Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Skkn vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 ...

Tài liệu Skkn vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5

.DOC
27
2488
134

Mô tả:

Đề tài: Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 MUÏC LUÏC STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 NỘI DUNG I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 3. Đối tượng nghiên cứu 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận 2. Thực trạng 2.1 Thuận lợi, khó khăn 2.2 Thành công, hạn chế 2.3 Mặt mạnh, mặt yếu 2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động 2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trang mà đề tài đã TRANG 1 2 2 3 3 3 3 4 4 4 4 5 6 7 7 16 17 18 19 20 21 22 đặt ra. 3.Giải pháp, biện pháp 3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp 3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp 3.3 Điều kiện để thực hiện giải pháp biện pháp 3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp 3.5 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu 4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề 9 9 9 21 21 21 22 23 24 25 26 nghiên cứu. III.PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận 2. Kiến nghị IV.TÀI LIỆU THAM KHẢO 23 23 23 27 MUÏC LUÏC I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Giáo dục ngày nay được coi là nền móng của sự phát triển của xã hội. Giáo dục gắn với sự phát triển kinh tế, con người, theo suốt chiều dài lịch sử, hay nói cách khác có thể coi giáo dục chính là sự phát triển. Có thể khẳng định rằng không có giáo dục thì không có bất cứ sự phát triển nào đối với con người, đối với kinh tế, văn hoá. Chính nhờ giáo dục mà các di sản tư tưởng và kỹ thuật của thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau. Các di sản này Vũ Thị Oanh – Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai -1- Đề tài: Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 được tích luỹ càng phong phú làm cho xã hội càng phát triển. Chính với tinh thần đặc biệt coi trọng vai trò của Giáo dục và Đào tạo trong sự nghiệp Công nghiệp hóa Hiện đại hóa đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ vai trò quốc sách hàng đầu của Giáo dục và Đào tạo, đồng thời cũng chỉ rõ sứ mệnh của Giáo dục Đào tạo trong giai đoạn hiện nay là: “Giáo dục- Đào tạo là quốc sách hàng đầu ”; “Nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài ”. Vì vậy việc đổi mới phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất cho Nhà trường là việc làm không thể thiếu. Trong các môn học ở Tiểu học, môn Toán giữ một vị trí rất quan trọng. Môn Toán không chỉ giúp học sinh có những kiến thức cơ bản, hình thành những kĩ năng thực hành tính, đo lường, giải các bài toán có những ứng dụng thiết thực trong cuộc sống,… mà còn góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lý và diễn đạt đúng (nói và viết) cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng; gây hứng thú học tập toán; góp phần bước đầu hình thành phương pháp học tập và làm việc có kế hoạch, khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo. Hiện nay đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh cũng là một trong những giải pháp được nhiều người quan tâm nhằm đưa các hình thức dạy học mới vào Nhà trường. Một trong những đổi mới dạy học Toán là không quá nhấn mạnh lí thuyết mà cần tạo điều kiện và môi trường học tập để học sinh được thực hành nhằm phát triển năng lực tự làm việc bằng trí tuệ cá nhân và hợp tác trong nhóm với sự hỗ trợ của giáo viên. Từ trước đến nay đã có nhiều đồng nghiệp quan tâm và nghiên cứu về vấn đề dạy và học môn Toán nhưng các đề tài đó chỉ đi sâu vào một khía cạnh nhất định như : giúp học sinh yêu thích môn Toán; sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp; sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy môn Toán,...Ở đơn vị tôi cũng chưa có ai nghiên cứu sâu về vấn đề này. Với mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai, tôi đã chọn đề tài: “ Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5” làm đề tài nghiên cứu. Vũ Thị Oanh – Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai -2- Đề tài: Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài Mục tiêu, nhiệm vụ mà đề tài này hướng tới chính là giúp giáo viên có một số biện pháp để dạy học tốt hơn môn Toán. Khơi dậy khả năng tư duy sáng tạo, tích cực chủ động của học sinh, trang bị, cung cấp cho học sinh những biện pháp, kĩ năng học tốt môn Toán để các em hiểu và yêu thích môn học này. Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Toán lớp 5. 3. Đối tượng nghiên cứu Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5. 4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu: Nội dung, chương trình môn Toán, phương pháp dạy môn Toán lớp 5. Học sinh lớp 5C, Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai năm học 2014 -2015 . 5. Phương Pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp như sau: + Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề + Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm + Phương pháp vận dụng lý thuyết kiến tạo trong dạy học + Phương pháp trực quan + Phương pháp điều tra + Phương pháp gợi mở + Phương pháp thống kê II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận Qua những năm thực hiện đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh và giáo viên. Việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm và nhất là trong những năm gần đây trường tôi lại thử nghiệm chương trình dạy học VNEN tiến tới thay sách giáo khoa; sử dụng không gian phòng học trong dạy học, vận dụng phương pháp dạy học cách tổ chức trong dạy Vũ Thị Oanh – Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai -3- Đề tài: Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 học. Sự đa dạng các hình thức tổ chức dạy học để thu hút sự chú ý, khơi gợi hứng thú cho các em để từng bước nâng cao chất lượng dạy và học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện bậc Tiểu học từ nay đến năm 2020. Để thực hiện mục tiêu trên tôi đã thường xuyên có nhiều hình thức tổ chức dạy và học, phương pháp dạy học và nhiều con đường để đạt được điểm đích. Mỗi tiết dạy được xác định cụ thể theo nội dung ghi trong sách giáo khoa và các yêu cầu cơ bản về chuẩn kiến thức, kĩ năng trong tiết học tạo không khí học tập vui vẻ, sôi nổi,… là những yêu cầu cơ bản trong hoạt động giáo dục hiện nay. Và hơn thế nữa việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực ở Tiểu học góp phần rất quan trọng trong sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ em và rất phù hợp với học sinh Tiểu học. Hiện nay đất nước ta đang thời kì hội nhập quốc tế, hòa vào xu thế phát triển của thế giới, vì vậy để có những chủ nhân tương lai cho đất nước thì quá trình dạy học trong nhà trường, đặc biệt là trường Tiểu học, cần có những phương pháp, hình thức tổ chức dạy học để phát huy hết vai trò người học là điều cần thiết. 2. Thực trạng 2.1. Thuận lợi - khó khăn *Thuận lợi Được sự quan tâm của các cấp và lãnh đạo nhà trường, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho giáo viên và học sinh như: cơ sở vật chất được trang bị đầy đủ, đồ dùng trực quan, máy chiếu bộ đồ dùng dạy học toán được trang bị đầy đủ. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin như hiện nay giáo viên có điều kiện tham khảo các tài liệu, sử dụng internet, sách báo có liên quan, tự học để nâng cao tay nghề và góp phần cho bài giảng thêm phong phú, sinh động hơn. Chương trình môn Toán lớp 5 theo mô hình trường học mới Việt Nam gọi tắt là VNEN các đề mục trong tài liệu Hướng dẫn học đã được nhà biên soạn sắp xếp tương đối hệ thống, kênh hình kênh chữ rõ ràng, màu sắc đẹp. Nhà trường thường xuyên kiểm tra, dự giờ, có kế hoạch lên chuyên đề để giáo viên được học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, đưa ra những biện pháp dạy học hay nhất giúp các em học sinh tiếp thu bài được tốt nhất. Vũ Thị Oanh – Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai -4- Đề tài: Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 Giáo viên đã quen dần với việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học theo hướng tích cực hóa các hoạt động của học sinh. Các em học sinh đều được học 2 buổi/ ngày. Từ đó giúp các em có khả năng sử dụng thành thạo các bài tập thực hành và áp dụng linh hoạt vào các môn học khác. *Khó khăn Nội dung mỗi bài học thường khá dài dẫn đến học sinh khó nắm bắt được kiến thức trọng tâm. Tài liệu tham khảo ít, đồ dùng dạy học còn thiếu. Học sinh còn lười suy nghĩ, vốn kiến thức cơ bản lớp dưới còn hạn chế. Một số em khả năng tính toán còn chậm, tính tự học chưa cao. Phụ huynh do điều kiện công việc chủ yếu là thuần nông nên chưa có thời gian kèm cặp cho các em. 2.2 Thành công - hạn chế *Thành công Trước khi vận dụng đề tài này vào thực tế dạy học, tôi nhận thấy: Từ khi thực hiện dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam, đa số giáo viên và học sinh trường tôi đã thay đổi cách dạy, cách học theo hướng tích cực. Giờ học toán bớt nặng nề và khô khan hơn trước. Một số giáo viên đã biết cách sử dụng, khai thác các đồ dùng dạy học môn Toán tương đối hiệu quả. Học sinh có hứng thú khi học, có thêm vốn kiến thức cho sau này, khơi gợi cho các em lòng yêu thích, ham muốn khám phá... *Hạn chế Giáo viên phải có vốn kiến thức chuyên sâu cũng như có trách nhiệm đối với học sinh. Vì không có vốn kiến thức chuyên sâu sẽ gặp khó khăn trong việc giúp học sinh phân biệt được cách giải các bài toán cùng dạng . Ngoài ra giáo viên còn phải yêu thích tìm tòi vì nếu không tìm tòi thì giáo viên cũng không truyền cho các em sự yêu thích. Vũ Thị Oanh – Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai -5- Đề tài: Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 Bên cạnh đó một số giáo viên áp dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học môn Toán còn khá máy móc, đơn điệu chủ yếu hướng tới việc hoàn thành mục tiêu bài học, môn học chứ chưa chú ý đến việc học sinh có hứng thú học hay không dẫn đến hiệu quả mạng lại chưa cao. 2.3 Mặt mạnh - mặt yếu *Mặt mạnh Được sự quan tâm của Nhà trường nên các em được học ở phòng học có đủ ánh sáng, cách sắp xếp bàn ghế đủ cho 26 em ngồi học rất thuận tiện cho các em ngồi học theo mô hình mới VNEN. Được Nhà trường phân công dạy lớp 5 trong hai năm nên tôi có tích lũy được một số kinh nghiệm khi dạy môn Toán. Một số học sinh đã biết cách làm việc, khai thác tài liệu học, bước đầu các em đã có một số kĩ năng như quan sát, và phân tích đề toán; kĩ năng đọc, phân tích sơ đồ; kĩ năng giải thích; sắp xếp hệ thống các số liệu... * Mặt yếu Tài liệu hướng dẫn học môn toán là sách “ ba trong một”, nó vừa là sách giáo viên, vừa là sách học sinh, vừa là sách bài tập do đó giáo viên không có sách hướng dẫn để làm cơ sở định hướng cho tiết dạy. Một số học sinh còn học một cách thụ động vì kiến thức ngày càng đòi hỏi người học phải có tư duy độc lập hơn. 2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Là một giáo viên trẻ được phân công dạy lớp cuối cấp tôi luôn trăn trở, tích cực học hỏi, tìm tòi phương pháp dạy học mạng lại hiệu quả. Bên cạnh đó tôi nhận được sự đồng lòng hưởng ứng cách dạy học mới từ phía phụ huynh, sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội giúp cho việc dạy học mạng lại kết quả cao hơn. Bên cạnh đó còn có những yếu tố tác động khác như: Thiết bị dạy học còn chưa phong phú ; giáo viên chưa đi sâu nghiên cứu tài liệu giảng dạy, chưa nhiệt tình trong giờ dạy. Các hình thức dạy học còn đơn điệu khô cứng chính vì thế khi tham gia các đợt hội giảng, thao giảng giáo viên rất dè dặt khi lựa chọn các bài dạy có tính diện tích các hình. Vũ Thị Oanh – Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai -6- Đề tài: Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra Về nội dung chương trình môn Toán lớp 5 theo mô hình trường học mới VNEN cũng giống như chương trình trước đây nhưng cách chia nội dung bài trong tài liệu Hướng dẫn học thì mỗi bài được tích hợp nhiều nội dung. Thời lượng dành cho mỗi bài học thường là 1 đến 2 tiết. Ví dụ: Khi dạy bài Diện tích hình thang sách hiện hành có 3 tiết ( trong đó có 1 tiết luyện tập và 1 tiết luyện tập chung) nhưng sách thử nghiệm Hướng dẫn học chỉ có 2 tiết. Như vậy việc chia nội dung bài học từng phần không tách bạch nội dung rõ ràng gây khó hiểu cho học sinh trong việc tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức. Năm học này cũng là năm thứ ba trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai Thực hiện chương trình VNEN. Với mô hình dạy học này cả giáo viên và học sinh phải chuyển đổi từ lối truyền thụ một chiều của giáo viên thầy giải trò nghe sang thầy đọc trò chép sang dạy học hợp tác học sinh học tập chủ động khám phá kiến thức. Bên cạnh đó giáo viên vẫn sử dụng phương pháp chủ yếu là giảng giải, vấn đáp chính vì thế giờ học trở nên khô khan, nhàm trán với những con số vô hồn ít đọng lại kiến thức trong tâm trí các em. Học sinh ít tìm tòi tài liệu về môn toán mà chỉ dùng đơn thuần là cuốn sách giáo khoa dẫn đến tâm lí một số em sợ học môn này vì cho rằng nó khô và khó. Khô vì giờ học tẻ nhạt, đơn điệu và nhàm chán. Khó vì phải nhớ quá nhiều ghi nhớ, công thức. Từ đó học sinh không hướng thú, học vẹt, học chỉ để trả bài, để qua các lần kiểm tra chứ không hiểu và yêu thích môn Toán thì rất ít. Năm học 2014-2015 tôi được Nhà trường phân công chủ nhiệm và dạy lớp 5C , lớp có 4 em là người dân tộc Ê- đê ( 4 em chiếm 15,4 %), nhiều em gia đình rất khó khăn, bố mẹ đi làm ăn xa không quan tâm được đến việc học hành của con cái. Ở lớp 5, môn Toán là môn mới mẻ đối với các em vì đây là năm đầu tiên sử dụng sách thử nghiệm, nhiều em còn bỡ ngỡ chưa có cách học để mang lại hiệu quả. Khả năng nắm bắt kiến thức, kĩ năng quan sát, khái quát các vấn đề còn yếu, khả năng ghi nhớ còn chậm nên các em chỉ có thể ghi nhớ một cách máy móc. Kĩ năng Vũ Thị Oanh – Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai -7- Đề tài: Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 đọc và phân tích đề toán chưa nhanh do đó ảnh hưởng đến thời gian và tiến trình chung của môn học; Tinh thần hợp tác chưa cao, nhiều em chưa tự tin hợp tác trong nhóm, một số em còn học tập thụ động. Chính những điều đó tạo nên những khó khăn trong quá trình dạy và học. Qua thực trạng nói trên cho thấy việc giải toán của học sinh lớp 5 nói riêng và học sinh cấp Tiểu học nói chung là vô cùng cần thiết vì đây là một môn học liên quan đến chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập đó là “Học mà chơi – chơi mà học” và đem lại chất lượng rất cao. Đối với tôi đây chính là việc “Tự học – Tự rèn” cho bản thân để nâng cao cả về kiến thức cũng như chuyên môn nghiệp vụ, cách sử dụng công nghệ thông tin. Từ những vấn đề trên, tôi cũng như mọi giáo viên khác cần có sự thống nhất cao đó là luôn quan tâm, theo dõi giúp đỡ các em trong quá trình học của học sinh. Vũ Thị Oanh – Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai -8- Đề tài: Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 3. Giải pháp, biện pháp 3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Đề tài đưa ra cách giải quyết những vấn đề, những mâu thuẫn thường gặp trong quá trình dạy học môn Toán lớp 5 dựa trên cơ sở thực tế đã đạt được trong quá trình nghiên cứu. Trong hệ thống giáo dục cấp tiểu học, nếu người dạy học không được phép coi nhẹ môn học nào và đặc biệt là môn Toán. Qua bao nhiêu năm công tác, không hẳn đã có học sinh yếu toàn diện, cái quan trọng là do người dạy khai thác tư duy học sinh như thế nào để các em tiếp nhận thông tin mà thôi. Vậy mới thấy được luôn đổi mới phương pháp dạy học là cực kì quan trọng. Với những biện pháp tích cực mà người viết đưa ra sẽ giải quyết mâu thuẫn đó, giúp người học chiếm lĩnh một cách trọn vẹn. 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp a. Trước hết ta hiểu phương pháp dạy học tích cực là gì ? - Phương pháp dạy học tích cực là phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng cá nhân học sinh trong quá trình học tập để tiếp thu kiến thức, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. - Với quan niệm trên phương pháp dạy học có ba đặc điểm: Hoạt động: Hình thức tổ chức, đánh giá, kích thích học sinh xử lí tình huống giao tiếp. Khoa học: Chính xác, hệ thống. Nghệ thuật: Tính sáng tạo, năng lực kinh nghiệm. - Tính tích cực thể hiện: Hứng thú: Hăng hái tham gia vào quá trình học tập. Có phương pháp tự học, tự phát hiện và tìm cách giải quyết vấn đề của giáo viên đưa ra. Mạnh dạn nêu thắc mắc của bản thân. Tính tích cực của học sinh đối lập với sự thụ động. - Dấu hiệu nhận biết phương pháp dạy học tích cực: Vũ Thị Oanh – Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai -9- Đề tài: Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 Kích thích nhu cầu hứng thú học tập của học sinh, tạo cho học sinh tự giác học tập. Việc cùng hoạt động cá thể với nhóm nhỏ. Kết hợp với đánh giá của giáo viên với tự đánh giá của học sinh cho hợp lí. Giáo viên có hệ thống câu hỏi phỏng vấn, có nghệ thuật ứng xử sư phạm thích hợp, biết tạo tình huống có vấn đề và tạo cho học sinh giải quyết vấn đề. Tiết học diễn ra nhẹ nhàng hiệu quả, học sinh tiếp thu được những yêu cầu của bài. b. Tìm hiểu một số phương pháp dạy học tích cực Trong quá trình dạy học có rất nhiều phương pháp như: phương pháp trực quan, phương pháp gợi mở vấn đáp, . . . Nhưng hiện nay các phương pháp dạy học tích cực đang được khuyến khích sử dụng rộng rãi là phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm (nhóm tương tác); phương pháp vận dụng lý thuyết kiến tạo trong dạy học. * Tìm hiểu phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề Muốn nâng cao chất lượng dạy học thì cần thiết phải quan tâm nhiều tới mặt bên trong của phương pháp, tới hoạt động tự giác, tích cực, sáng tạo của người học với tư cách là chủ thể trong quá trình học tập. Đòi hỏi này xuất phát từ yêu cầu xã hội đối với sự phát triển nhân cách của thế hệ trẻ. Từ những đặc điểm của nội dung mới và bản chất của quá trình học tập. Vì vậy, phải giúp học sinh phát hiện và giải quyết vấn đề của bài học. Vấn đề: Là một yêu cầu đặt ra cho học sinh những khó khăn về mặt lí luận hay thực tiễn mà họ thấy cần thiết và có khả năng vượt qua nhưng không phải là ngay tức khắc nhờ một quy tắc có tính thuật toán mà phải trải qua một quá trình trực tiếp suy nghĩ, hoạt động để biến đổi đối tượng hoạt động hoặc điều chỉnh kiến thức sẵn có. Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học trong đó giáo viên là người đưa ra các tình huống sư phạm có vấn đề và tổ chức cho học sinh các hoạt động khám phá, phát hiện và tìm cách giải quyết vấn đề trên cơ sở những kiến thức và những kinh nghiệm đã biết. Vũ Thị Oanh – Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai - 10 - Đề tài: Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 “Vấn đề” được chứa đựng trong “tình huống” mà học sinh mong muốn được giải quyết. Nhưng để giải quyết phải vượt qua những khó khăn bằng sự cố gắng tự lực của bản thân một cách tự giác và hi vọng sẽ giải quyết được vấn đề đó. Quá trình dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề có thể mô tả như sau: Tình huống có vấn đề Phát hiện vấn đề, tìm hiểu vấn đề Định hướng giải quyết vấn đề. Giải quyết vấn đề Phân tích vấn đề, mở rộng vấn đề Trong dạy học phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề, giáo viên là người tạo ra tình huống có vấn đề, tổ chức, triển khai tình huống, gợi cho học sinh hướng đi, giúp đỡ học sinh thực hiện phương pháp để đạt mục đích học tập đặt ra. Học sinh là người tìm cách học, biết cách huy động kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm đã có bằng nỗ lực của chính mình, tự phát hiện và giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh tri thức và sắp xếp nó vào hệ thống kiến thức sẵn có. Dạy học toán phát hiện và giải quyết vấn đề là một định hướng xuyên suốt quá trình dạy học toán ở tiểu học. Do đặc điểm và nhận thức của học sinh tiểu học trong học tập toán, vấn đề được hướng tới thường đơn giản, việc phát hiện và giải quyết vấn đề không cần một quá trình suy luận dài. Ví dụ 1: Khi dạy bài: “So sánh hai số thập phân” Toán 5. Giáo viên có thể hướng dẫn như sau: Nêu ví dụ: So sánh 8,1m và 7,9m. Các em có nhận xét gì về hai số thập phân này? (Hai số thập phân khác nhau, cùng đơn vị đo). Giáo viên : So sánh 8,1m và 7,9m là so sánh hai số thập phân không bằng nhau. Vậy muốn so sánh hai số thập phân đó ta làm gì ? Các em có thể nói lên cách giải quyết của mình ? (Giáo viên gợi ý vấn đề cần giải quyết). Giáo viên tổ chức cho học sinh giải quyết vấn đề: Học sinh tự nhận thấy cần phải chuyển đổi 8,1m và 7,9m về đơn vị đo là dm. Vũ Thị Oanh – Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai - 11 - Đề tài: Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 So sánh hai số vừa tìm được (Giải thích). Từ cách so sánh trên, suy ra 8,1m > 7,9m (Phần nguyên có 8 > 7). Giáo viên tổ chức cho học sinh mở rộng vấn đề: Trường hợp khi so sánh hai số thập mà các số thập phân có các chữ số không bằng nhau, không có đơn vị đo (Phần nguyên khác nhau) thì ta so sánh như thế nào? Giáo viên gợi mở học sinh tự nêu lên nhận xét để khắc sâu kiến thức: Khi so sánh hai số thập phân có phần nguyên khác nhau, số thập phân nào có phần nguyên lớn hơn thì số đó lớn hơn. Tóm lại, khi so sánh hai số thập phân thì đòi hỏi học sinh phải biết liên hệ các kiến thức đã học: nắm chắc cấu tạo của một số thập phân (Phần nguyên, phần thập phân). Từ đó, học sinh vận dụng so sánh hai số thập phân trong mọi trường hợp. Như vậy, quá trình học sinh huy động các kiến thức đã học, có liên quan đến vấn đề cần giải quyết không chỉ tập dợt cho học sinh cách giải quyết một vấn đề của bài học mà còn giúp học sinh nhận ra sự cần thiết phải chuẩn bị kiến thức trước đó. Ví dụ 2: Dạy bài “Diện tích hình tam giác” Toán 5 Trước khi học bài này học sinh đã nắm được: Biểu tượng về hình tam giác, nhận biết chúng dựa vào các đặc điểm “có ba cạnh, ba đỉnh, ba góc”. Biết vẽ đường cao của một tam giác tương ứng với cạnh đáy. Biết tính diện tích hình chữ nhật. Mục tiêu của bài học này là: Học sinh tự hình thành công thức tính diện tích hình tam giác. Biết vận dụng để giải các bài toán có liên quan. Hoạt động 1: Hình thành công thức tính diện tích hình tam giác Bước 1: Tạo tình huống có vấn đề Giáo viên tổ chức cho học sinh học tập bằng phiếu. PHIẾU HỌC TẬP Họ và tên:………………………………………………………… Tính diện tích hình tam giác (Hình 1) Vũ Thị Oanh – Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai - 12 - Đề tài: Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 E A E 1 C D Hình 1 1 D 2 Hình 2 B 2 H C Hình 3 (H.2 và H.1 cắt, ghép ) Bước 2: Tổ chức cho học sinh phát hiện và giải quyết vấn đề (Thảo luận cặp đôi). Học sinh tự đặt và tự trả lời câu hỏi, giáo viên hướng dẫn, gợi ý (nếu cần). Hãy nêu tên các hình? Hình nào đã biết cách tính diện tích? (Hình 3). Vấn đề được đặt ra là gì? (Tính diện tích hình tam giác bằng cách nào?) Bước 3: Tổ chức cho học sinh giải quyết vấn đề Học sinh phân tích vấn đề (Khuyến khích học sinh tự đặt câu hỏi). Giáo viên có thể hướng dẫn: quan sát hình vẽ, hãy thiết lập mối quan hệ giữa hình tam giác với hình chữ nhật? Học sinh đề xuất hướng giải quyết và cách thực hiện: Tính diện tích hình chữ nhật và nêu công thức tính. Tính diện tích hình tam giác dựa vào cách tính diện tích hình chữ nhật. Học sinh nêu lên được diện tích hình chữ nhật (Hình 3) gấp hai lần diện tích hình tam giác. (Hình 1) Bước 4: Tổ chức cho học sinh phân tích vấn đề và mở rộng vấn đề Hướng dẫn học sinh phân tích vấn đề: Diện tích hình tam giác là tích độ dài của hia cạnh nào trong hình tam giác? Mở rộng vấn đề: Có thể tìm được công thức tính diện tích hình tam giác bất kì hay không? Giáo viên gợi mở, học sinh chính xác hoá công thức tính diện tích hình tam axh giác. Công thức: S = 2 hay S= a x h : 2 (S là diện tích, a là độ dài đáy, h là chiều cao) Vũ Thị Oanh – Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai - 13 - Đề tài: Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 Hoạt động 2: Thực hành Bài 1: Học sinh tự làm bài và nêu kết quả Học sinh khác nhận xét (cách tính và kết quả). Giáo viên nhận xét và nêu thêm vấn đề: Diện tích hình tam giác có phụ thuộc vào vị trí của đường cao hay không? Bài 2: Học sinh tự làm bài, đổi bài cho nhau, nêu ý kiến và nhận xét bài làm của bạn. Phát hiện thêm vấn đề: Số đo độ dài đáy và chiều cao không cùng đơn vị đo (Phải đổi về cùng đơn vị đo). Tóm lại, với cách dạy học như trên, từ những hiểu biết về“Diện tích hình chữ nhật”, bằng sự nỗ lực của bản thân (Sự hỗ trợ của giáo viên), sự hỗ trợ của hình ảnh trực quan, học sinh đã giải quyết được vấn đề mà trước đó được đặt ra và chưa được giải quyết đó là tính “Diện tích hình tam giác”. Trên cơ sở tính diện tích hình chữ nhật, học sinh được mở rộng, khái quát thành công thức tính diện tích hình tam giác. Bây giờ trong kho tàng tri thức của các em có thêm kiến thức mới, nhưng điều quan trọng hơn là các em biết cách xây dựng công thức tính dịên tích hình tam giác dựa vào những kiến thức và kinh nghiệm đã có từ trước. Đặc trưng của nghề dạy học được xác định không phải bằng hoạt động dạy mà là hoạt động học của người học. Giáo viên là người tạo điều kiện thuận lợi cho việc học của học sinh, giúp học sinh phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề và tự chiếm lĩnh tri thức. Vì vậy, năng lực của người thầy là năng lực của người tạo tình huống có vấn đề. * Dạy học theo nhóm tương tác Thế nào là dạy học theo nhóm tương tác? Dạy học theo nhóm tương tác là một hình thức tổ chức dạy học mà người giáo viên chia lớp ra thành những nhóm nhỏ để thảo luận, bàn bạc những vấn đề được giáo viên đưa ra và mọi thành viên trong nhóm đều có hoạt động tương tác với nhau, các nhóm tương tác với nhau nhằm đạt được mục tiêu học tập. Vũ Thị Oanh – Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai - 14 - Đề tài: Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 Hoạt động nhóm là một hoạt động tích cực, đem lại cho học sinh cơ hội được sử dụng các kiến thức, kĩ năng mà các em được lĩnh hội và rèn luyện. Qua hoạt động nhóm các em được diễn đạt những ý tưởng, nêu lên những khám phá của mình, nhờ vậy mà các em mở rộng suy nghĩ và thực hành các kĩ năng tư duy. Hoạt động nhóm giúp các em rèn luyện và phát triển kĩ năng làm việc, kĩ năng giao tiếp, tạo điều kiện cho các em học hỏi lẫn nhau, phát huy hết vai trò, trách nhiệm trên cơ sở làm việc hợp tác. Thông qua hoạt động nhóm, các em có thể cùng làm những công việc mà một mình các em không thể tự làm được trong một thời gian nhất định. Hình thức hoạt động theo nhóm góp phần hình thành và phát triển các mối quan hệ qua lại giữa học sinh, đem lại bầu không khí đoàn kết, giúp đỡ tin tưởng lẫn nhau trong học tập cũng như trong cuộc sống. Trong dạy học theo nhóm giúp các em nhút nhát, khả năng diễn đạt hạn chế, có điều kiện rèn luyện, học tập. Từ đó tự khẳng định bản thân trong sự hấp dẫn của hoạt động nhóm. Khi dạy học theo nhóm, giáo viên có dịp tận dụng các kinh nghiệm và sự sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập. Như vậy, qua phân tích ở trên chúng ta thấy được ích lợi của dạy học theo nhóm. Vì vậy, trong dạy học Toán 5 (Giai đoạn học tập sâu). Giáo viên thường áp dụng hình thức dạy học này vào một vài hoạt động như sau: Ví dụ: Khi dạy bài “Luyện tập về tính diện tích” - Toán 5. Bài tập 2: Tính diện tích của khu đất có kích thước theo hình vẽ dưới đây. Giáo viên nêu yêu cầu của bài. - Hướng dẫn học sinh phân tích dữ liệu từ trừ tượng đến cụ thể hoặc ngược lại. Vũ Thị Oanh – Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai - 15 - Đề tài: Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 * Gợi mở: Để tính diện tích hình trên trước hết ta cần có thao tác nào? ( chia hình hay cắt hình) - Theo em cắt hình ( chia hình) như thế nào cho khoa học? Giáo viên: Khoa học là dựa vào các kích thước cho trước sau khi chia không bắt buộc phải đi chia ra quá nhiều kích thước. - Xác định kích thước sau khi chia cắt hình. Ví dụ: (1) (1) (2) (2) (3) (3) Cách chia 1- Hình 1 Cách chia 2-Hình 2 - Đi tìm diện tích hình nhỏ sau đó đến diện tích hình lớn. Vậy trong 2 cách chia cách nào khoa học hơn. Cách nào giúp ta tránh được việc đi tìm nhiều kích thước. Giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm: Từ hình vẽ ban đầu, hãy tìm cách chia hình và trình bày nhiều cách giải khác nhau, tìm ra cách giải thuận tiện. Tổ chức thành lập các nhóm (Mỗi nhóm 5 – 6 học sinh, bầu nhóm trưởng, thư ký). Các nhóm thực hiện nhiệm vụ (Vào phiếu khổ lớn A2). * Học sinh tự lựa chọn cách giải và giải bài toán * Học sinh nói lên cách giải bài toán Hoạt động chung cả lớp; giáo viên chốt lại các cách làm đúng, giúp học sinh nhận ra cách làm nhanh nhất. Dự kiến:  Cách 1: Cách chia 1- Hình 1 Bài giải Diện tích hình chữ nhật lớn là: (100,5 + 40,5) x (50 + 30) = 11280 (m2) Vũ Thị Oanh – Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai - 16 - Đề tài: Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 Diện tích hai hình chữ nhật nhỏ là: (50 x 40,5) x 2 = 4050 (m2) Diện tích khu đất là: 11280 – 4050 = 7230 (m2) Đáp số: 7230 m2.  Cách 2: Cách chia 2- Hình 2 Bài giải Diện tích hai hình chữ nhật lớn là: (100,5 x 30) x 2 = 6030 (m2) Diện tích hình chữ nhật nhỏ là: (100,5 – 40,5) x (50 – 30) = 1200 (m2) Diện tích khu đất là: 6030 + 1200 = 7230 (m2) Đáp số: 7230 m2. Như vậy, qua ví dụ trên với việc tổ chức dạy học theo nhóm cùng nhiệm vụ đã tạo ra sự thi đua giữa các nhóm. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy, ngay từ khi lập kế hoạch bài dạy thì giáo viên đã dự kiến những kết quả và những khó khăn của học sinh có thể gặp phải qua hoạt động này. Ví dụ: Tất cả các nhóm học sinh đều tìm được cách giải khác nhau không? Các nhóm học sinh đều biết từ hình vẽ ban đầu sẽ vẽ thành một hình mới (Hình 1) để tìm ra cách giải nhanh nhất, thuận tiện nhất hay không? Vì vậy, người giáo viên có vai trò rất quan trọng, là người tổ chức, hướng dẫn, cố vấn và gợi mở để học sinh tìm được nhiều cách giải, từ đó lựa chọn được cách giải nhanh và thuận tiện. (Cách 1) * Vận dụng lí thuyết kiến tạo trong dạy học môn Toán Để vận dụng lí thuyết kiến tạo trong dạy học toán giai đoạn này, trước hết giáo viên phải hiểu kiến tạo gì? Kiến tạo: Trên cơ sở dựa vào những kiến thức sẵn có của mình, học sinh xây dựng kiến thức mới. Vũ Thị Oanh – Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai - 17 - Đề tài: Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 Theo quan điểm của lí thuyết kiến tạo thì mục đích của dạy học không chỉ là truyền thụ kiến thức mà chủ yếu làm thay đổi hoặc phát triển các quan niệm của học sinh, qua đó học sinh kiến tạo kiến thức mới đồng thời phát triển trí tuệ và nhân cách của mình. Dạy học kiến tạo là cách thức giáo viên tổ chức các hoạt động cho học sinh, trong đó học sinh là chủ thể tích cực trong việc tiếp thu kiến thức cho bản thân mình dựa trên kiến thức và kinh nghiệm đã có từ trước. Mô hình dạy học theo lối kiến tạo: Ôn tập: Hệ thống kiến thức và kinh nghiệm cần thiết để chuẩn bị cho việc tiếp thu kiến thức mới. Nêu vấn đề: Xác định mục tiêu cần đạt tới. Tập hợp các ý tưởng: Đưa ra các giả thiết có thể hướng tới mục tiêu. Dự đoán: Lựa chọn trong số các giả thiết để tiến hành kiểm tra. Kiểm tra giả thiết: Trong số các giả thiết vừa lựa chọn ở bước trước ta kiểm tra để xác định tính chính xác, khoa học đã có và cần bổ sung. Điều chỉnh, loại bỏ giả thiết không có tính khoa học, những điều kiện, giả thiết còn thiếu. Rút ra kết luận. Vận dụng: Dạy học theo lối kiến tạo phù hợp với một số hoạt động sau: Một số hoạt động về giải toán. Một số hoạt động về ôn tập. Phù hợp với dạy kiến thức mới trên cơ sở đảm bảo tính vừa sức của học sinh. Ví dụ: Dạy bài “Hình thang” Toán 5. Bước 1: Nêu vấn đề + Trong các hình dưới đây, hình nào là hình thang? Vũ Thị Oanh – Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai - 18 - Đề tài: Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 + Nêu nhận xét về đặc điểm các cạnh của hình thang? Bước 2: Tập hợp các ý tưởng của học sinh và đề xuất một ý tưởng chung của cả lớp. + Để nhận biết đặc điểm các cạnh của hình thang, cần quan sát xem hình thang có bao nhiêu cạnh. + Để nhận biết đặc điểm về các căp cạnh của hình thang cần dùng thước kéo dài các cạnh xem những cặp cạnh nào song song với nhau, những cặp cạnh nào không song song với nhau hoặc dùng ê ke để dựng đường thẳng vuông góc. + Đề xuất ý tưởng chung: Dùng thước thẳng kéo dài các cặp cạnh đối diện để kiểm tra xem các cặp cạnh này có song song với nhau hay không? Bước 3: Dự đoán (Đề xuất giả thiết) Trong hình thang dưới đây : A B D C + Cặp cạnh đối diện song song với nhau, cụ thể là: . . Vũ Thị Oanh – Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai - 19 - Đề tài: Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học toán lớp 5 + Cặp cạnh đối diện không song song với nhau, cụ thể là : ... Bước 4: Kiểm tra giả thiết (Dự đoán) + Viết tên cạnh thích hợp vào chỗ chấm: A B M N M D C P AB song song với . . . . Q MN song song với . . . . . Bước 5: Phát biểu các đặc điểm về cạnh của hình thang. Học sinh phát biểu, giáo viên ghi bảng: “ Hình thang có một cặp cạnh đối diện song song”. Bước 6: Vận dụng Học sinh làm các bài tập 1, 2, 3, 4 Sách giáo khoa. Như vậy, qua ví dụ trên từ những kiến thức đã có về hình bình hành, hình chữ nhật,… đã nhận biết được hình thang. Trên cơ sở đó học sinh thực hành vận dụng (Thông qua hình ảnh trực quan) và rút ra được nhận xét về đặc điểm các cạnh của hình thang. Tóm lại, dạy học vận dụng lí thuyết kiến tạo học sinh là chủ thể tích cực xây dựng nên kiến thức cho bản thân mình dựa trên những kiến thức và kinh nghiệm đã có từ trước. Giáo viên chỉ là những người cố vấn, tổ chức, hỗ trợ khi cần thiết. Dạy học vận dụng lí thiết kiến tạo đã phát triển kĩ năng tự học, tự khám phá của học sinh, tạo cơ hội cho học sinh tự đánh giá kết quả học tập của mình. Điều đó rất phù hợp với yêu cầu đổi mới như hiện nay. 3.3. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp Để thực hiện dạy học môn Toán đạt hiệu quả cần löu ý một số điều kiện sau: Giáo viên phải có bước chuẩn bị cho học sinh theo từng bước một, không thể giúp học sinh làm bài tốt dạng toán đã học mà giáo viên không đi theo lộ trình một cách có hệ thống. Ngoài ra giáo viên phải có sự đam mê toán học cũng như trách nhiệm đối với học sinh. Vì không có sự đam mê sẽ không thể tìm tòi khám phá Vũ Thị Oanh – Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai - 20 -
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan