SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề Tài:
TÌM HIỂU MỘT SỐ
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
MÔN TẬP ĐỌC Ở LỚP 3
LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện nhiệm vụ năm học 2010-2011, năm học tiếp tục “Đổi mới quản lí và nâng cao chất
lượng giáo dục”, năm học tiếp tục thực hiện cuộc vận động “Hai không với bốn nội dung”
cùng với phong trào “Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực” nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục ở Tiểu học.
Trẻ từ khi bắt đầu đi học, các em đã được tiếp xúc với kiến thức đơn giản của môn tập đọc rồi từ
đó mở rộng ra, nâng cao dần, ngày càng phong phú và đa dạng hơn, cao hơn, hay hơn. Qua đó
dạy học tốt phân môn tập đọc ở tiểu học nói chung, ở lớp ba nói riêng là vô cùng quan trọng
trong hệ thống các môn học. Dạy tốt phân môn tập đọc có thể bồi dưỡng cho học sinh nhiều mặt
vì nó có tính chất khởi đầu cho người đi học. Vì vậy phân môn tập đọc ở tiểu học đang đặt ra rất
nhiều vấn đề cần giải quyết. Nhiều nhà nghiên cứu và các giáo viên có nhiệt huyết đã bỏ nhiều
công sức đi sâu nghiên cứu, tổng kết những kinh nghiệm để giải quyết vấn đề đang được quan
tâm này.
Là một giáo viên tiểu học, tôi thấy mình phải tự tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra những phương
pháp và cách dạy tốt nhất với môn tập đọc giúp các em học tốt môn học này, đồng thời từ đó các
em học tốt các môn học khác. Để có phương pháp dạy tốt môn tập đọc ở lớp ba với địa bàn miền
núi, vùng cao khi học sinh còn chậm hiểu cả tiếng phổ thông này, đòi hỏi giáo viên phải làm thế
nào giúp học sinh hiểu, yêu thích và hứng thú trong giờ học tập đọc. Chính vì những lý do trên,
tôi nghiên cứu viết đề tài này mong muốn đem lại những kinh nghiệm, tôi đã thực hiện trong
những năm dạy học, đặc biệt là trong phương pháp dạy phân môn tập đọc ở lớp ba để góp phần
nâng cao chất lượng dạy phân môn này nói riêng và môn Tiếng việt nói chung. Đến với hội thi
Giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh đợt này tôi mạnh dạn báo cáo kết quả nghiên cứu “Sáng kiến kinh
nghiêm: Tìm hiểu một số phương pháp dạy học tôt môn tập đọc ở lớp 3”.
Đây là môt sáng kiến mà tôi đã dày công nghiên cứu từ năm học 2008- 2009 và đã được áp dụng
cho các đồng nghiệp giảng dạy tại trường đạt được kết quả tốt. Song trong quả trình nghiên cứu
vẫn còn nhiều hạn chế tôi rất mong được sự giúp đỡ của Hội đồng đánh giá các cấp xem xét và
giúp đỡ, tạo điều kiện để sáng kiến kinh nghiệm của tôi ngày được hoàn thiện hơn.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài.
Trong sự nghiệp GD nói chung, GD tiểu học nói riêng ,đây là một bậc học vô cùng quan trọng .
Nó là một hệ thống hoạt động phân công lao động xã hội mà nhiệm vụ cơ bản của nó là truyền
thụ kiến thức và kinh nghiệm thực tế có liên quan đến kiến thức ấy là xã hôi hóa, là chuẩn bị cho
các thành viên của xã hội đi vào lao động nghề nghiệp. Song trước hết là việc truyền thụ có hệ
thống những kiến thức cơ bản khoa học mà việc nắm được những kiến thức ấychủ yếu là dựa
trên trình độ nhận thức bằng trừu tượng và lô gích những kiến thức và kĩ năng đó được quy định
mà học sinh có thể đạt được.Ta biết rằng khả năng trí tuệ của mỗi con người phụ thuộc vào sự
nghiệp tinh thần trong thời kì thơ ấu được kích thích có hiệu quả đến mức độ nào .Vì rằng mọi sự
thiếu sót đó do sự chăm lo phát triển trong thời kì thơ ấu không đầy đủ, đúng mức, sau này sẽ
phải bù lại một cách rất khó khăn thậm trí không thể bù lại được những năm đó. Trong giai đoạn
từ 6 tuổi đến trường, nếu các em không được khen không được động viên kịp thời về những
năng lực đã đạt được thì các em sẽ có cảm giác về sự kém cỏi và tự ti .Do vậy người giáo viên
trong quá trình dạy học, nếu không nắm được tâm sinh lí của các em thì mắc phải một khiếm
khuyết lớn trong công tác giáo dục. Để phù hợp với những biến đổi về cơ cấu trong giáo dục đã
điều chỉnh và bổ xung chương trình và nội dung các môn học đảm bảo 9 môn học bắt buộc . Vì
rằng học sinh tiểu học đã học đầy đủ các môn có ý nghĩa quan trọng, điếu đó góp phần giáo dục
toàn diện sự hình thành và phát triển những nền tảng cơ bản của nhân cách con người. Chắc
trong mỗi chúng ta ai cũng rõ trong 9 môn học, chỉ có hai môn học nhiều tiết là Toán và Tiếng
việt.
Từ đặc tâm lý của các em (lớp 1, lớp 2) dễ nhớ và cũng hay chóng quên đi phần nào. Từ đó môn
tập đọc góp phần đắc lực vào việc thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ ở bậc tiểu học theo đặc
trưng bộ môn của mình. Việc giảng dạy bộ môn tập đọc trong nhả trường
nhằm tạo cho các
em năng lực sử dụng Tiếng việt, văn hóa để suy nghĩ, giao tiếp và học tập phát triển các kỹ năng
đọc và nghe cho học sinh, trau dồi vốn tiếng việt, vốn văn học để phát triển tư duy, mở rộng sự
hiểu biết của học học sinh về cuộc sống cụ thể. Làm giàu và tích cực hóa vốn từ, vốn diễn đạt.
Bồi dưỡng vốn văn học ban đầu, mở rộng hiểu biết về cuộc sống cung cấp mẫu để hình thành
một số kĩ năng để phục vụ cho đời sống và việc học tập của bản thân như điền vào các tờ khai (
đơn giản), làm đơn, viết thư, phát biểu trong cuộc họp, giới thiệu hoạt động của lớp.
- Phát triển một số tư duy cơ bản như: phân tích, tổng hợp, phán đoán…
- Bồi dưỡng tư duy, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng, tình yêu cái đẹp, cái thiện thái
độ ứng xử đúng mức trong cuộc sống, hứng thú đọc sách và yêu thích Tiếng việt, cụ thể:
+ Bồi dưỡng trẻ yêu quý, kính trọng, biết ơn và trách nhiệm đối với ông bà cha mẹ, thầy cô, yêu
trường yêu lớp, đoàn kết, giúp đỡ bạn bè ,vị tha nhân hậu.
+ Xây dựng và năng lực thể hiện những phép xã giao tối thiểu.
+ Từ những mẩu chuyện, bài văn, bài thơ hấp dẫn trong sách giáo khoa, hình thành phát triển
ham muốn đọc sách, khả năng cảm thụ văn bản, văn học, cảm thụ vể đẹp của Tiếng việt.
Tất cả những lý do trên theo tôi nghĩ không phải là một vấn đề hoàn toàn đơn giản của môn tập
đọc nói riêng và môn tiếng việt nói chung, mà nó là cả một qúa trình tích hợp theo chiều ngang
giữa kiến thức tiếng việt, với các mảng kiến thức về văn học, về thiên nhiên, con người và xã
hội. Xây dựng các đơn vị kiến thức kỹ năng theo nguyên tắc đồng tâm. Kiến thức và kỹ năng
của bài học sau ở lớp trên bao hàm kiền thức, kỹ năng của bài học trước của lớp dưới, nhưng
được phát triển sâu rộng hơn. Xét về đặc điểm tâm lý, mỗi học sinh tiểu học là một chỉnh thể
nhận thức của các em mang tính tổng hợp và thiên về cảm tính. Khả năng phân tích và nhận thức
lý tính chưa cao, việc tiếp thu kiến thức, hình thành kỹ năng, thái độ đối với lứa tuối các em cần
được diễn ra trong một mối liên hệ tương tác, trọn vẹn và liên tục bằng những hành động cụ thể
và sống động.
Do vậy môn Tiếng việt ở tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực ngôn ngữ cho học sinh. Năng
lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong bốn dạng hoạt động tương ứng. Tương ứng với
chúng là bốn kỹ năng “nghe, nói, đọc, viết” là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển
dạng từ hình thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó ( ứng với hình thức đọc
thành tiếng). Là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có
âm thanh ( ứng với đọc thầm ).
Trong đó đọc không phải là công việc giải bộ mã gồm hai phần chữ viết và phát âm. Nghĩa là nó
không chỉ là sự đánh vần lên tiếng theo những ký hiệu đúng chữ viết và còn là một quá trình
nhận thức để có khả năng thông hiểu khái niệm “ đọc” một cách đầy đủ. Nhiều chỗ chỉ nói đến
đọc như nói đến việc sử dụng bộ mã chữ - âm, còn việc từ sang nghĩa đã không được chú ý đến.
Vì vậy phương pháp dạy tập đọc ở tiểu học nói chung và phương pháp dạy tập đọc ở lớp 3 nói
riêng đều mang tính tổng hợp. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là người giáo viên phải hình
thành được kỹ năng đọc cho học sinh, đó là một trong những kỹ năng cơ bản nhất. Yêu cầu một
học sinh đọc có chất lượng tốt là phải đọc đúng, ngắt nghỉ đúng, đọc nhẩm, đọc hiểu, đọc diễn
cảm.
Hiện nay ở trường tiểu học cho ta thấy kỹ năng đọc của học sinh chưa đồng đều, một số đọc còn
yếu, một số giáo viên chưa chú trọng đến việc dạy cho học sinh tiểu học, chưa tìm ra biện pháp
dạy môn tập đọc để nâng cao hiệu quả giờ dạy. Nguyên nhân của đọc yếu và đọc chưa tốt của
học sinh là do nhiều tác động như: phương pháp giảng dạy của giao viên, ngôn ngữ địa phương,
do tài liệu, sách giáo khoa, câu hỏi còn chung chung, chưa đi sâu vào nội dung bài, cách kết hợp
các phương pháp dạy còn hạn chế. Do vậy giờ dạy chưa đạy kết quả cao, dẫn đến học tốt môn
tập đọc còn hạn chế.
Trước những vấn đề trên tôi đã nghiên cứu và viết sáng kiến kinh nghiệm “ Phương pháp dạy
học tốt môn tập đọc lớp 3 ở bậc tiểu học” để giúp các em học tốt, có khả năng giao tiếp tốt, viết
được bài văn hay, có cảm nhận về văn học, yêu thích môn tiếng việt và tích cực đến lớp, đến
trường học.
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
1. Phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu phương pháp dạy học tốt ở môn tập đọc lớp 3 thuộc phân môn tập đọc lớp 3 của tiểu
học.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nhắc lại các phương pháp dạy học môn tiếng việt ở lớp 3 nói chung và phương pháp dạy phân
môn tập đọc lớp 3 nói riêng, đồng thời đề xuất những biện pháp cụ thể ở một số bài học cụ thể
nhằm nâng cao hiệu quả dạy tập đọc học sinh lớp 3.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Tôi chọn học sinh lớp 3 trường tiểu học Phú Thượng II là lớp tôi chủ nhiệm và trực tiếp giảng
dạy năm học 2008- 2009 với:
Tổng số học sinh: 18 em. Trong đó:
Nam: 12; Nữ: 6; Dân tộc: 17; Khuyết tật: 4.
* Kết quả khảo sát môn Tiếng việt đầu năm như sau:
Tổng số HS
18
Giỏi
5 ( 27,78 %)
Khá
5 ( 27,78%)
Trung bình
4 ( 22,22%)
Yếu
4 ( KT3 )
( 22,22%)
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để đạt được mục được mục đích nghiên cứu, tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Thu thập các tài liệu như: sách tham khảo, các tập san báo giáo dục thời đại, giờ dạy mẫu trên
Ti vi, sách giáo viên, sách hướng dẫn giảng dạy tiếng việt lớp 3.
- Phân tích tài liệu dạy học sách giáo khoa lớp 3 mới và sách hướng dẫn về nội dung và cấu trúc.
- Phương pháp trao đổi với giáo viên và gia đình học sinh.
- Phương pháp dạy thực nghiệm, tổ chức giờ học sôi nổi và phương pháp kiểm tra đánh giá.
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Mục đích tác dụng của phương pháp dạy học môn tiếng việt ở lớp 3 nói chung và phương
pháp giảng dạy môn tập đọc ở lớp 3 nói riêng.
Mục đích dạy môn tập đọc:
Môn tiếng việt ở tiểu học chia làm nhiều phân môn, trong đó tập đọc là phân môn thực hành
bằng lời nói, nếu dạy tốt môn tập đọc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các môn học khác.
Đọc là tiếp thu những thành tựu của học vần đạt được, nâng cao lên ở mức đầy đủ và hoàn chỉnh
hơn, đồng thời tạo nên bốn khả năng đã nêu: đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu, đọc diễn cảm.
Phân môn tập đọc giáo dục cho các em lòng ham đọc sách, hình thành cho trẻ thói quen làm việc
với văn bản tới từng học sinh, làm quen với sách giáo khoa. Qua đó nhà trường là thực sự là
trung tâm văn hóa cho các em. Thông qua đọc giúp các em thích đọc và xác định đọc nhiều văn
bản là có ích cho cuộc sống và phát triển trí tuệ văn minh. Qua đó giáo dục cho các em tư tưởng,
tình cảm, đạo đức, thị hiếu, thẩm mỹ của các em.
II. Phân tích tài liệu dạy học.
1- Quan điểm biên soạn sách giáo khoa mới.
Dựa theo quan điểm dạy giao tiếp, quan điểm phân tích và quan điểm tích cực hóa hoạt động học
tập của học sinh.
* Quan điểm giao tiếp.
Để thực hiện mục tiêu “ hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng việt: nghe,
nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi”. Sách giáo
khoa tiếng việt lớp 3 lấy nguyên tắc dạy giao tiếp làm định hướng cơ bản.
Có thể hiểu giao tiếp là hoạt động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc nhằm thiết lập quan hệ,
sự hiểu biết và sự cộng tác giữa các thành viên trong xã hội. Người ta giao tiếp với nhau bằng
nhiều phương tiện, nhưng phương tiện thông thường và quan trọng nhất là ngôn ngữ. Vì hành
động giao tiếp bao gồm các hành vi giải mã nhận thông tin và ký mã phát thông tin, trong ngôn
ngữ mỗi hành vi đều có thể thực hiện bằng hai hình thức là khẩu ngữ nghe, nói và bút ngữ đọc
viết.
Quan điểm dạy giao tiếp được thể hiện trên cả 2 phương diện, nội dung và phương pháp dạy học.
Về nội dung thông qua phân môn tập đọc, kể chuyện, chính tả, luyện từ và câu, tập viết, tập làm
văn. Tiếng việt lớp 3 tạo ra những môi trường giao tiếp có chọn lọc để học sinh mở rộng vốn từ
theo định hướng, trang bị những kiến thức nền tảng và phát triển các kỹ năng tiếng việt trong
giao tiếp. Về phương pháp dạy học, các kỹ năng nói trên được dạy thông qua nhiều bài tập mang
tính tình huống, phù hợp với những giao tiếp tự nhiên.
* Quan điểm tích hợp.
Tích hợp là tổng hợp trong một đơn vị học, thậm trí một tiíet học hay một bài tập nhiều mảng
kiến thức và kỹ năng liên quan với nhau nhằm tăng cường hiệu quả giáo dục và tiết kiệm thời
gian học tập cho người học. có thể thực hiện tích hợp theo chiều ngang và chiều dọc. Tích hợp
theo chiều ngang là tích hợp tiếng việt với các mảng kiến thức về văn học, thiên nhiên, con
người và xã hội theo nguyên tắc đồng quy. Hướng tích hợp này được sách giáo khoa tiếng việt
lớp 3 thực hiện thông qua các chủ điểm học tập. Theo quan điểm tích hợp, các phân môn tập đọc,
kể chuyện, chính tả, tập viết, luyện từ và câu, tập làm văn trước đây ít gắn bó với nhau, nay được
tập hợp lại xoay quanh trục chủ điểm và các bài đọc, các nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn
luyện kỹ năng cũng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn trước.
Tích hợp theo chiều dọc là tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kỹ năng đã học trước đó theo
nguyên tắc đồng tâm đồng trục hay vòng tròn xoáy trôn ốc, cụ thể là kiến thức và kỹ năng của
lớp trên, bậc học trên bao hàm kiến thức và kỹ năng của lớp dưới, bậc học dưới nhưng cao hơn,
sâu hơn kiến thức và kỹ năng ở lớp dưới.
Dĩ nhiên trong tích hợp vẫn có điểm nhấn, không nắm được điểm nhấn này giáo viên hiểu lệch
yêu cầu tích hợp, dẫn tới sa đà. Ví dụ: bây giờ tập đọc thành giờ dạy đạo đức hay luyện từ và
câu…Để nắm vững trọng tâm của mỗi tiết học, bài học, giáo viên cần đọc kỹ phần mục đích, yêu
cầu của mỗi tiết học, mỗi bài học nêu trong sách giáo viên.
* Quan điểm tích cực hóa trong hoạt động học tập của học sinh.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong đổi mới chương trình và sách giáo khoa lần này là
đổi mới phương pháp dạy và học. Chuyển từ phương pháp truyền thụ sang phương pháp tích cực
hóa hoạt động của người học, trong đó thầy cô đóng vai trò người tổ chức hoạt động của học
sinh, mỗi học sinh đều được hoạt động, mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và được phát triển.
Để theo phương pháp tích cực hóa các hoạt động của học sinh, sách giáo khoa Tiếng việt không
trình bày kiến thức như là những kết quả sẵn có mà xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập hướng
dẫn học sinh thực hiện các hoạt động nhằm chiếm lĩnh kiến thức và phát triển kỹ năng sử dụng
tiếng việt, sách giáo khoa Tiếng việt 3 hướng dẫn giáo viên cách thức cụ thể tổ chức các hoạt
động này.
2. Nội dung sách giáo khoa Tiếng việt 3.
a. Các đơn vị học.
Sách giáo khoa tiếng việt lớp 3, hai tập, gồm 15 đơn vị học, mỗi đơn vị gắn với một chủ điểm,
học trong 2 tuần trừ chủ điểm “ ngôi nhà chung” học trong 3 tuần, cả năm học 35 tuần. Cụ thể
như sau:
Tập 1 gồm 8 chủ điểm: Măng non; Mái ấm gia đình; Tới trường (trường học); Cộng đồng ( sống
với những người xung quanh); Quê hương; Bắc – Trung – Nam (các vùng miền trên đất nước ta);
Anh em một nhà (các dân tộc anh em trên đất nước ta); Thành thị - Nông thôn.
Tập 2 gồm 7 chủ điểm: Bảo vệ Tổ quốc; Sáng tạo (hoạt động khoa học,tri thức); Nghệ thuật; Lễ
hội; Thể thao; Ngôi nhà chung (các nước, một số vấn đề toàn cầu như hòa bình, hữu nghị, hợp
tác, bảo vệ môi trường); Bầu trời và mặt đất (các hiện tượng thiên nhiên, vũ trụ, con người với
thiên nhiên, vũ trụ).
b. Các phân môn.
Môn tập đọc rèn cho học sinh kỹ năng đọc, nghe và nói. Bên cạnh đó thông qua hệ thống bài đọc
theo chủ điểm và những câu hỏi, những bài tập khai thác nội dung bài đọc; phân môn tập đọc
cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con người, cung cấp vốn từ, vốn,
vốn diễn đạt, những hiểu biết về tác phẩm văn học, đề tài, cốt chuyện, nhân vật…góp phần rèn
luyện nhân cách cho học sinh.
- Phân môn Kể chuyện: Rèn luyện kỹ năng nói, nghe.
- Phân môn Luyện từ và câu: cung cấp kiến thức sơ giản về tiếng việt bằng con đường quy nạp
và rèn luyện kỹ năng dùng từ, đặt câu, nói, viết.
- Phân môn tập làm văn: Rèn luyện cả 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết.
c. Cấu trúc của một đơn vị học:
Trong một tuần học gồm:
- Tập đọc, kể chuyện ( 2 tiết ).
- Chính tả.
- Tập đọc (1 tiết): 1 bài thơ, hoặc một bài văn thông thường.
- Luyện TVC: 1 tiết.
- Tập viết (1 tiết).
- Tập làm văn ( 1tiết).
* Ưu điểm sách giáo khoa:
Nội dung tập đọc lớp 3 sát với thực tế, nội dung logic phù hợp với trình độ của học sinh. sách
giáo khoa đã đáp ứng tính thực hành trong dạy và học, cấu trúc rõ ràng nhằm tạo ra mối liên hệ
mật thiết giữa các phân môn trong tiếng việt, tạo ra tính tổng hợp, tính thống nhất của các phân
môn. Nội dung sách giáo khoa cũng thể hiện được yêu cầu nhận thức của học sinh từ dễ đến khó,
từ đơn giản đến phức tạp theo một hệ thống, học sinh dễ hiểu, dễ nhớ, điều đó thể hiện rất rõ tính
khoa học của sách.
* Hạn chế của sách giáo khoa:
Một số kiến thức còn trìu tượng, tranh ảnh trong sách phục vụ bài còn sơ sài. Phần hướng dẫn
tìm hiểu bài ở sách giáo khoa là những câu hỏi, mà câu hỏi lại mang tính khái quát trìu tượng,
làm cho học sinh khó hiểu ngay. Đồng thời câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh dùng một phương thức
hành động duy nhất là “ dùng lời”. Điều này có những hạn chế số lượng học sinh làm việc trên
lớp còn ít, tại vì tại thời điểm đó chỉ có một em trả lời câu hỏi, các em khác chỉ được nghe, giáo
viên hầu như không kiểm soát được hết lớp, các em đã nghe và hiểu nội dung như câu hỏi các
em đã trả lời. Chính vì thế giờ dạy tập đọc chưa thực sự tích cực hóa được hoạt động học tập của
học sinh. Tất cả những điếu đó đều tác động vào làm hạn chế trong giờ dạy tập đọc, chất lượng
thấp hơn giờ toán.
* Khắc phục hạn chế này:
- Một số kiến thức trìu tượng này theo tôi, giáo viên nên cho tất cả học sinh đều được hoạt động
tự khám phá bằng cách giáo viên gợi mở cho học sinh hoạt động theo nhóm để hiểu được hình
thức trìu tượng đó.
- Với phần câu hỏi trìu tượng, giáo viên chia câu hỏi ra thành nhiều câu hỏi nhỏ và cũng cho học
sinh hoạt động theo nhóm, rồi giáo viên chốt ý bằng câu hỏi trìu tượng trong sách.
III. Phương pháp dạy học môn tiếng việt nói chung và phương pháp dạy môn tập đọc lớp 3
mới nói riêng.
1. Phương pháp dạy học môn tiếng việt ở lớp 3 mới:
Nội dung và phương pháp dạy học bao giờ cũng gắn bó với nhau. Mỗi nội dung đòi hỏi một
phương pháp thích hợp các kỹ năng giao tiếp không thể được hình thành và phát triển bằng con
đường truyền giảng thụ động. Muốn phát triển kỹ năng này, học sinh phải được hoạt động trong
môi trường giao tiếp dưới sự hướng dẫn của người thầy. Các kỹ năng về ngôn ngữ, văn hóa, tự
nhiên và xã hội đều có thể được tiếp thu qua lời giảng, nhưng học sinh chỉ làm chủ được những
kiến thức này khi các em chiếm lĩnh chúng bằng chính hoạt động có ý thức của mình. Cũng như
vậy những tư tưởng tình cảm và nhân cách tốt đẹp chỉ có thể được hình thành chắc chắn thông
qua sự rèn luyện thực tế. Đó là những lý do cắt nghĩa sự ra đời của phương pháp dạy học mới Phương pháp tích cực hóa của người học.
- Tích cực hóa họat động của người học được hiểu là phương pháp dạy học lấy người học làm
trung tâm, trong đó người thầy đóng vai trò người tổ chức hoạt động của học sinh. Mỗi học sinh
đều được hoạt động, mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và được phát triển.
Hoạt động của học sinh trong giờ học theo phương pháp dạy mới. Trong môn tiếng việt, hoạt
động của học sinh có thể là hoạt động giao tiếp là đặc thù của môn tiếng việt, hoạt động phân
tích, tổng hợp, thực hành lý thuyết như ở các môn học khác. Cả hai loại hoạt động trên có thể
được ttổ chức theo nhiều hình thức khác nhau:
- Làm việc độc lập.
- Làm việc theo nhóm.
- Làm việc theo lớp.
Trong phần lớn các trường hợp, nhất là trong trường hợp câu hỏi, bài tập đề ra rất cụ thể, học
sinh được tổ chức làm việc độc lập. Trong trường hợp câu hỏi, bài tập tương đối trìu tượng hoặc
đòi hỏi một sự khái quát nhất định và trong trường hợp nếu làm việc chung theo đơn vị lớp sẽ có
ít học sinh được hoạt động thì làm việc theo nhóm là giải pháp tốt nhất. Hình thức làm việc
chung theo đơn vị lớp được áp dụng chủ yếu trong trường hợp giáo viên thực hiện các khâu: giới
thiệu bài, củng cố bài, nêu những câu hỏi không yêu cầu phải suy nghĩ lâu hoặc để học sinh trình
bày kết quả làm việc.
Hoạt động của giáo viên trong giờ học theo phương pháp dạy học mới về phần giáo viên chủ yếu
là:
- Giao việc cho học sinh: cho học sinh trình bày yêu cầu của câu hỏi, cho học sinh làm mẫu một
phần. Tóm tắt nhiệm vụ, dặn dò học sinh.
- Kiểm tra học sinh xem học học sinh có làm việc không? xem học sinh có hiểu việc phải làm
không? và trả lời thắc mắc của học sinh.
- Tổ chức báo cáo kết quả làm việc:
Các hình thức báo cáo đó là: báo cáo trực tiếp với giáo viên, báo cáo trong nhóm, báo cáo trước
lớp.
Các biện pháp báo cáo: bằng miệng, bằng bảng con, bằng bảng trên lớp, bằng phiếu học, bằng
giấy… hoặc thi đua giữa các nhóm và trình bày cá nhân.
- Tổ chức đánh giá.
Các hình thức đánh giá:
+ Tự đánh giá.
+ Đánh giá nhóm.
+ Đánh giá trên lớp.
Các biện pháp đánh giá như: khen, chê định tính, cho điểm định hướng.
2. Phương pháp dạy phân môn tập đọc ở lớp 3 mới.
* Nội dung dạy học:
- Rèn luyện kỹ năng đọc: Rèn luyện năng đọc thành tiếng và đọc thầm thông qua 93 bài tập đọc
thuộc các loại văn bản khác nhau: văn bản nghệ thuật, văn bản hành chính, văn bản báo chí vv…
Trong đó có 30 bài thơ từ 4 - 5 đến 7 tiếng, thơ lục bát, thơ tự do, 63 bài văn xuôi, chuyện, văn
miêu tả, văn bản khoa học, nghị luận và văn bản thông thường.
Rèn kĩ đọc hiểu văn bản thông qua phần hướng dẫn văn bản sư phạm cuối bài tập đọc chú thích
và giải nghĩa từ, câu hỏi và bài tập tìm hiểu bài, giúp học sinh nắm được ý chính của đoạn, tập
nhận xét về một số hình ảnh, nhân vật, chi tiết trong bài tập đọc.
Kết hợp rèn kỹ năng nghe, nói.
Qua việc hướng dẫn học sinh luyện đọc và tìm hiểu bài, giáo viên giúp các em có cơ hội rèn
luyện kỹ năng nghe nói, nghe giáo viên và các bạn đọc, nghe giáo viên hướng dẫn bài học hoặc
các bạn trả lời câu hỏi, nói trước lớp hoặc trao đổi với bạn bè về nội dung bài học.
Cung cấp và mở rộng vốn sống.
Các bài tập đọc trong sách giáo khoa Tiếng việt lớp 3 phản ánh nhiều lĩnh vực khác nhau là gia
đình, nhà trường, quê hương, các vùng miền và các dân tộc anh em trên đất nước ta đến hoạt
động các văn hóa giáo dục, khoa học, thể thao và các vấn đề lớn của xã hội như bảo vệ hòa bình,
phát triển tình hữu nghị, sự hợp tác giữa các dân tộc, bảo vệ môi trường sống, chinh phục vũ trụ.
Thông qua hệ thống bài tập đọc qua chủ điểm và các lĩnh vực khác nhau qua những câu hỏi, bài
tập khai thác nội dung bài, phân môn tập đọc còn cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên
nhiên, xã hội và con người, cung cấp vốn từ, vốn diễn đạt, những hiểu biết về tác phẩm văn học
như đề tài, cốt truyện, nhân vật, qua đó rèn luyện nhân cách cho học sinh.
* Phương pháp tập đọc.
1- Phương pháp đàm thoại :
Phương pháp này phù hợp với tâm lý trẻ ở lứa tuổi tiểu học, các em thích hoạt động và hoạt động
bằng lời nói, giáo viên đưa ra một hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài, học sinh tự trả lời toát ra nội
dung bài, muốn đọc diễn cảm được bài thì trước hết phải cảm thụ được bài văn, phải tái hiện
được các nhân vật có hình tượng đẹp, hoặc nhân vật, nội dung chính trong bài. Vì vậy giáo viên
cần hướng dẫn các em bằng câu hỏi dễ hiểu, dễ nhớ, dễ trả lời.
2- Phương pháp trực quan:
Phương pháp này phù hợp với tư duy, với tâm lý lứa tuổi học sinh tiểu học. Giáo viên có thể
dùng nhiều hình thức trực quan: trực quan bằng lời nói, trực quan bằng dáng điệu, trực quan
bằng nét mặt, trực quan bằng các động tác hình mẫu, trực quan bằng vật thực, trực quan bằng
tranh ảnh, trực quan bằng băng hình.
- Trong đó trực quan bằng giọng điệu của giáo viên là hình thức trực quan sinh động và có hiệu
quả cao nhất có tác dụng làm mẫu cho học sinh luyện đọc, mỗi bài thơ, bài văn viết ở thể loại
khác nhau, nên mỗi bài có giọng đọc khác nhau, có bài giọng nghiêm trang, trầm lắng, có bài
giọng đọc tình cảm, âu yếm, có bài đọc với giọng phấn khởi, náo nức. Do đó giáo viên cần đọc
đúng thể loại, ngữ điệu, tránh đọc một cách đều đều. Khi đọc phải biểu hiện tình cảm qua ánh
mắt, nụ cười.
- Trực quan bằng dáng điệu: Giáo viên thể hiện được dáng điệu đúng nội dung bài học, giúp học
sinh hiểu và dễ nhớ.
- Trực quan bằng nét mặt: Nét mặt giáo viên bộc lộ vui buồn theo giọng đọc và theo nội dung
bài.
- Trực quan bằng vật thực: Khi giảng giáo viên dùng vật thực để học sinh minh họa theo bài.
- Trực quan bằng tranh ảnh: Giáo viên đưa tranh ảnh mẫu phù hợp với nội dung bài.
- Trực quan bằng băng hình: Giáo viên cho học sinh nghe giọng đọc của học sinh đọc, có thể cho
học sinh luyện đọc theo.
3- Phương pháp luyện đọc thực hành:
Là phương pháp chủ yếu trong giờ tập đọc. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được rèn
luyện kỹ năng, kỹ sảo về đọc, có thể đọc đồng thanh, đọc cá nhân, đọc nhóm để phát hiện từ
quan trọng, những hình ảnh tiêu biểu, làm các bài tập để xác định cách đọc và trhông hiểu về nội
dung, nắm ý chính. Thông qua đọc đoạn, nắm được mục đích đọc chủ yếu, đọc cá nhân, trả lời
câu hỏi để thấy được kết quả ngay tại lớp.
4- Phương pháp trò chơi:
Đây là một phương pháp mới giúp cho học sinh có hứng thú khi đọc bài. trong cuối mỗi tiết tập
đọc giáo viên tổ chức cho học sinh đọc dưới hình thức chơi trò chơi bằng cách: thi đọc phân vai
theo nhân vật; thi đọc diễn cảm một đoạn văn hoặc một đoạn thơ. Trước khi học sinh tham gia
trò chơi thi đọc giáo viên đưa ra tiêu chuẩn đánh giá để giúp học sinh nắm được cách chơi, luật
chơi, cách nhận xét đánh giá cho điểm để tạo cho học sinh tham gia chơi một cách tích cực, vui
vẻ, bổ xung cho giờ học đạt hiệu quả cao.
Tóm lại: Muốn để phân môn tập đọc đạt kết quả cao, thì người giáo viên phải kết hợp một cách
linh hoạt các phương pháp trên thì giờ dạy mới không ngắt quãng, gián đoạn. Người giáo viên
phải luôn biết lấy học sinh làm trung tâm. Vai trò của người giáo viên trong tiết học chỉ là người
hướng dẫn, tổ chức tiết học sao cho phù hợp với đối tượng của học sinh mình, giúp học sinh tìm
ra cách đọc tốt nhất, đọc hiểu nội dung trong bài tập đọc trong giờ tập đọc.
II. CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN
* Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình viết đề tài.
1. Thực trạng nhà trường và địa phương.
Trường Tiểu học Phú Thượng II đóng tại địa bàn xóm Ba Nhất, xã Phú Thượng, là một xã miền
núi đặc biệt khó khăn, diện tích tương đối rộng, dân cư thưa thớt, toàn bộ là dân tộc ít người (dân
tộc Dao) và làm nghề nông nghiệp do đó kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp,
cha mẹ ít quan tâm đến việc học tập của con em mình, do vậy việc học tập của học sinh còn
nhiều hạn chế.
Năm học 2008 – 2009 trường chỉ có 6 lớp( một lớp lẻ ở phân trường), trong đó chỉ có một lớp 3.
Nhưng được sự quam tâm chỉ đạo của Phòng Giáo dục – đào tạo, trực tiếp là Ban giám hiệu nhà
trường, tập thể luôn đoàn kết, đoàn kết giúp nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
2. Điều tra khảo sát lớp 3.
Lớp 3 có 18 học sinh, trong đó nam: 12; nữ: 6; có 4 học sinh khuyết tật, 17 em là dân tộc Dao.
Do học sinh không đồng đều về độ tuổi nên trình độ nhận thức của học sinh cũng không đồng
đều. Vào đầu năm học nhà trường tiến hành kiểm tra khảo sát chất lượng học sinh. Tôi được
phân công chủ nhiệm lớp 3, qua khảo sát chất lượng học sinh cho thấy: số học sinh đọc được lưu
loát chỉ có 4 em, 5 học sinh đọc được nhưng chậm, còn lại số học sinh khi đọc còn đánh
vần…80% số học sinh chưa biết đọc nhấn giọng, hạ giọng khi cần thiết, đọc chưa biết ngắt nghỉ
câu, nhất là đọc các câu thơ. Ví dụ: ngọng phụ âm đầu: ch/tr; r/gi/d hoặc vần: ương/ ươi; an/at;
các dấu sắc, ngã vv…và hầu như các em không hiểu nội dung bài.
3. Dự giờ của giáo viên.
Trong thời gian nghiên cứu viết đề tài này, tôi tiền hành dự giờ của một số đồng nghiệp khác dạy
phân môn tập đọc, nói chung các giờ dạy đều thực hiện đủ các bước lên lớp, nhưng phần luyện
đọc chưa thích đáng, chưa đưa ra được phương pháp cách đọc cho học sinh, chủ yếu là quam tâm
đến đọc đúng câu, đúng tiếng, từ, đọc trôi chảy. Khi nhận xét giáo viên chỉ đánh giá chung, ít
chú ý đến việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu và thể hiện cách đọc bài văn, bài thơ này cần đọc
như thế nào? tại sao phải đọc như vậy? hoặc giáo viên chưa hướng dẫn học sinh tìm hiểu giá trị
nghệ thuật của bài để khi đọc phô diễn nội dung bài đọc. Chính vì những thiếu xót trên mà giờ
học chưa đạt kết quả cao, học sinh chưa đọc được tốt.
III. NHỮNG GIẢI PHÁP.
1. Nhu cầu đổi mới phương pháp nói chung.
Thực tế dạy học đòi hỏi phải đổi mới theo xu hướng chung của Việt Nam và thế giới trong mục
đích đào tạo con người. Nhu cầu đổi mới ấy được đặt ra rất cấp thiết trong các nhà trường nói
chung và trường tiểu học nói riêng. Trường tiểu học phải rèn luyện tính cách cơ bản cho trẻ.Vì
vậy đòi hỏi phải dạy học theo hướng tích cực hóa này, đó là dạy tập trung vào người học. Vì nền
kinh tế, văn hóa xã hội đang đổi mới từng giờ, từng ngày, nên đòi con người phải năng động,
sáng tạo, do đó mục tiêu đào tạo phải đồng thời đổi mới về phương pháp giảng dạy.
- Việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và cũng là góp
phần thực hiện mục tiêu giáo dục có chất lượng ở tiểu học, điều đó cũng đòi hỏi phải nâng cao
trình độ của giáo viên.
2. Vấn đề nâng cao trình độ của giáo viên.
Trong thời kỳ giáo dục đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi giáo viên phải đạt một trình độ
chuẩn về nhận thức văn hóa và phương pháp thì mới có thể có những câu hỏi xác đáng, dễ hiểu,
phải kết hợp hài hòa giữa hỏi và giảng. Giáo viên cần hiểu rõ mục đích của bài giảng thì mới có
thể xây dựng được phương pháp đúng.
3. Biện pháp dạy học chủ yếu của phân môn tập đọc đã ứng dụng trong thực tế và có hiệu
quả.
- Đối với học sinh vùng miền núi, dân tộc ít người, biện pháp dạy tập trung cần thực hiện yêu cầu
tối thiểu, đó là đọc đúng, đọc rành mạch, tốc độ dọc từ 60-> 70 tiếng/ phút, nắm được ý cơ bản
của bài học, để đạt được yêu cầu này giáo viên cần chú trọng hình thức đọc cá nhân để rèn luyện,
uốn nắn học sinh kết hợp hình thức đọc theo nhóm để học sinh tham gia nhiều lần đọc trong một
tiết học, xen kẽ đọc đồng thanh để tạo không khí lôi cuốn học sinh yếu, học sinh còn rụt rè vào
hoạt động học, đảm bảo toàn bộ học sinh được tham gia luyện đọc và đọc được càng nhiều càng
tốt, giáo viên hạn chế đọc phân vai, đọc thầm.
Đối với phần tìm hiểu bài, cần chú ý giải nghĩa từ khó chưa gần gũi với học sinh dân tộc. Tận
dụng tối đa tranh minh họa và đồ dùng dạy học, giáo viên cần giải nghĩa một cách cụ thể để học
sinh dễ nhận biết, cũng vì vốn từ tiếng việt của các em còn hạn chế, giáo viên cần phải chú ý ghi
rõ lên bảng các từ khó khi phát âm để học sinh theo dõi một số câu hỏi khó giáo viên chia nhỏ và
gợi mở cho học sinh, dành nhiều thời gian vào đọc rõ ràng, mạch lạc.
Ví dụ: Bài tập đọc “ Người con của Tây Nguyên” tuần 13, giáo viên cần tập trung cho học sinh
học đọc đoạn, còn những học sinh yếu, kém đọc đoạn 1 và 4 dễ ngắt hơi. Những học sinh khá
giỏi đọc đoạn 2, 3 dài hơn, cần có thái độ biểu cảm. Để tăng thời gian cho việc đọc rõ ràng, mạch
lạc giáo viên phải giảm bớt phần tìm nội dung bài, những câu hỏi dài như câu 4 nên tách ra làm 2
câu hỏi nhỏ như: Đại hội tặng dân làng Kông Hoa những gì? Giáo viên cho học sinh theo dõi
sách giáo khoa và nên gọi học sinh đọc đoạn: “ Đại hội tặng dân làng Kông Hoa một ảnh Bác Hồ
vác cuốc đi làm rẫy…cho Núp”. Khi xem những vật đó thái độ của dân làng như thế nào? yêu
cầu học sinh đọc đoạn: “ Khi xem những vật đó thái độ của mọi người hết sức trân trọng xem đó
là những vật tặng thiêng liêng. Ai nấy đều rửa tay sạch trước khi cầm lên xem từng thứ, coi đi
coi lại mãi đến nửa đêm”. Ngoài ra ở những bài tập tập đọc khác, những câu hỏi khác được giáo
viên gợi mở, hoặc chủ động giải thích… Đó cũng chính là những kinh nghiệm của tôi dạy môn
tập đọc mới lớp 3 đối với vùng miền núi. Còn những biện pháp dạy học chủ yếu vẫn là theo mục
đích đề ra. Đó là:
- Đọc câu, đoạn: Nhằm hướng dẫn, gợi ý hoặc “ tạo tình huống” để học sinh nhận xét, giải thích,
tự tìm ra cách đọc, có thể đọc vài lần trong quá trình dạy học.
- Đọc cụm từ, từ: Nhằm sửa phát âm sai và rèn cách đọc đúng góp phần nâng cao về ý thức viết
đúng cho học sinh.
Học sinh tìm hiểu nghĩa của từ: Giáo viên phải xác định những từ ngữ trong bài cần tìm hiểu, đó
là những từ ngữ chú giải trong sách giáo khoa, từ ngữ phổ thông mà học sinh chưa quen, vì từ
ngữ đóng vai trò quan trọng để học sinh hiểu nội dung bài đọc, nên giáo viên yêu cầu học sinh
nêu lại phần giải nghĩa trong sách giáo khoa hoặc giáo viên dùng đồ dùng dạy học như: tranh,
ảnh,vật thật, mô hình để giải nghĩa từ giúp học sinh hiểu hơn, song không nên giải nghĩa quá
nhiều từ hoặc áp dụng các biện pháp kồng kềnh làm cho giờ tập đọc thiên về học từ ngữ một
cách nặng nề.
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài:
Giáo viên căn cứ vào câu hỏi, bài tập trong sách giáo khoa để hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội
dung bài, có thể nêu nguyên văn hoặc gợi dẫn bằng 1,2 câu hỏi phụ để học sinh dễ trả lời, tùy
thuộc vào học sinh trong lớp, tránh đặt thêm câu hỏi khai thác nội dung một cách quá yêu cầu bài
học và không phù hợp với trình độ học sinh lớp 3.
Giáo viên có thể nêu câu hỏi trực tiếp để định hướng cho học sinh đọc thầm và trả lời đúng nội
dung, đôi khi có thể kết hợp cho học sinh đọc thành tiếng, những học sinh khác đọc thầm, sau đó
trao đổi, thảo luận những vấn đề giáo viên nêu ra.
Bằng nhiều hình thức tổ chức khác nhau, giáo viên tạo điều kiện cho học sinh luyện tập một cách
tích cực như: tự cá nhân trả lời câu hỏi, trao đổi theo cặp để trả lời. Trong quá trình trả lời câu
hỏi, giáo viên cần nêu cho học sinh cách trả lời ngắn gọn, diễn đạt lưu loát, sau đó giáo viên
nhận xét, chốt lại ý chính.
3. Những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng học sinh cần đạt được khi học môn tập đọc.
- Trau dồi về kiến thức văn học.
- Yêu cầu kĩ năng khi học môn tập đọc.
- Môn tập đọc là môn thực hành tiếng việt, do vậy khi dạy môn tập đọc cần rèn cho học sinh 4 kỹ
năng đọc như sau:
+ Đọc đúng.
+ Đọc nhanh.
+ Đọc thầm, đọc hiểu.
+ Đọc diễn cảm.
4. Các biện pháp thực hiện.
Để thực hiện được tốt 4 kỹ năng trên, người giáo viên cần phải có những biện pháp thực hiện
như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Mọi sự thành công trong tiết học phụ thuộc rất nhiều vào
việc thiết kế một bài dạy tùy từng nội dung của từng bài, từng tiết học. Do đó giáo viên cần thiết
kế giáo án cho phù hợp thì tiết học mới đạt hiệu quả cao.
Chính vì vậy tôi mạnh dạn đưa ra một số suy nghĩ, những kinh nghiệm đã từng vận dụng xen lẫn
vào các tiết dạy.
a. Luyện đọc đúng.
Đọc đúng là sự tái hiện không đọc thừa, không xót từng âm, vần , tiếng, đọc đúng phương pháp,
thể hiện đúng hệ thống ngôn ngữ chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Nói cách khác là không đọc
theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn. Đọc đúng bao gồm đọc đúng, thanh, ngắt, nghỉ hơi
đúng chỗ ( đọc đúng ngữ điệu). Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm
vị tiếng việt. Học sinh trường tôi thường khi đọc hoàn toàn đọc sai thanh ngã, thanh sắc, vần
ương -> ươc, an -> at, ot ->on, là do ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương. Như vậy cần luyện
cho học sinh cách đọc như sau.
- Luyện đọc đúng các tiếng, từ có dấu ngã, có ý thức phân biệt sai nghĩa của từ, nếu như sai dấu
thanh; Không đọc “ cây sứa”, “ giá gạo”, “ em bé ngá” mà phải đọc “ cây sữa”, “giã gạo”, “ em
bé ngã”. Khi học sinh đọc sai giáo viên cần hướng dẫn các em đọc phát âm những tiến từ có dấu
ngã là: luồng hơi bật ra, lưỡi chạm nhẹ vào hàm trên, độ mở của miệng rộng để hơi thoát ra
ngoài.
- Luyện đọc đúng các tiếng, từ có vần an/at, ương/ ươc, ot/on, anh/ang khi học sinh phát âm sai
do ảnh hưởng của phương ngữ, giáo viên nên phát âm mẫu chuẩn cho học sinh đọc theo, nếu học
sinh nào yếu thì giáo viên nên đánh vần những vần đọc sai đó. Ví dụ: vần ương trong từ “ Phú
Thượng” học sinh thường đọc và viết là “ Phú thược”, “ Đồng Lạn” đọc là “ Đồng Lạt”… giáo
viên yêu cầu đánh vần ương, ươc, an, at để học sinh phân biệt và khắc sâu dẫn đền việc đọc
đúng.
- Luyện đọc đúng tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi đúng ngữ điệu của câu cần phải dựa vào nghĩa, vào
quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt nghỉ hơi cho đúng, khi đọc không được tách một từ
ra làm hai.Ví dụ: Trời thu bận xanh; không ngắt hơi: Trời / thu bận xanh.
Không tách với danh từ đi sau. Ví dụ không đọc: trăm cô/ gái tựa/ tiên sa, mà đọc: trăm cô gái /
tựa tiên sa.
Dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp sẽ giúp các em xác định cách ngắt nhịp đúng các câu: “Cảnh
hai bên bờ sông Bến Hải/ rất đẹp”. “ Bãi biển cửa Tùng như một chiếc lược đồi mồi / cài vào
mái tóc bạch kim của sóng biển”.
Không đọc: “Cảnh bên bờ sông Bến / Hải rất đẹp”.
“Bãi biển Cửa Tùng như một chiếc lược đồi / mồi cài vào mái / tóc bạch kim của sóng biển”.
Với cách dạy như trên số học sinh đọc sai giảm xuống rõ rệt.
b. Luyện đọc nhanh.
Đọc nhanh còn gọi đọc lưu loát, đọc trôi chảy, biện pháp đọc nhanh giáo viên hướng dẫn cho học
sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị đọc nhanh là cụm, từ, câu, đoạn bài. Giáo viên cần điều
chỉnh tốc độ đọc. Giáo viên đo tốc độ đọc bằng cách soạn sẵn bài có số tiếng cho trước và dự
tính trong bao nhiêu phút, định tốc độ như thế nào còn phụ thuộc vào độ khó của bài đọc.
c. Luyện đọc thầm, đọc hiểu.
Đây là kỹ năng được chuyển từ ngoài vào trong, từ đọc to đến đọc nhỏ, đọc mấy máy môi đến
đọc bằng mắt, không mấp máy môi. Giáo viên phải tổ chức quá trình từ ngoài vào trong, cần
kiểm soát quá trình đọc thầm của học sinh bằng cách xác định đọc thầm cho học sinh từng đoạn,
khi học sinh đọc thầm giáo viên cũng phải đọc thầm theo để đề phòng hoặc phát hiện những học
sinh không đọc thầm mà đã giơ tay ( nếu thấy học sinh đọc quá nhanh, nhanh hơn cả cô), giáo
viên đưa ra câu hỏi từ đoạn đó. Nếu thấy học sinh lúng túng thì có nghĩa là em đó không đọc bàì.
Ví dụ: Bài “ Đôi bạn”, giáo viên đọc thầm một đoạn, thấy học sinh đọc quá nhanh thì giáo viên
đưa ra câu hỏi ở đoạn đó (Thành và Mến kết bạn vào dịp nào?).
Với những biện pháp như trên, bắt buộc học sinh phải đọc thầm để tìm hiểu nội dung bài. Giờ
tập đọc cũng kiểm tra như vậy, từ đó giúp các em tích cực tự giác học tập. Đối với học sinh yếu,
tôi luôn động viên, khuyến khích các em đó gây được phong trào đọc thầm cho học sinh.
d. Luyện đọc diễn cảm.
- Đọc diễn cảm tức là biết làm chủ ngữ điệu để bộc lộ cảm xúc của bài đọc, đọc diễn cảm không
những đạt được yêu cầu đọc đúng mà còn kèm theo cử chỉ, lời nói để góp phần diễn tả nội dung
bài.
Qua thực tế giảng dạy trên lớp, tôi thấy để đọc được diễn cảm người giáo viên cần chuẩn bị các
bước sau:
+ Soạn bài chu đáo, nắm được nội dung bài, đọc kỹ bài để thể hiện được ngữ điệu đọc, cường độ
đọc bài đó ra sao? đọc cao giọng, nhấn giọng ở những từ nào? nét mặt vui, buồn thể hiện ở
những từ ngữ nào trong bài.
+ Yêu cầu học sinh đọc bài nhiều lần ở nhà, tập đọc theo ngữ điệu sao cho phù hợp với nội dung
bài đọc đó. Khi đến lớp giáo viên hướng dẫn học sinh có thể tiếp thu nhanh cách đọc đúng và
đọc diễn cảm.
Ví dụ: bài “Cuộc chạy đua trong rừng” ( tuần 28 – sách giáo khoa Tiếng việt lớp 3 tập 2). Đọc
toàn bài chú ý giọng đọc của mỗi đoạn.
Đoạn 1: Giọng đọc sôi nổi, hào hứng, nhấn giọng ở những chi tiết miêu tả hình ảnh vui thích của
ngựa con khi soi bóng mình dưới nước: “ sửa soạn”, “ mải mê”, “ chải chuốt”,…
Đoạn 2: Giọng đọc âu yếm, ân cần đối với ngựa cha, ngựa con tự tin, ngúng ngẩy: “ cha yên
tâm”, “ chắc chắn”, “ sẽ thắng”.
Đoạn 3: Giọng đọc chậm, nhấn giọng ở các từ ngữ tả muông thú chuẩn bị cuộc đua: “ sốt ruột”, “
ngắm nghiá”, “ giữ trật tự”, “ ung dung”.
Đoạn 4: Giọng đọc nhanh, hồi hộp, đoạn cuối đọc chậm thể hiện sự nuối tiếc vì chủ quan của
ngựa con.
Bên cạnh đó, giáo viên cần chuẩn bị đồ dùng, tranh ảnh, vật thực cho giờ học, bảng phụ ghi câu
văn, đoạn văn khó cần luyện cho học sinh.
Đối với bài tập có lời đối thoại, giáo viên nên xây dựng màn kịch ngắn với nội dung của bài, học
sinh sắm các vai nhân vật đó để đọc bài.
Ví dụ bài: “Cuốn sổ tay” của nhân vật trong chuyện rất phù hợp với lứa tuổi các em, sôi nổi, hào
hứng, hồn nhiên, các em sắm vai :(Thanh, Tuấn, Lân, Tùng). Lời nói của người dẫn chuyện
giọng điệu hồn nhiên, giọng của Lân có vẻ ngại ngần, giọng của Thanh quả quyết, dứt khoát, hào
hứng; giọng của Tùng vẻ thách thức, dí dỏm và rất tự tin…
Sau đó giáo viên gọi từng nhóm học sinh lần lượt lên bảng nhập vai đọc bài, như vậy tất cả học
sinh trên lớp đều làm việc, được luyện nói và được thể hiện nét mặt thông qua các nhân vật mà
mình nhập vai. Qua các giờ học như vậy, học sinh sẽ tiến bộ dần, các em sẽ tự tin hơn ở bản thân
mình, tạo ra tiết học đạt kết quả cao.
e. Luyện đọc thuộc lòng.
Ở những bài dạy có yêu cầu luyện đọc thuộc lòng, giáo viên chú ý kết hợp luyện đọc thành tiếng
bằng cách tổ chức đọc cá nhân riêng lẻ, hoặc nối tiếp đọc đồng thanh theo nhóm, tổ, cả lớp, đọc
theo vai phối hợp nhiều học sinh.
Giáo viên cần biết nghe khi học sinh đọc để có cách rèn luyện thích hợp với từng em, gợi ý,
khuyến khích trong lớp trao đổi, nhận xét về chỗ được, chỗ chưa được của bạn giúp học sinh biết
rút kinh nghiệm để tự tin và đọc tốt hơn. Bên cạnh luyện đọc thành tiếng giáo viên giúp học sinh
luyện đọc kỹ hơn, có thể kết hợp hướng dẫn học sinh vừa ghi nhớ nội dung bài, vừa dựa vào một
số từ ngữ trên bảng làm điểm tựa để học thuộc toàn bài. Khi đọc cá nhân hoặc đọc đồng thanh
phải đọc nhịp nhàng, vừa phải, gây hứng thú cho học sinh.
Phần ghi bảng: Nội dung ghi bảng nói chung cần ngắn gọn, xúc tích đảm bảo tính khoa học và
tính sư phạm, hình thức trình bày mang tính thẩm mỹ có tác dụng giáo dục học sinh, Việc ghi
bảng cần kết hợp nhịp nhàng với tiến trình của tiết dạy nhằm đem lại hiệu quả trực quan cao
nhất.
g. Tổ chức giờ học thân thiện - học sinh tích cực.
Theo tôi, đây là một biện pháp mới, rất có ý nghĩa trong các giờ học đối với vùng miền núi, dân
tộc ít người. Ở đây học sinh thường đi học theo cảm tính, thích đi thì đi, không thích thì nghỉ,
học sinh chưa thấy được mục đích và nhiệm vụ phải đi học đều, đầy đủ, hơn nữa ở lứa tuổi này
học sinh thường hiếu động, nếu giờ học chỉ đọc và trả lời không thôi thì học sinh không hứng thú
học tập, không khích lệ được học sinh yếu vươn lên, không tạo được môi trường thân thiện để
các em thích đến học . Chính vì vậy trong giờ học giáo viên cần kết hợp cho học sinh tham gia
các trò chơi học tập mang tính chất hòa đồng thân thiện giữa thầy và trò, giữa trò và trò. Nếu là
bài học có hội thoại thì giáo viên cùng sắm vai với học sinh đọc theo nhân vật và đọc ngắn gọn.
Còn đối với các thể loại khác, giáo viên tổ chức trò chơi đọc truyền điệu. Giáo viên đọc câu 1,
gọi một em khác đọc tiếp, sau đó em đó lại chỉ bạn bên cạnh và đọc tiếp, cứ như vậy lần lượt đọc
hết bài. Với phương pháp này học sinh tham gia đọc được nhiều, các em lại chú ý vào bài đọc
một cách vui vẻ, nếu không chú ý không đọc được. Khi đọc truyền điệu của các em rất chăm chú
và trật tự, nên giờ học đạt kết quả cao, các em thoải mái học bài, mà không gây áp lực, nên tạo
được môi trường thân thiện, học sinh tích cực.
Phương pháp đọc trên có thể chia thành 2 tổ, các tổ thi nhau đọc hay, đọc lưu loát, diễn cảm. Từ
hình thức đọc trên tôi thấy các em trước đây đọc yếu, giờ đã đọc tốt hơn rất nhiều và có ý thức
vươn lên trong các môn học khác. Ngoài ra tôi còn tổ chức cho các em học nhóm ở gia đình, giao
nhiệm vụ cho em đọc tốt kèm cặp bạn đọc yếu ở tại địa phương vào ngày nghỉ, giúp các em được
giao lưu học hỏi nhiều hơn.
f. Kết hợp với chuyên môn nhà trường và học hỏi ở đồng nghiệp.
Ngoài những biện pháp mà tôi đã áp dụng ở trên, tôi đều tham gia và đề nghị chuyên môn nhà
trường tích cực tổ chức dự giờ thăm lớp để học hỏi và rút kinh nghiệm cho mỗi tiết học, đồng
thời tôi thường xuyên dự các giờ dạy của đồng ngiệp để học hỏi những kinh nghiệm, những
phương dạy hay nhất, hiệu qủa nhất.
h. Kết hợp giữa gia đình và nhà trường.
Thời gian các em học tập ở trường tuy nhiều , nhưng các em không đủ học phân môn tập đọc, mà
còn phải học các môn khác. Vì vậy về nhà các em phải có thời gian học tập. Đối với học sinh yếu
cha mẹ chưa quan tâm nhiều đến các em. Chính vì vậy tôi đã sử dụng biện pháp là: đến thăm gia
đình học sinh, tìm hiểu hoàn cảnh, đời sống sinh hoạt cũng như văn hóa trong gia đình, kiểm tra
góc học tập của các em, tiếp xúc với gia đình và tâm sự với phụ huynh học sinh về sự cần thiết
của việc học tập và nhất là môn tập đọc, yêu cầu gia đình tạo điều kiện và kèm cặp thêm những
lúc các em học ở nhà. Tổ chức các cuộc họp phụ huynh giữa nhà trường và gia đình để thông báo
và đề ra những biện pháp học tập cụ thể cho từng em, từng đối tượng học sinh.
Các giờ học trên lớp, tôi thường xuyên gọi các em đọc yếu, đọc chậm để đọc bài rồi uốn nắn, sửa
chữa những câu, từ do học sinh đọc sai, sửa ngay tại lớp. Mặt khác giáo viên đưa bài tập về nhà,
đến lớp phải thường xuyên kiểm tra, nhận xét, ghi điểm. Ngoài ra tôi còn kết hơp một số biện
pháp khác như: ghi sổ liên lạc đều đặn và gửi đến gia đình kịp thời theo quy định hoặc đột xuất
những hôm các em đọc yếu, hoặc học giảm xút đi.
C/ PHẦN KẾT LUẬN.
1. Tác dụng của đề tài sáng kiến kinh nghiệm.
Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và phân môn tập đọc nói riêng, đó là vấn đề đòi
hỏi Nhà giáo phải luôn quan tâm. Như Bác Hồ đã dạy: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp
hay không, dân tộc Việt Nam có sánh vai được với các cường quốc năm châu hay không, chính
là nhờ công học tập của các cháu”.
Các Nhà giáo chúng ta là những người trực tiếp giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ, hơn bao giờ hết,
chúng ta có trách nhiệm ươm hạt nảy mầm từ những phương pháp dạy tập đọc cho học sinh.
Qua quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi nhận thấy phương pháp dạy phân môn tập đọc là hết sức
cần thiết và quan trọng. Trong giờ tập đọc cần xác định đúng mục đích của việc dùng những câu
hỏi tìm hiểu bài để từ đó có những biện pháp cụ thể nâng cao hiệu quả đọc.
2. Phương pháp ứng dụng.
Trong quá trình chuẩn bị lên lớp giáo viên phải là người phát hiện ra những giá trị nội dung, giá
trị nghệ thuật. Khi giảng giáo viên cần chú ý đến nội dung của bài tập đọc, giáo viên phải phát
âm chuẩn, đúng ngữ điệu, giọng đọc truyền cảm. Mặt khác giáo viên phải tự tìm tòi, sáng tạo, có
những biện pháp thích hợp, đồng thời phải là người gần gũi, thân thiện với các em để các em lấy
đó làm niềm tin trong giờ học, có như vậy kết quả mới được nâng cao. Bản thân tôi luôn coi
trọng những biện pháp như đã nêu ở trên. Nó giúp cho tôi trong việc giảng dạy phân môn tập đọc
nói riêng và các môn học khác nói chung đều đạt hiệu quả cao.
Cụ thể năm học 2008 – 2009 tôi điều tra và thực nghiệm tại lớp 3 mà tôi trực tiếp giảng dạy thấy
rằng: Lớp có 18 em , toàn dân tộc Dao, việc phát âm còn gặp nhiều khó khăn ở các phụ âm đầu
như: Tr/ch, s/x, gi/d/r, các vần như: an/at, ot/on, ươi/ ương, anh/ang, và đặc biệt là
dấu ngã. Khi đọc các phát âm đều còn thiếu, không ngắt nghỉ đúng chỗ. Song tôi đã vận dụng
các phương pháp và biện pháp trình bày ở trên vào thực tế giảng dạy đạt hiệu quả cao. Đến cuối
năm việc đọc tốt của các em tiến bộ rất nhiều, ngoài ra các em còn viết được văn khá hơn, đồng
thời học các môn khác cũng tốt hơn.
Kết quả cụ thể cuối năm học như sau:
Tổng số học sinh
18
Giỏi
Khá
9 ( 50% )
5 ( 27.78% )
Trung bình
4 ( 22,22 % )
Đó là những kết quả mà tôi tìm tòi và áp dụng có hiệu quả trong Nhà trường năm học qua về
phương pháp dạy môn tập đọc. Mặc dù tôi luôn cố gắng để tìm ra những giải pháp hữu hiệu hơn,
song do khả năng có hạn, nên không sao tránh khỏi những hạn chế. Vì vậy tôi rất mong nhận
được nhiều ý kiến đóng góp của các Nhà quản lý chuyên môn các cấp trong ngành và các bạn
đồng nghiệp, mong muốn đề tài – kinh nghiệm này của tôi ngày càng hoàn thiện hơn và áp dụng
vào thực tế giảng dạy phân môn tập đọc ở Tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói riêng.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 02 năm 2011.
Người viết
Nguyễn Thị Minh
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Phương pháp dạy Tiếng việt ở tiểu học của Bộ GD& ĐT.
2. Hướng dẫn giảng dạy nghiên cứu bộ sách giáo khoa Tiếng việt lớp 3.
3. Thiết kế bài giảng Tiếng việt 3.
4. Một số tập san, chuyên đề báo GD& Thời đại.
5. Tìm hiểu qua một số băng hình dạy mẫu.
6. Sách tham khảo gồm:
- Để học tốt môn Tiếng việt 3 của Nhà xuất bản Đà Nẵng.
- Bồi dưỡng Văn - Tiếng Việt tiểu học 3 của Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.
- Hỏi đáp về dạy học Tiếng Việt 3 của Bộ GD&ĐT.
Đề tài kinh nghiệm “ Dạy tốt môn tập đọc lớp 3 ở trường Tiểu học Phú Thượng II ”.
- Xem thêm -