Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Địa lý Skkn tìm hiểu và vận dụng nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống nhằm phát triển tư du...

Tài liệu Skkn tìm hiểu và vận dụng nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống nhằm phát triển tư duy cho học sinh trong dạy học địa lý 10

.DOC
63
994
57

Mô tả:

SÔÛ GIAÙO DUÏC ÑAØO TAÏO ÑOÀNG NAI TRÖÔØNG THPT LONG KHAÙNH SAÙNG KIEÁN KINH NGHIEÄM ÑEÀ TAØI TÌM HIỂU VÀ VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC ĐẢM BẢO TÍNH HỆ THỐNG NHẰM PHÁT TRIỂN TƯ DUY CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÝ 10 GIAÙO VIEÂN THÖÏC HIEÄN: NGUYEÃN THÒ LINH TOÅ SÖÛ – ÑÒA - GDCD LONG KHAÙNH THAÙNG 5/2013 0 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................2 1. Lý do chọn đề tài....................................................................................................2 2. Mục tiêu nghiên cứu...............................................................................................2 3. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................................3 4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................3 5. Phạm vi nghiên cứu và ứng dụng...........................................................................3 6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu.....................................................................3 7. Cấu trúc của đề tài..................................................................................................4 PHẦN NỘI DUNG........................................................................................................5 1. Cơ sở lý luận...........................................................................................................5 1.1. Hệ thống khoa học Địa lí................................................................................5 1.2. Hệ thống tri thức Địa lí trong nhà trường phổ thông.....................................8 1.3. Đảm bảo tính hệ thống trong việc dạy học môn Địa lí..................................11 1.4. Đặc điểm tâm lí và quá trình phát triển tư duy học sinh THPT.....................12 1.4.1. Đặc điểm tâm lí lứa tuổi THPT...............................................................13 1.4.2. Quá trình phát triển tư duy của học sinh lớp 10.....................................14 1.4.3. Tìm hiểu việc đảm bảo tính hệ thống trong hoạt động dạy học Địa lí tại một số trường THPT ở Đồng Nai hiện nay....................................................................16 2. Tìm hiểu và vận dụng nguyên tắc hệ thống bảo đảm tính hệ thống nhằm phát triển tư duy cho học sinh trong dạy học Địa lí 10..........................................................18 2.1. Tổng quan về kiến thức trong SGK Địa lí 10.................................................18 2.2. Kiến thức Địa lí tự nhiên................................................................................20 2.3. Kiến thức Địa lí kinh tế xã hội.......................................................................21 2.4. Liên hệ tính hệ thống trong chương trình THCS...........................................23 2.5. Liên hệ tính hệ thống trong chương trình Địa lí 11, 12.................................24 2.6. Bảo đảm tính hệ thống trong chương trình SGK Địa lí 10............................26 2.6.1.Tính hệ thống theo phần, chương.............................................................26 2.6.2.Tính hệ thống theo bài..............................................................................31 2.6.3. Mối quan hệ liên môn trong dạy học Địa lí 10.......................................43 3. Thực nghiệm sư phạm............................................................................................46 3.1. Giáo án thực nghiệm.......................................................................................46 3.2. Đề kiểm tra môn Địa lí...................................................................................55 3.3. Kết quả thực nghiệm.......................................................................................58 PHẦN KẾT LUẬN.......................................................................................................61 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................62 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đã từ lâu nhu cầu muốn khám phá, tìm hiểu thế giới xung quanh trở thành một nhu cầu không thể thiếu của con người. Ngay từ lúc sinh ra, trẻ con cũng đã luôn luôn tìm cách mở rộng không gian hiểu biết của mình từ cái nôi à ơi, đến cái nhà, cái sân, mảnh vườn của mình, đến khi lớn lên, đó chính là không gian sống, học tập, làm việc và giao tiếp. Và khoa học Địa lí cũng bắt đầu hình thành từ khi con người biết tìm cách khám phá Trái Đất nhằm mục đích sinh sống, chinh phục, tìm kiếm những miền đất mới. Con đường phát triển của khoa học Địa lí không phải là một con đường trơn tru, thẳng tắp mà bao gồm những bước thăng trầm, những thời kỳ khủng hoảng và cả các giai đoạn hưng thịnh. Khoa họa Địa lí là một trong những khoa học cổ nhất của nhân loại, là một trong những khoa học cơ bản mà ai cũng cần phải học và ít nhiều vận dụng trong đời sống hằng ngày. Chính vì lẽ đó, việc dạy và học môn Địa lí một cách khoa học, một cách có hệ thống luôn luôn được đặt ra vì để người học thấm nhuần được những tri thức của khoa học Địa lí thông qua chương trình SGK phải có một quá trình lâu dài từ bậc tiểu học, THCS, THPT, xa hơn nữa là bậc đại học và cả trong thực tiễn đời sống hằng ngày. Trong suốt quá trình đó, người giáo viên đóng vai trò cung cấp và hệ thống lại tri thức Địa lí giúp cho học sinh lĩnh hội được những tri thức đó, đồng thời phát triển tư duy của học sinh, nhất là tư duy logic. Trong giai đoạn hiện nay, việc tiến hành giảng dạy một khối lượng kiến thức lớn đến học sinh một cách có hiệu quả thì việc phân tích tính hệ thống cũng như đảm bảo tính hệ thống về kiến thức trong SGK Địa lí 10 là một điều hết sức cần thiết. Qua việc phân tích tính hệ thống trong SGK, giáo viên có thể tự tin chuyển tải các kiến thức theo từng chương, từng bài, đồng thời giúp học sinh phát triển tư duy qua hệ thống bài đó. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2 Bài viết này mong muốn đóng góp ý kiến nhỏ trong việc giảng dạy bộ môn Địa lý ở trường THPT và cung cấp những nguyên tắc cơ bản đảm bảo tính hệ thống nhằm phát triển tư duy cho học sinh. 3. Đối tượng nghiên cứu Học sinh lớp 10 một số trường THPT ở tỉnh Đồng Nai 4. Phương pháp nghiên cứu  Sưu tầm, tổng hợp tài liệu, nghiên cứu sách giáo khoa địa lí THPT và một số tài liệu liên quan.  Liên hệ thực tế, tìm ra các giải pháp phát triển tư duy cho học sinh.  Thực nghiệm: tiến hành giảng dạy, kiểm tra mức độ so sánh sự hứng thú tiếp thu bài của học sinh.  Trong đề tài có sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, tổng hợp tài liệu, điều tra thực tế… 5. Phạm vi nghiên cứu và ứng dụng  Chương trình địa lí phổ thông nhưng trong đề tài giới hạn trong khối 10.  Ứng dụng nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống vào các bài học trong chương trình địa lí phổ thông và các hoạt động sinh hoạt ngoại khóa trong trường học.  Sáng kiến chỉ dừng lại ở mức khái quát, không đi sâu vào từng bài cụ thể, ở đây chỉ minh họa vài bài trong chương trình địa lí 10. 6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu  Hướng tiếp cận: Phân tích tính hệ thống trong chương trình địa lý 10 và mối quan hệ của nó với chương trình THCS và địa lí 11, 12.  Phân tích tác động của phương pháp giảng dạy đảm bảo nguyên tắc hệ thống đối với việc phát triển tư duy học sinh, nhất là tư duy logic.  Đưa ra các dẫn chứng cụ thể, những ứng dụng trong việc giảng dạy môn Địa lí nhằm đảm bảo tính hệ thống. 3  Xây dựng một số giáo án nhằm ứng dụng trong thực nghiệm theo xu hướng đảm bảo tính hệ thống trong hoạt động dạy học, bước đầu đạt được một số kết quả. 7. Cấu trúc của đề tài Đề tài gồm 3 phần Phần mở đầu Phần nội dung Phần kết luận Tài liệu tham khảo 4 PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận 1.1. Hệ thống khoa học Địa lí Theo GS Vũ Tự Lập ,khoa học Địa lí bắt đầu từ thời cổ đại với các công trình của Hérodote công bố vào năm 456 TCN, mặc dù những hiểu biết về Địa lí đã có từ hàng ngàn năm trước Công nguyên. Hérodote (485 – 425 TCN), lần đầu tiên đã cho ra đời những tập thông tin có tổ chức về nhiều mặt, khi ông mô tả các vùng đất và biển mà ông đã đi qua ở biển Đen, Địa Trung Hải, Ai Cập, Tiểu Á và Lưỡng Hà. Trong thế kỷ thứ V TCN cũng đã có những khái niệm về một Trái Đất hình tròn (trường phái Pythagore). Vào thế kỷ II TCN Eratoxten cũng đã chú ý đến việc đo đạc Trái Đất, việc xác định phương hướng và vị trí địa lí, đồng thời mô tả khí quyển, thạch quyển khiến cho địa lí mang tính định lượng, sử dụng toán học, thiên văn học. Đến đầu Công nguyên, vào khoảng năm 58 TCN đến năm 25 SCN, Strabong lại chuyển sang nghiên cứu địa lí nhân văn, chú ý đến các dân tộc và chiều dài của lịch sử. Vào thế kỷ thứ 2 SCN, khoa học Địa lí đã có bước thụt lùi với các công trình của Ptoleme (90 – 168 SCN) khi ông đưa ra thuyết “Địa tâm” – Trái đất là trung tâm của thế giới và là một vật thể tĩnh, đứng yên và không quay. Học thuyết của ông được Giáo hội ủng hộ và trở thành kinh viện trong suốt thời kỳ Trung cổ. Bản đồ cổ nhất thế giới được lưu giữ là một bản đồ bằng đất nung rất nhỏ có tuổi khoảng 2500 TCN, tìm thấy khi khai quật thành phố cổ Gasua, cách Babilon 200 dặm về phía Bắc. Hai nhà bản đồ kiêm địa lí sớm nhất là Anaximandre (610 – 547 TCN) và He1catée (thế kỷ VI TCN). Phần lớn các tập bản đồ thời cổ Hi Lạp được kèm theo các công trình của Hérodote và Strabong. Sang thời kỳ trung cổ, ảnh hưởng khắc nghiệt của Giáo hội chủ yếu diễn ra ở Châu Âu, các công trình của nền văn minh Hi Lạp đều bị phủ định, cấm đoán và lãng quên. Tòa án Giáo hội sẵn sàng xử phạt những nhà khoa học nói 5 những điều không phù hợp với kinh thánh, đối với Địa lí đó là sự phủ nhật Trái đất hình cầu, coi Trái đất là mặt phẳng hay dạng cái dĩa. Thời kì Phục hưng đánh dấu bởi các phát kiến địa lí vĩ đại của Christophe Colomb (1451 – 1506) tìm ra châu Mỹ. Đại phát kiến địa lí thứ 2 là chuyến đi vòng quanh châu Phi qua mũi Hảo Vọng để đến Ấn Độ do Vasco de Gama (1469 – 1524) – một người Bồ Đào Nha thực hiện vào năm 1498. Đại phát kiến thứ 3 là chuyến đi vòng quanh thế giới trong 3 năm (1519 – 1522) của một người Bồ Đào Nha làm việc cho vua Tây Ban Nha, Magiellan (1470 – 1521). Sang thời kì tiền Tư bản chủ nghĩa (thế kỷ XVII – XVIII) và thời kỳ tư bản chủ nghĩa đánh dấu bộ môn Địa lí được đưa vào giảng dạy ngày càng nhiều tại các trường đại học. Sự phát triển giáo dục và đào tạo Địa lí khởi đầu từ Đức , là ngọn cờ đầu của Địa lí thế kỷ XIX, sau đó đến Pháp và các nước châu Âu khác, còn Anh và Mỹ thì chậm hơn một chút. Trường đại học nổi tiếng về Địa lí là trường đại học Tổng hợp Berlin mà ở đó có Humbon – một nhà khoa học nổi tiếng thế giới đã có nhiều công trình viết về Địa lí, đã từng giảng dạy và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc. Trong thế kỷ XIX, thế mạnh thuộc về các khoa học Địa lí tự nhiên, vì thế Địa lí được xếp chung vào khoa học tự nhiên. Điều này được lí giải vì để phát triển kinh tế chưa biết về tự nhiên thì phải đặt việc nắm bắt các điều kiện tự nhiên là nhiệm vụ ưu tiên. Địa lí kinh tế hình thành chậm hơn vào cuối thế kỷ XIX. Kích thích sự ra đời của Địa lí kinh tế là sự phân công lao động trên lãnh thổ trong sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, là sự phát triển của thống kê học và của học thuyết về sự định vị các ngành sản xuất vì nghiên cứu phân bố không gian và mô tả thống kê là các xu hướng chính của Địa lí kinh tế. Sự phân ngành Địa lí dần dần bộc lộ những nhược điểm khi các công trình phát triển kinh tế xã hội hoặc cải tạo tự nhiên ở quy mô lớn. Tất cả các nhà nghiên cứu Địa lí nổi tiếng trong thế kỷ XIX có thể tập trung theo 3 khuynh hướng chính đó là khuynh hướng nghiên cứu vùng, nghiên cứu quan hệ con người – môi trường Địa lí và khuynh hướng nghiên cứu cảnh quan. 6 Trong nửa đầu thế kỷ XX, khoa học Địa lí không nổi bật như trong thế kỷ XIX. Bước vào thế kỷ XX, hầu như mọi nơi trên Trái đất đều đã được tìm hiểu, không còn sự thu hút của các đại phát kiến địa lý. Bản thân khoa học Địa lí vẫn thiên về khoa học tự nhiên tuy có chú ý đến tự nhiên và xã hội con người. Trong khi đó vào thế kỷ XX, các nhà khoa học xã hội lại phát triển mạnh, đáp ứng các nhu cầu thực tiễn ngày càng đa dạng và thay đổi nhanh chóng của xã hội, còn các yếu tố tự nhiên thì ít thay đổi, cho nên các nhà Địa lí buộc phải tìm hiểu và vận dụng các thành tựu mới của khoa học xã hội nhân văn như kinh tế học, xã hội học, dân tộc học. Trong sự lúng túng chung ấy thì giải pháp tình thế là xây dựng các trường phái theo quốc gia, căn cứ vào đặc điểm tự nhiên và nhu cầu riêng trong sự phát triển kinh tế - xã hội tại mỗi nước mà tìm hướng cho thích hợp. Trường phái Địa lí Pháp được hình thành sớm nhất lấy sự phân hóa theo không gian theo vùng làm nền tảng. Người thầy vĩ đại của Địa lí Pháp là Vidal de la Blache. Trường phái Địa lí Đức hình thành muộn hơn, trong số các bộ môn thì cảnh quan học độc đáo hơn cả, có ảnh hưởng sâu rộng đến cả trong và ngoài nước, vì vậy có thể coi trường phái cảnh quan là đặc trưng cơ bản trường phái này. Trường phái Địa lí Nga cũng là một trường phái mạnh ngay từ cuối thế kỷ với khuynh hướng cảnh quan là chính và Địa lí Nga cũng du nhập thuật ngữ cảnh quan (landschaft) của trường phái Địa lí Đức. Tuy nhiên, trường phái Nga cũng có những tính cách riêng đó là sự phân biệt rõ giữa Địa lí tự nhiên và Địa lí kinh tế, thiên về Địa lí tổng hợp, nghiên cứu các tổng hợp thể lãnh thổ tự nhiên và các tổng hợp thể lãnh thổ sản xuất, có chỉ tiêu và ranh giới coi như rõ rệt. Khác với phần lớn các nước Tây Âu và Bắc Mỹ theo trường phái địa lí thống nhất tự nhiên và kinh tế xã hội. Về Địa lí tự nhiên nổi tiếng có Docudaep (1846 – 1903), về Địa lí kinh tế có N.N Baranxki (1881 – 1963) và Kolosopki (1891 – 1954). 7 Trường phái Địa lí Mỹ, do hoàn cảnh lịch sử hình thành rất muộn nhưng lại phát triển rất nhanh, nổi tiếng qua các nhà Địa lí tiêu biểu: R. Hartshorene, O.E Backer, C.D Sauer…Ngoài các trường phái kể trên không quốc gia nào có trường phái Địa lí rõ rệt. Đa số đều chịu ảnh hưởng của các trường phái Địa lí trên. Vì vậy, Địa lí từ một khoa học thiên về tự nhiên trong nhiều thế kỷ (thế kỷ XVII – nửa đầu thế kỷ XX) đã trở thành một khoa học thiên về khoa học xã hội. Sự biến đổi ấy đã làm cho Địa lí cuối thế kỷ XX thâm nhập vào cuộc sống của mọi người, được mọi người cần đến, từ những nhà chiến lược toàn cầu, khu vực quốc gia đến địa phương cho tới nhà doanh nghiệp hay một người muốn đi du lịch, nghỉ ngơi, giải trí. Lịch sử khoa học Địa lí là một quá trình với những phát kiến vĩ đại, thăng trầm. Tuy nhiên, mỗi giai đoạn đều chứa đựng những di sản quý báu của quá khứ, làm cho Địa lí học được củng cố, giữ vững vị trí của mình trong toàn bộ hệ thống các ngành khoa học phong phú và đa dạng. Như vậy, có rất nhiều trường phái địa lí đã được đặt ra. Quan điểm nào đúng, quan điểm nào sai đến nay chúng ta vẫn chưa có câu trả lời. Tuy nhiên, ở Việt Nam xét về hệ thống khoa học Địa lí đến nay chúng ta vẫn kế thừa tư tưởng hệ thống khoa học Địa lí theo trường phái Nga bao gồm 2 nhóm: Địa lí tự nhiên và Địa lí kinh tế xã hội. Nhưng trong chương trình địa lí phổ thông, các tư tưởng Địa lí được đan xen, kết hợp với nhau bao gồm cả trường phái Nga và trường phái phương Tây. 1.2. Hệ thống tri thức Địa lí trong nhà trường phổ thông Các tri thức Địa lí trong nhà trường phổ thông bao gồm một hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo Địa lí được lựa chọn trong hệ thống tri thức khoa học Địa lí và được sắp xếp theo một trình tự nhất định nhằm cung cấp nội dung học vấn và giáo dục học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường phổ thông. Hệ thống tri thức Địa lí được lựa chọn để đưa vào chương trình học trong nhà trường phổ thông phải là những vấn đề cơ bản nhất, được hiểu là những tri 8 thức thuộc khoa học Địa lí quan trọng nhất, cần thiết nhất giúp cho người học sinh có thể tiếp tục học tập và tham gia vào cuộc sống hiện tại và tương lai.  Các kiến thức Địa lí: Là thành phần chủ yếu của nội dung học vấn Địa lí, phân thành 2 nhóm: các kiến thức thực tiễn (kinh nghiệm) và các lý thuyết. - Các kiến thức thực tiễn (kinh nghiệm): Là những kiến thức phản ánh những đặc điểm bên ngoài của sự vật, hiện tượng Địa lí mà học sinh có thể nhận thức được một cách dễ dàng bằng con đường kinh nghiệm, bao gồm: số liệu, sự kiện, biểu tượng và các mô hình sáng tạo Địa lí. + Các số liệu và sự kiện trong Địa lí: đa dạng và phong phú. Đó là những kiến thức phản ánh thông tin về các đặc điểm của các sự vật, hiện tượng Địa lí. Chẳng hạn như: Các số liệu về dân cư, về độ dài của các con sông, bảng thống kê sản phẩm của các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp… Vai trò chủ yếu của các số liệu và sự kiện Địa lí là làm cơ sở để minh họa, dẫn chứng để khái quát các kiến thức Địa lí lý thuyết. + Các biểu tượng Địa lí: Là những hình ảnh về các sự vật, hiện tượng Địa lí được tri giác, phản ánh vào trong ý thức được giữ lại trong trí nhớ và có khả năng tái tạo theo ý muốn. Chẳng hạn như: một con sông ở đầu làng, một bãi biển quê hương, chúng cũng có thể phản ánh những đối tượng Địa lí và lãnh thổ mà các em chưa bao giờ thấy: dãy núi An pơ ở Châu Âu, hoang mạc Sahara ở Châu Phi… + Mô hình sáng tạo: Là những mẫu vật cụ thể của việc vận dụng các tri thức Địa lí vào thực tiễn (nghiên cứu, học tập, đời sống). Vai trò của mô hình sáng tạo có ý nghĩa trực quan và thực tiễn giúp cho học sinh hiểu được cách làm, vận dụng tri thức, mặt khác cũng khơi gợi cho học sinh tư duy sáng tạo…  Các kiến thức lí thuyết: Là những kiến thức được khái quát hóa, phản ánh bản chất của sự vật, hiện tượng Địa lí với các đặc điểm và mối quan hệ bên trong chúng, bao gồm: các khái niệm Địa lí, các mối quan hệ nhân quả, các quy luật, các thuyết, các tư tưởng, các vấn đề phương pháp luận của Địa lí học, các kiến thức về phương pháp học tập và nghiên cứu Địa lí… 9 - Các khái niệm Địa lí: Là sự phản ánh trong tư duy những sự vật, hiện tượng Địa lí đã được trừu tượng hóa và khái quát hóa, dựa vào các dấu hiệu bản chất sau khi đã tiến hành các thao tác tư duy (so sánh, phân tích, tổng hợp), gồm 3 nhóm: Khái niệm Địa lí chung, khái niệm Địa lí riêng và khái niệm Địa lí tập hợp. + Các khái niệm Địa lí chung: Là những khái niệm được hình thành để chỉ toàn bộ các sự vật hiện tượng Địa lí cùng loại, có những thuộc tính giống nhau: sông, biển, núi… + Các khái niệm Địa lí riêng: Là khái niệm chỉ những sự vật, hiện tượng Địa lí riêng biệt, ví dụ: Sông Hồng, núi Chứa Chan, Thành phố Biên Hòa… + Các khái niệm Địa lí tập hợp: Là những khái niệm Địa lí trung gian giữa các khái niệm Địa lí chung và Địa lí riêng. Ví dụ: “sông” là khái niệm Địa lí chung, sông Hồng là khái niệm Địa lí riêng, “sông Châu Âu”, “sông Châu Á” là khái niệm Địa lí tập hợp. - Các mối nhân quả Địa lí: Là những mối quan hệ biểu hiện tương quan phụ thuộc một chiều giữa các sự vật hiện tượng và quá trình Địa lí. Các mối quan hệ nhân quả có thể chia ra:  Các mối quan hệ nhân quả đơn giản và mối quan hệ nhân quả phức tạp.  Các mối quan hệ trực tiếp và mối quan hệ nhân quả gián tiếp. - Các quy luật Địa lí: Là những kiến thức được khái quát hóa biểu hiện các mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng và quá trình Địa lí có bản chất cố định. Ví dụ: quy luật địa đới, phi địa đới… - Các thuyết, tư tưởng và quan điểm địa lý: Là những kiến thức hoặc hệ thống kiến thức có liên quan đến Địa lí được tập hợp và sắp xếp theo một cách nhìn, cách suy nghĩ nhất định. Ví dụ: Quan điểm địa sinh thái, quan điểm kinh tế, thuyết kiến tạo mảng… - Các kiến thức về phương pháp học tập và nghiên cứu Địa lí: Là một bộ phận không thể thiếu trong nội dung môn học Địa lí ở nhà trường phổ thông. Chúng là cơ sở để hình thành kỹ năng. Nếu như không có kiến thức này thì học 10 sinh không có khả năng tự học cũng như vận dụng tri thức vào việc tìm tòi, nghiên cứu các vấn đề. Các kỹ năng, kỹ sảo Địa lý: Là phương thức thực hiện một hành động  nào đó thích hợp với mục đích và những điều kiện hành động. Kỹ năng, kỹ sảo Địa lí thực chất là những hành động thực tiễn mà học sinh hoàn thành một cách có ý thức trên cơ sở kiến thức Địa lí của họ. Kỹ năng được lặp lại nhiều lần trở thành kỹ sảo, gồm 4 hướng sau: - Kỹ năng làm việc với bản đồ, khai thác kiến thức Địa lí từ bản đồ: xác định tọa độ Địa lí, xác định vị trí đối tượng trên bản đồ, đọc bản đồ và sử dụng bản đồ. - Kỹ năng khảo sát các đối tượng Địa lí ngoài thực địa: gồm kỹ năng quan sát, phân tích hiện tượng, đo đạc với các dụng cụ quan trắc đơn giản về thời tiết và thổ nhưỡng… - Kỹ năng nghiên cứu và làm việc với các tài liệu Địa lí: Lập các biểu đồ, phân tích số liệu thống kê, mô hình, lát cắt… - Kỹ năng học tập, nghiên cứu Địa lí: làm việc với SGK Địa lí, tài liệu tham khảo, viết và trình bày những vấn đề Địa lí… 1.3. Đảm bảo tính hệ thống trong việc dạy học môn Địa lí trong nhà trường phổ thông Tính hệ thống là dấu hiệu đặc trưng của tri thức khoa học, khi xét đến nguyên tắc này, ta thấy nó yêu cầu đảm bảo không chỉ đối với nội dung dạy học mà còn có ý nghĩa đối với việc lĩnh hội tri thức của học sinh. Tất nhiên, hệ thống tri thức này không nhất thiết phải phản ánh hoàn toàn đúng thực tế của hệ thống khoa học Địa lí, bởi vì chương trình học cũng giống như SGK ở trường phổ thông còn phụ thuộc vào một số yêu cầu nữa về mặt Sư Phạm, nhưng về cơ bản nó vẫn phù hợp với logic của khoa học Địa lí. Chẳng hạn như: Địa lí đại cương được học trước Địa lí khu vực, Địa lí tự nhiên được học trước Địa lí kinh tế xã hội… 11 Giáo viên cần phải quan tâm đến việc nghiên cứu chương trình và SGK không chỉ ở lớp mình, cấp mình đang dạy mà cả ở những cấp, những lớp khác có liên quan. Có như vậy mới thấy được vị trí của giáo trình mình phụ trách trong toàn bộ hệ thống tri thức ở nhà trường phổ thông, mới thấy hết mối liên hệ của nó với các giáo trình khác. Ngoài ra, giáo viên Địa lí cũng còn phải chú ý tìm hiểu các mối quan hệ liên môn, bởi vì trong khi xây dựng chương trình những mối quan hệ liên môn cũng đã được cân nhắc để quy định thứ tự sắp xếp các môn học trong kế hoạch dạy học ở trường phổ thông. Điều đó có nghĩa là mỗi môn học đều có những quan hệ về mặt tri thức với các môn học khác, dựa vào các môn đó và phục vụ cho các môn đó. Địa lí là môn học có nhiều tri thức liên quan đến các môn toán, sinh, lý, lịch sử, kinh tế…Do đó, việc nghiên cứu hệ thống tri thức của môn Địa lí không thể tách rời khỏi việc nghiên cứu các mối quan hệ liên môn này. 1.4. Đặc điểm tâm lí và quá trình phát triển tư duy học sinh THPT Một trong hai quá trình của nhận thức lý tính là tư duy. Tư duy là quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bên trong thuộc về bản chất, những liên hệ và quan hệ có tính quy luật của sự vật và hiện tượng trong thực tại khách quan, dẫn tới tri thức mới. Trong cuộc sống con người phải giải quyết nhiều vấn đề có nội dung và giá trị khác nhau. Tương ứng với những hoạt động đó tư duy của con người có thể là tư duy hành động trực quan hay tư duy hình ảnh trực quan hoặc tư duy logic trừu tượng. Người trưởng thành thường sử dụng cùng lúc các loại tư duy khác nhau, trong hoạt động thực tế, cả 3 dạng tư duy liên hệ tương hỗ và bổ sung cho nhau. Tuy nhiên, các đặc tính riêng của cá nhân, sự phát triển của ngôn ngữ, trí tưởng tượng, mức độ nắm vững các thao tác tư duy… đều ảnh hưởng tới việc cá nhân đó thiên về loại tư duy nào hơn. 12 1.4.1. Đặc điểm tâm lí lứa tuổi THPT Trong tâm lí học, lứa tuổi người ta định nghĩa tuổi thanh niên là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc vào tuổi người lớn. Đối với đa số thanh niên thì tuổi thanh niên là thời kỳ từ 14 – 15 tuổi đến 25 tuổi, chia làm 2 thời kỳ: - Từ 14 – 15 tuổi đến 17 – 18 tuổi: giai đoạn đầu tuổi thanh niên (thanh niên mới lớn, học sinh). - Từ 17 – 18 tuổi đến 25 tuổi: Giai đoạn hai của tuổi thanh niên. Như vậy lứa tuổi THPT thuộc giai đoạn đầu của tuổi thanh niên. Về đặc điểm cơ thể, đây là thời kỳ phát triển tương đối êm ả về mặt sinh lý. Các em gái đạt được sự tăng trưởng của mình trung bình vào khoảng 16 – 17 tuổi, các em trai khoảng 17 – 18 tuổi. Sự phát triển thần kinh có thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng của não phát triển. Nhìn chung, đây là lứa tuổi các em có cơ thể phát triển cân đối, khỏe, đẹp. Đa số các em có thể đạt được những khả năng phát triển về cơ thể như người lớn. Vai trò xã hội và hứng thú của thanh niên không chỉ mở rộng về số lượng và phạm vi mà còn biến đổi cả về chất lượng. Ở gia đình, thanh niên đã có những quyền lợi và trách nhiệm của người lớn.  Đặc điểm hoạt động học tập Sự khác nhau cơ bản ở chỗ là không phải nội dung học tập ngày càng sâu sắc hơn mà ở chỗ hoạt động của thanh niên và học sinh đòi hỏi tính năng động và tính độc lập ở mức độ cao hơn, muốn nắm vững chương trình một cách sâu sắc thì cần phải phát triển tư duy lí luận. Học sinh càng trưởng thành, kinh nghiệm càng phong phú, các em càng ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng của cuộc đời. Do vậy, thái độ ý thức của các em ngày càng phát triển. Thái độ của học sinh đối với môn học trở nên có sự lựa chọn hơn, các em đã hình thành những hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp. 13 Lúc này động cơ thúc đẩy học tập là động cơ thực tiễn (ý nghĩa thực tiễn của các môn học đối với cá nhân, khả năng tiếp thu môn học của các em).  Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ Ở tuổi thanh niên, học sinh ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, đồng thời vai trò của ghi nhớ logic trừu tượng, ghi nhớ ý nghĩa ngày càng tăng lên rõ rệt, đặc biệt các em đã tạo được tâm thế phân hóa trong ghi nhớ. Các em biết tài liệu nào cần ghi nhớ từng câu, từng chữ, cái gì cần hiểu mà không cần nhớ…Nhưng một số em còn ghi nhớ máy móc, chung chung và còn đánh giá thấp việc ôn tập tài liệu. Do cấu trúc của não khá phức tạp và chức năng của não phát triển, do sự phát triển của quá trình nhận thức và ảnh hưởng của các hoạt động học tập mà hoạt động tư duy của thanh niên và học sinh có sự thay đổi quan trọng. Đó chính là khả năng tư duy lí luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập và sáng tạo đối với những đối tượng quen biết đã được học hoặc chưa được học ở trường. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất quán hơn. Đồng thời tính phê phán của tư duy cũng phát triển. Những đặc điểm đó điều kiện cho các em thực hiện các thao tác tư duy toán học phức tạp, phân tích nội dung cơ bản của khái niệm trừu tượng và nắm được mối quan hệ nhân quả trong tự nhiên và trong xã hội. Đó chính là cơ sở để hình thành thế giới quan. Tuy nhiên hiện nay số học sinh THPT đạt được mức tư duy đặc trưng cho lứa tuổi như đã nêu trên còn chưa nhiều. Việc giúp các em phát triển khả năng nhận thức là một nhiệm vụ quan trọng của giáo viên. Như vậy, ở tuổi thanh niên mới lớn, những đặc điểm chung của con người về mặt trí tuệ thông thường đã được hình thành và chúng vẫn còn tiếp tục hoàn thiện. 1.4.2. Quá trình phát triển tư duy của học sinh lớp 10 Lớp 10 là giai đoạn chuyển tiếp từ lứa tuổi thiếu niên (độ tuổi 11, 12 đến 14, 15 tuổi) sang lứa tuổi thanh niên (14, 15 đến 17, 18 tuổi). Đây là giai đoạn đánh dấu sự chuyển biến về sự phát triển nhân cách. Nhân cách đang trong giai 14 đoạn được định hình: sự phát triển trong đới sống nội tâm, ý thức rõ rệt hơn về cái tôi. Lớp 10 là lớp đầu tiên của bậc học THPT, đây là năm xây dựng các kiến thức nền cơ bản cho bậc học sau này, nhưng đồng thời cũng ôn lại các kiến thức đã được giảng dạy trong bậc học THCS. Chính vì vậy, các kiến thức được được giảng dạy trong lớp 10 đa số là kiến thức chung. Trong độ tuổi này, các em cũng đang phát triển về tư duy, trí não phát triển giúp quá trình tư duy của các em được nâng lên nhiều. Bên cạnh đó, trong giai đoạn này việc hình thành thế giới quan, hệ thống quan điểm về xã hội, về tự nhiên, về các quy tắc cư xử dần dần xuất hiện. Trong giai đoạn này, nhân cách được phát triển tương đối cao thì các em mới có xuất hiện những nhu cầu đưa các tiêu chuẩn, nguyên tắc đó vào một hệ thống hoàn chỉnh. Và khi đó đã đưa vào một hệ thống quan điểm riêng thì độ tuổi này không chỉ hiểu về thế giới quan mà còn đánh giá được nó, xác định được thái độ của mình với nó nữa. Một nhu cầu nữa ảnh hưởng đến sự phát triển tư duy của học sinh của lứa tuổi này chính là nhu cầu giao tiếp. Từ lớp 9 chuyển sang lớp 10, thay đổi về môi trường học, thay đổi về bạn bè, nhu cầu giao tiếp trong đám bạn là điều đáng quan tâm. Đây là lứa tuổi mang tính chất tập thể nhất. Điều quan trọng đối với các em là được sinh hoạt với các bạn cùng lứa tuổi. Chính vì vậy, trong công tác giáo dục cũng cần phải chú ý ảnh hưởng của nhóm, hội trong nhà trường. Trong độ tuổi này, giáo viên phải biết cách xây dựng các hoạt động đa dạng, phong phú, hấp dẫn lôi cuốn thanh niên tham gia để phát triển nhân cách một cách lành mạnh, đúng đắn. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng tác động đến ý thức của học sinh. Và điều cần thiết nhất trong lứa tuổi này là trong tiết dạy của mình, giáo viên phải biết phát huy khả năng sáng tạo của học sinh, phát triển tư duy lí luận và tư duy trừu tượng. Làm được điều đó, bài học mới đảm bảo các yêu cầu và mục tiêu đề ra. 15 1.4.3. Tìm hiểu việc đảm bảo tính hệ thống trong hoạt động dạy học Địa lí tại một số trường THPT ở Đồng Nai hiện nay Bắt đầu từ năm học 2006 – 2007 là năm đầu tiên bộ sách giáo khoa Địa lí 10 được đưa vào giảng dạy chính thức, và đã thực hiện được 6 năm. Tất cả các trường đều thực hiện đúng phân phối chương trình của Bộ giáo dục đào tạo đề ra là 2 tiết/tuần ở học kỳ I và 1 tiết/tuần ở học kỳ II. Các phương pháp dạy học tích cực đều được đưa vào áp dụng tại các trường và mang lại nhiều hiệu quả nhất định. Vấn đề đảm bảo tính hệ thống trong hoạt động dạy và học cũng được đặt ra bởi chương trình mới như thế cùng với phương pháp mới liệu giáo viên có đảm bảo được tính hệ thống không? Do điều kiện có hạn, việc khảo sát thực trạng trên chỉ được thực hiện tại 3 trường của Đồng Nai: THPT Long Khánh, THPT DL Văn Hiến và THPT TT Trương Vĩnh Ký. Qua tìm hiểu, có một số vấn đề về hoạt động dạy và học đảm bảo tính hệ thống cần lưu tâm như sau:  Trường THPT Long Khánh Đây là ngôi trường lớn trong tỉnh Đồng Nai, nhiều năm liền đào tạo được đội ngũ học sinh có chất lượng cao. Học sinh chia làm hai ban cơ bản là A và D tương ứng với hai khối thi đại học chủ yếu. Khi bước vào lớp 10, học sinh đã bắt đầu học các môn theo khối thi đại học và thời lượng các môn tùy thuộc vào từng khối thi. Tất cả các em đều học sách Địa lí 10 cơ bản. - Về phương pháp: Các thầy cô trong tổ bộ môn rất chú trọng dạy học theo phương pháp mới - lấy học sinh làm trung tâm, phát triển tư duy cho học sinh là vấn đề các thầy cô trong tổ bộ môn quan tâm. - Về hình thức tổ chức hoạt động trên lớp: Học sinh đóng vai trò trung tâm, giáo viên là người hướng dẫn khai thác thi thức, việc sử dụng kênh hình, hệ thống câu hỏi trong bài học được giáo viên sử dụng triệt để. Hoạt động 16 nhóm các em thực hiện khá tốt, qua hoạt động này các em phát huy được tính đồng đội rất cao. - Về thái độ họ tập của học sinh: Các em nhiệt tình tham gia hoạt động trên lớp học, đối với các câu hỏi khó, cần yêu cầu tư duy thì các em đều chịu khó tìm hiểu và chủ động phát biểu. Trong các hoạt động giao việc về nhà sưu tầm tài liệu, làm bài thuyết trình trước lớp cũng được các em tích cực hưởng ứng.  Trường THPT DL Văn Hiến Đây là ngôi trường dân lập thành lập đầu tiên ở tỉnh Đồng Nai, chất lượng khá tốt, trường không thực hiện chia lớp theo phân ban như trường THPT Long Khánh, các em đều học chương trình cơ bản. - Về phương pháp: Các thầy cô trong tổ bộ môn vận dụng cả phương pháp truyền thống và phương pháp tích cực. Nội dung bám sát sách giáo khoa. - Về hình thức tổ chức hoạt động trên lớp: Hoạt động theo cá nhân, nhóm/cặp được học sinh thực hiện nhằm khai thác tri thức trong bài học. Tuy nhiên, hoạt động thảo luận nhóm vẫn chưa thật sự đạt nhiều hiệu quả. Hệ thống kênh hình, sơ đồ vẫn chưa khai thác triệt để. - Về thái độ họ tập của học sinh: Các em tích cực trong giờ lên lớp, tích cực xây dựng bài. Nhưng hoạt động tìm hiểu và thuyết trình trước lớp thì chưa nhiều.  Trường THPT TT Trương Vĩnh Ký Đây là ngôi trường tư thục thành lập cách đây 11 năm, hiện nay số lượng lớp cũng khá lớn: 40 lớp, các em đều học chương trình cơ bản. - Về phương pháp: Phương pháp học tập theo hướng tích cực cũng được thực hiện , hệ thống câu hỏi, kênh hình, kênh chữ được giáo viên quan tâm. Tuy nhiên, do đặc thù của học sinh trường là đầu vào không cao lắm nên phương pháp giáo viên thực hiện chủ yếu là diễn giảng. Các phương pháp mới là cặp/nhóm rất khó thực hiện. 17 - Về hình thức tổ chức hoạt động trên lớp: Giáo viên hầu như vẫn giữ vai trò trung tâm, học sinh ít tham gia phát biểu trong giờ học. Hệ thống theo bài và theo chương khó thực hiện, các hoạt động tự học và dạy học theo nhóm rất ít. - Về thái độ họ tập của học sinh: Các em ít tham gia vào bài học, chỉ vài cá nhân tham gia xây dựng bài, như vậy việc nắm bắt kiến thức có hệ thống rất khó thực hiện. Trên đây là vài nhận định về hoạt động dạy và học đảm bảo tính hệ thống tại 3 trường THPT trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, nhận định trên chỉ là bước đầu đưa ra các thuận lợi và khó khăn của các trường. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện từng trường mà việc dạy và học có sự khác biệt. Vấn đề nêu ra là một chương trình mới và người giáo viên cần phải thực hiện những gì để đảm bảo hoạt động dạy học theo tính hệ thống? 2. Tìm hiểu và vận dụng nguyên tắc hệ thống bảo đảm tính hệ thống nhằm phát triển tư duy cho học sinh trong dạy học Địa lí 10 2.1. Tổng quan về kiến thức trong SGK Địa lí 10 Chương trình THPT môn Địa lí được Bộ trưởng Bộ giáo dục ban hành là một bộ phận quan trọng trong tổng thể chương trình môn Địa lí ở trường phổ thông. Chương trình Địa lí ở trường phổ thông được thiết kế theo kiểu đồng tâm với ba khối kiến thức cơ bản chủ yếu về địa lí đại cương (tự nhiên và kinh tế xã hội đại cương), Địa lí thế giới (khu vực và các nước), Địa lí tổ quốc (tự nhiên và kinh tế xã hội). Các kiến thức này bắt đầu được đưa vào từ bậc tiểu học (chủ yếu trong môn tự nhiên và xã hội) dưới dạng đơn giản rồi trở thành môn độc lập ở bậc THCS và được hoàn thiện ở bậc THPT. Do đó, chương trình Địa lí 10 là một phần của chương trình Địa lí THPT, một mặt có sự kế thừa, nâng cao các kiến thức đã có ở bậc THCS, mặt khác là tiền đề để trang bị các kiến thức tiếp theo ở lớp 11, 12. 18 Chương trình Địa lí 10 bao gồm chương trình cơ bản và chương trình nâng cao. Giữa hai chương trình này có sự chênh lệch về thời lượng kiến thức nhưng không đáng kể như chương trình phân ban và được triển khai vào thập niên 90 của thế kỷ XX.  Về kiến thức: Chương trình Địa lí 10 cơ bản được cấu tạo bởi hai phần kiến thức: Địa lí tự nhiên đại cương và kinh tế xã hội đại cương. * Phần tự nhiên đại cương: chiếm ½ thời lượng chương trình. Bộ khung kiến thức cốt lõi được thiết kế bao gồm: - Bản đồ - Vũ trụ - Hệ quả chuyển động của Trái đất. - Cấu trúc của Trái đất – các quyển của lớp vỏ địa lí. - Một số qui luật của lớp vỏ địa lí. * Phần địa lí kinh tế xã hội đại cương: chiếm ½ thời lượng chương trình. Bộ khung kiến thức cốt lõi được thiết kế bao gồm: - Địa lí dân cư - Cơ cấu nền kinh tế - Địa lí nông nghiệp - Địa lí công nghiệp - Địa lí dịch vụ - Môi trường và sự phát triển bền vững.  Về mặt trình tự thực hiện: trước hết là phần Địa lí tự nhiên đại cương sau đó đến địa lí kinh tế xã hội.  Về nội dung chương trình: So với chương trình Địa lí 10 đại trà (từ năm 2005 -2006 trở về trước), chương trình này hoàn thiện hơn, khoa học hơn, cập nhật hơn. Thể hiện ở các vấn đề sau: 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan