giải, xếp thứ 06/109 trường THPT trong tỉnh. Đây là một kết quả rất đáng mừng, góp phần nâng cao uy tín, chất lượng giáo dục của nhà trường nói riêng và tỉnh nhà nói chung. - Những năm qua, các em trong đội tuyển khi thi đại học điểm văn khá cao. Ví dụ kì thi ĐH năm 2010 lớp chủ nhiệm 12C4 có em Nguyễn Thuý Ngân 7,5điểm ( Đại học sư phạm I Hà Nội), em Ngô Thị Thêm 8,0 điểm ( Học viện hành chính quốc gia), em Nguyễn Văn Dũng 7,75 điểm ( ĐHKHXH và NV TPHCM), em Hứa Thị Mai 8,0 điểm ( ĐH lao động xã hội), em Trần Thị Thảo 8,25 điểm ( Cao Đẳng Nội vụ)...Năm học 2010 – 2011 lớp 12A5 của tôi dạy có 5 em đạt giải, khi thi đại học số điểm văn cũng rất cao: Lê Thị Huyền 8,0 điểm ( ĐH ngoại ngữ Đà Nẵng), Mai Thị Lạng 8,0 điểm( ĐH kinh tế - luật tp HCM), Nguyễn Thị Oanh 7,5 điểm ( ĐH thương mại), Nguyễn Thị Nguyệt 8,0 điểm, Nguyễn Thị Tuyên 7,5 điểm... - Một số học sinh còn tham gia viết bài gửi các báo, tạp chí như Văn học và tuổi trẻ; Mực tím; Hoa học trò...và đã được nhận nhuận bút. Khi sửa bài cho học sinh, tôi vui mừng nhận ra khả năng cảm thụ, thẩm bình thơ văn của các em đã tiến bộ rất nhiều... 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan