Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập trong dạy học phần lịch sư...

Tài liệu Skkn xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập trong dạy học phần lịch sử việt nam lớp 11 trung học phổ thông

.DOC
124
3075
57

Mô tả:

Së gi¸o dôc vµ ®µo t¹o hng yªn Trêng THPT CHUY£N H¦NG Y£N --------------------------------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP TRONG DẠY VÀ HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 11 Môn: Lịch sử Tác giả: Th.s Nguyễn Thị Hiền Giáo viên môn: Lịch sử Trêng THPT Chuyªn Hng Yªn Năm học 2015 - 2016 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………………………………....5 1 1.Lý do chọn đề tài ………………………………………………………………. ... 5 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ………………………………………………………..6 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………………… …7 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu …………………………………………….. …7 PHẦN NỘI DUNG ………………………………………………………………… 8 CHƯƠNG I: VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG BÀI TẬP TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT ……………………… 8 1. Cơ sở Lý luận về việc sử dụng hệ thống bài tập và hệ thống bài tập trong dạy học lịch sử ở trường THPT …………………………………………………….. .. 8 1.1. Quan niệm về bài tập nói chung và bài tập trong dạy học lịch sử nói riêng …… 8 1.2. Phân biệt “Câu hỏi”, “bài tập”, “bài tập nhận thức” ………………………… 10 1.3. Phân loại bài tập trong dạy học lịch sử ở trường THPT …………………… … 12 1.4. Vai trò, ý nghĩa của bài tập trong dạy học lịch sử ở trường THPT ………….. ..21 1.4.1 Bài tập lịch sử đối với việc hình thành tri thức cho học sinh ……………….. 22 1.4.2. Bài tập lịch sử góp phần giáo dục tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho học sinh …………… …………………………………………………………… ....24 1.4.3. Bài tập lịch sử góp phần phát triển học sinh ……………………………….. 25 2. Vấn đề sử dụng bài tập trong dạy học lịch sử ở trường THPT ……………. 28 2.1. Cơ sở lý luận dạy học ………………………………………………………… 28 2.2. Xuất phát từ đặc trưng của việc dạy học lịch sử ……………………………… 31 2.3. Đặc điểm tâm lý và nhận thức của học sinh THPT …………………………… 34 3. Cơ sở thực tiễn ……………………………………………………………….. 36 CHƯƠNG II: XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP TRONG DẠY VÀ HỌC LỊCH SỬ LỚP 11 – PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM ( 1858 – 1918) 2 1. Nguyên tắc và quy trình xây dựng bài tập lịch sử ………………………. …. 42 1.1. Nguyên tắc xây dựng bài tạp trong dạy học lịch sử ………………………….. 42 1.2. Quy trình thiết kế bài tập lịch sử ……………………………………………… 48 2. Thiết kế bài tập lịch sử trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1858 – 1918 lớp 11 trường THPT ………………………………………………………… . . 49 2.1. Vị trí, mục đích, nội dung lịch sử Việt Nam từ 1858 – 1918 lớp 11 THPT 49 2.1.1. Vị trí…………………………………………………………………………..49 2.1.2. Mục đích……………………………………………………………………..50 2.1.3. Nội dung lịch sử Việt Nam từ 1858 – 1918…………………………………52 2.2. Thiết kế bài tập lịch sử trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1858 – 1918, lớp 11 THPT……………………………………………………………………...56 2.2.1. Nhóm bài tập nhận biết lịch sử……………………………………………….56 2.2.2. Nhóm bài tập nhận thức lịch sử………………………………………………61 2.2.3. Nhóm bài tập thực hành lịch sử………………………………………………67 2.2.4. Nhóm bài tập tổng hợp………………………………………………………69 3. Một số yêu cầu chung khi sử dụng bài tập trong dạy học lịch sử đối với giáo viên và học sinh…………………………………………………………………...70 3.1. Một số yêu cầu chung khi sử dụng bài tập trong dạy học lịch sử đối với giáo viên....70 3.2. Một số yêu cầu đối với học sinh khi sử dụng bài tập trong dạy học lịch sử…….75 4. Các biện pháp sư phạm sử dụng bài tập trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 11 THPT………………………………………………………………………………..77 4.1. Sử dụng bài tập lịch sử trong giờ truyền thụ kiến thức mới……………………77 3 4.2. Sử dụng bài tập để tổ chức, hướng dẫn học sinh làm bài tạp lịch sử trong tự học ở nhà………………………………………………………………………………….84 4.3. Sử dụng bài tập để tổ chức các hoạt động ngoại khóa…………………………86 4.4. Sử dụng bài tập trong kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh……..88 5. Thực nghiệm sư phạm…………………………………………………………93 PHẦN KẾT LUẬN ……………………………………………………………. 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………….. 99 PHẦN PHỤ LỤC ……………………………………………………………….. 103 PHẦN MỞ ĐẦU 4 1. Lý do chọn đề tài: Bộ môn lịch sử có vị trí và ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp kiến thức về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới góp phần tích cực vào việc “Phát triển toàn diện học sinh về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và óc sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân”. Tuy nhiên, có một thực tế hiện nay nhiều học sinh – trong đó có cả học sinh chuyên sử cũng thờ ơ với môn lịch sử. Sự yêu thích bộ môn lịch sử cũng như chất lượng học tập bộ môn giảm sút đáng lo ngại báo động (điều đó thể hiện ở chất lượng các bài thi tốt nghiệp THPT, đại học, học sinh giỏi) đã làm cho dư luận xã hội, các nhà quản lí giáo dục, giáo viên tâm huyết với lịch sử lo lắng. Vậy để khắc phục tình trạng này phải đổi mới được nội dung phương pháp, phương tiện dạy học, đến cách thức kiểm tra đánh giá kết quả dạy học, trong đó khâu đột phá là đổi mới phương pháp dạy học. Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT được thể chế hóa trong Luật giáo dục: “Phương pháp giáo dục phổ thông là phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”. Tăng cường hơn nữa kĩ năng thực hành và sử dụng bài tập trong quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông là một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện yêu cầu trên. Hiện nay trong lí luận và thực tiễn, các nhà khoa học giáo dục đã đưa ra nhiều biện pháp, con đường để cải tiến, đổi mới phương pháp dạy học lịch sử, một trong những biện pháp đó là sử dụng hệ thống bài tập lịch sử để kích thích hoạt động tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh. Khi làm đươc bài tập lịch sử, học sinh sẽ hiểu bài, hiểu được bản chất vấn đề lịch sử, từ đó các em sẽ có cách nhìn đúng về bộ môn và sẽ có tình yêu với bộ môn. 5 Tại các trường phổ thông hiện nay, nhiều giáo viên và học sinh còn chưa quen với làm bài tập lịch sử ở trên lớp và ở nhà. Xuất phát từ quan niệm môn lịch sử không cần làm bài tập, hoặc chỉ là những bài tập mang tính chất học thuộc lòng để ghi nhớ sự kiện, nhân vật, địa danh…… Thậm chí có giáo viên và học sinh chưa phân biệt rõ “câu hỏi” và “bài tập” trong dạy học lịch sử. Đối với giáo viên, hình thức phổ biến nhất là sử dụng các câu hỏi trong sách giáo khoa, chỉ có một số ít giáo viên tâm huyết với nghề chú ý xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập. Về phía học sinh, chỉ biết học thuộc lòng kiến thức trong sách giáo khoa, đọc lại vở ghi, so sánh với sách giáo khoa và học thuộc lòng một số sự kiện nào đó mà không hiểu bản chất của sự kiện, hiện tượng, nhầm lẫn kiến thức... Một nhiệm vụ học tập chung chung, không rõ ràng, không biết phải hoàn thành những công việc nào như vậy sẽ không thúc đẩy việc tự học của học sinh. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, bài tập lịch sử được sử dụng trong các khâu của quá trình dạy học, trong đó có kiểm tra – đánh giá toàn diện, chính xác hiệu quả dạy học lịch sử ở trường THPT. Vì vậy, việc ra các bài tập và yêu cầu học sinh phải hoàn thành các bài tập cụ thể là một yêu cầu cần thiết, từng bước hình thành kĩ năng, thói quen tự học cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử hiện nay. Xuất phát từ những lí do chủ yếu trên, tôi xin trao đổi với các đồng nghiệp về bộ môn với đề tài sáng kiến kinh nghiệm “ Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập trong dạy và học lịch Việt Nam - Lớp 11” 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Trong các tài liệu về tâm lí học và lí luận dạy học hiện đại của các tác giả trong và ngoài nước đều đề cập đến vấn đề bài tập nhằm nâng cao tính hiệu quả dạy học Trong quyển “dạy học nêu vấn đề” của I.Ialacne; “Đánh giá giáo dục” của Trần Bá Hoành… Các tác giả đều cho rằng dạy học nêu vấn đề là kiểu dạy học mới, song muốn làm được điều đó phải thiết kế hệ thống câu hỏi, bài tập nêu vấn đề 6 Đối với môn lịch sử, giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” tác giả GS.TS Phan Ngọc Liên và PGS Trần Văn Trị (chủ biên) không chỉ đề cập đến sự cần thiết phải thực hiện bài tập trong dạy học lịch sử mà còn đền cập đến các hình thức, biện pháp sử dụng bài tập lịch sử. Ngoài ra còn có các tài liệu chuyên khảo, luận văn, tài liệu bồi dưỡng giáo viên “Bài học lịch sử và kiểm tra đánh giá kết quả hoc tập lịch sử của học sinh THPT”, “Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường THPT” của PGS. TS Nguyễn Thị Côi… Liên quan đến vấn đề nghiên cứu của đề tài còn kể đến các tác tài liệu khác: “Câu hỏi và bài tập lịch sử 11” của PS Phan Ngọc Liên, “Hướng dẫn học sinh giải bài tập lịch sử” tác giả Nguyễn Thị Côi… Từ những công trình nghiên cứu chủ chốt này giúp tôi có được định hướng quan trọng trong việc xây dựng bản sáng kiến kinh nghiệm này. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài: quá trình dạy và học lịch sử Việt Nam lớp 11 trong thời kì (1858 – 1918) - Phạm vi: Thiết kế một số loại, dạng bài tập tiêu biểu trong nội dung chương trình Lịch sử Việt Nam lớp 11 và các biện pháp sư phạm để sử dụng các bài tập đó. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Đề tài khẳng định quan niệm đúng đắn, khoa học về sự cần thiết của việc sử dụng bài tập trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông - Đề tài cũng nêu lên nguyên tắc, quy trình xây dựng nội dung và đề xuất những hình thức, biện pháp cụ thể sử dụng bài tập để nâng cao hiệu quả trong dạy học lịch sử lớp 11 – phần lịch sử Việt Nam (1858 – 1918) PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG BÀI TẬP TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT 7 1. Cơ sở lí luận về việc sử dụng hệ thống bài tập trong dạy học lịch sử ở trường THPT 1.1. Quan niệm về bài tập nói chung và bài tập trong dạy học lịch sử nói riêng Đã có nhiều công trình của các nhà khoa học giáo dục trong và ngoài nước đề cập đến vấn đề bài tập nói chung và bài tập lịch sử nói riêng. Trong đó có thể nêu ra đây một số vấn đề như sau. Về khái niệm “bài tập” theo nghĩa chung nhất dùng để chỉ một hoạt động nhằm rèn luyện thể chất và tinh thần (trí tuệ) như bài tập thể dục, bài tập thanh nhạc…. Khi dùng vào lĩnh vực giáo dục, theo Từ điển tiếng Việt thuật ngữ “bài tập” có nghĩa là ra bài cho học sinh làm để vận dụng những điều đã học. Ví dụ bài tập vật lý, bài tập hóa học, bài tập đại số…. Tuy nhiên định nghĩa này mới chỉ giải thích về mặt ngữ nghĩa chứa chưa làm rõ bản chất của khái niệm “bài tập”. Theo GS Nguyễn Ngọc Quang, khi xem xét khái niệm “bài tập” ta không thể tách dời nó với ngời làm bài tập. Bài tập chỉ có thể là bài tập khi nó trở thành đối tượng hoạt động của một chủ thể. Bài tập là một hệ thống thông tin xác định bao gồm hai tập hợp gắn bó chặt chẽ với nhau và tác động qua lại với nhau đó là: - Những điều kiện, tức là tập hợp những dữ liệu xuất phát, diễn tả trạng thái ban đầu của bài tập, từ đó tìm ra phép giải; theo ngôn ngữ thông dụng thì đó là “cái cho” - Những yêu cầu, là trạng thái mong muốn đạt tới của đối tượng; đó là cái đích mà chủ thể phải hướng tới để thỏa mãn nhu cầu của mình, theo ngôn ngữ thông dụng thì đây là cái phải tìm. Như vậy, bài tập và người giải trở thành một hệ thống toàn vẹn, thống nhất, liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau [41;59]. Còn theo Đaini: bài tập nhận thức còn được gọi là bài tập tư duy, bài tập chỉ dẫn, bài tập logic... Tuy cách gọi khác nhau nhưng theo Ông, các thuật ngữ nỳ đều thông thường chỉ một hiện tượng sư phạm đồng nhất. Ông viết “chúng tôi cho là các 8 thuật ngữ, bài tập nêu vấn đề, hoặc bài tập logic là thích hợp nhất. Hơn tất cả các thuật ngữ khác hai thuật ngữ này nhấn mạnh đến điều chủ yếu tức là học sinh chế biến lại các tài liệu cảm thụ một cách tự lập chuyển từ nhận thức cảm tính sang nhận thức logic trong quá trình giải quyết vấn đề”[11;79]. Như vậy, thay cho việc học lý thuyết, người học được trải nghiệm, khám phá kiến thức qua hành động, học qua “làm”, kiến thức sẽ được khắc sâu và bền vững. Câu nói dưới đây thể hiện điều đó HỌC QUA “LÀM” Nói cho tôi nghe – Tôi sẽ quên Chỉ cho tôi thấy – Tôi sẽ nhớ Cho tôi tham gia – Tôi sẽ hiểu Hướng dẫn người khác – Sẽ là của tôi Từ những lí luận trên đây, theo tiến sỹ Trần Quốc Tuấn bài tập lịch sử có những đặc trưng cơ bản sau: - Bài tập lịch sử được xem là một hệ thông tin, quy định nhiệm vụ mà học sinh phải thực hiện hay là mục đích mà giáo viên và học sinh cần phải hoàn thành trong dạy học lịch sử (bao gồm kiến thức, tư tưởng, tình cảm – xúc cảm và kĩ năng, kĩ xảo) - Bài tập lịch sử được tiến hành ở các khâu của quá trình dạy học; nghiên cứu tài liệu mới, củng cố, khái quát hóa, hệ thống hóa, vận dụng và kiểm tra, đánh giá kiến thức. - Bài tập lịch sử, đặc biệt là bài tập nhận thức là phương tiện chủ yếu, chủ đạo của dạy học nêu vấn đề - một phương pháp dạy học cơ bản nhằm phát huy năng lực tư duy độc lập và sáng tạo của học sinh - Bài tập lịch sử là phương tiện thúc đẩy nỗ lực tự học của học sinh giúp các em tiếp cận dần với phương pháp tự học, tự nghiên cứu 9 1.2. Phân biệt “câu hỏi”, “bài tập”, “bài tập nhận thức” Trong quá trình dạy và học, đôi khi cả thầy và trò đều có sự nhầm lẫn giữa “câu hỏi” và “bài tập”, “bài tập nhận thức”. Các dạng bài này thường được kết hợp đan xen, được sử dụng và phân bố trong giờ học theo một mức độ hợp lí mới cho hiệu quả tốt. Tần số sử dụng các loại bài này còn phụ thuộc vào quỹ thời gian, đặc điểm và trình độ nhận thức của học sinh. Ở học sinh lớn tuổi, học sinh học chuyên sâu việc tăng cường bài tập nhận thức là cần thiết mặc dù không coi nhẹ việc ra câu hỏi, bài tập để tích luỹ kiến thức, rèn luyện kĩ năng làm cơ sở cho việc nắm bản chất của lịch sử và phát triển tư duy của học sinh. “Câu hỏi” là thuật ngữ dùng để chỉ việc nêu vấn đề trong nói hoặc viết, nó đòi hỏi phải có cách giải quyết. Câu hỏi được sử dụng phổ biến trong cuộc sống cũng như trong dạy học. Tuy nhiên câu hỏi trong cuộc sống không hoàn toàn giống với câu hỏi trong dạy học. Bởi câu hỏi khi giáo viên đưa ra là những vấn đề mà giáo viên đã biết, học sinh đã được học để có cách trả lời thông minh, sáng tạo. Do đó, câu hỏi trong dạy học bao giờ cũng mang yếu tố mở, yếu tố nhận biết, khám phá hặc khám phá dưới dạng một thông tin khác, bằng cách cho học sinh tìm ra mối quan hệ, các quy tắc, các con đường tạo ra một câu hỏi hoặc một cách giải quyết mới [11;76] Từ những nhận thức trên đây ta có thể nhận thấy câu hỏi và bài tập có diểm giống nhau, khác nhau, nhưng cũng có mối quan hệ với nhau. Về mặt chức năng dạy học: cả hai đều là phương tiện tổ chức hoạt động nhận thức và kiểm tra, đánh giá kết quả nhận thức, rèn luyện kĩ năng bộ môn cho học sinh Về cấu trúc: câu hỏi và bài tập có điểm khác nhau. Câu hỏi chỉ nêu yêu cầu hoặc nhiệm vụ học sinh cần trả lời, còn bài tập và có dữ liệu (điều kiện) vừa có yêu cầu (hoặc câu hỏi). Để giải quyết bài tập học sinh phải căn cứ vào dữ liệu đã cho để tìm lời giải. Ví dụ câu hỏi: “Trình bày tình hình 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ trước chiến tranh giành độc lập”. Bài tập “Căn cứ vào tình hình kinh tế, chính trị, xã hội 10 của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ em hãy xác định nguyên nhân sâu xa dẫn đến chiến tranh bùng nổ” Như vậy, câu hỏi và bài tập là hai phương tiện dạy học có quan hệ gắn bó với nhau. Bài tập chứa đựng một hay nhiều câu hỏi nhưng không phải bất cứ câu hỏi nào đều xem là bài tập. Bởi vì, trong bài tập ngoài câu hỏi còn có những dữ liệu (điều kiện). Câu hỏi chỉ trở thành bài tập khi nào nó mang yếu tố “vấn đề” – nêu và giải quyết vấn đề. Trên cơ sở đó chúng ta có thể hiểu không phải bất cứ câu hỏi nào cũng là bài tập, nếu như câu hỏi đó chỉ bắt học sinh nhớ lại, chứng minh lại. Bài tập lịch sử có nội dung rộng hơn câu hỏi trong sách giáo khoa, đòi hỏi thời gian, công sức, trí tuệ cao hơn của học sinh. “Bài tập nhận thức” theo I.Ia.Lecne là “Bài tập mà việc độc lập giải quyết nó sẽ dẫn đến chỗ tạo ra sự hiểu biết mới về lịch sử xã hội bằng những phương thức giải quyết mới mà trước đó học sinh chưa biết. Đồng thời, nội dung bất kì bài tập nhận thức nào cũng là một vấn đề, thể hiện sự mâu thuẫn giữa điều đã biết và điều chưa biết và vấn đề này được giải quyết bằng toàn bộ những thao tác và phán đoán về trí tuệ và thực tiễn có tính chất trung gian giữa câu hỏi và câu hỏi của bài tập” [11;78]. Bài tập nhận thức – bài tập nêu vấn đề thường được diễn tả dưới dạng câu hỏi hoặc ý kiến khác nhau mà giáo viên đưa ra cho học sinh đánh giá. Như vậy câu hỏi có nội hàm rộng hơn so với bài tập. Một trong số trường hợp nó trở thành bài tập hoặc bài tập nhận thức. Nếu câu hỏi được sử dụng để học sinh rèn luyện, vận dụng những điều đã biết, đã học nhằm hoàn thành một nhiệm vụ hặc thực hiện một mục đích đề ra thì đó là bài tập. Nếu những câu hỏi khi trả lời không chỉ đòi hỏi tái hiện, nhớ lại kiến thức một cách đơn thuần, mà nhằm hình thành kiến thức với chất lượng mới bằng các thao tác của tư duy phức tạp thì trở thành bài tập nhận thức. Để trả lời được các câu hỏi này, học sinh không thể chỉ sử dụng nguyên si các kiến thức, kĩ năng sẵn có mà phải xử lí khéo léo và huy động nhiều bước trung gian trong trí tuệ của họ. 11 Muốn hoàn thành tốt các bài tập nhận thức – bài tập nêu vấn đề, cần tạo ra một trạng thái tâm lí độc đáo của trướng ngại nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu giải quyết mâu thuẫn đó không phải bằng tái hiện, bắt chước mà bằng sự tìm tòi sáng tạo, tích cực đầy hưng phấn. Khi hoàn thành nhiệm vụ của bài tập nhận thức là luc học sinh giành được kiến thức, phương pháp suy luận, phương pháp nghiên cứu và cả niềm vui sướng của sự tìm tòi, phát hiện. Sự phân loại trên đây giữa “câu hỏi”, “bài tập”, “bài tập nhập thức” cũng chỉ là tương đối. Vì “mọi gianh giới giữa tự nhiên và xã hội đều có điều kiện và linh hoạt” (Lê nin). Sự chuyển hóa giữa các khái niệm này chủ yếu do hai điều kiện: - Sự khác nhau về trình độ, năng lực nhận thức giữa các lớp học, cấp học - Tùy vào hoàn cảnh, thời điểm đưa ra các câu hỏi, bài tập và bài tập nhận thức Cùng một câu hỏi, nhưng nếu giáo viên lựa chọn đưa ra ngay đầu giờ học nhằm định hướng cho học sinh những nội dung chính cần nắm khi nghiên cứu bài mới, đồng thời cũng thu hút sự chú ý, huy động những kiến thức đã có của các em và kích thích hoạt động trí tuệ hứng thú của học sinh với vấn đề sẽ nghiên cứu thì được coi là bài tập nhận thức. Ngược lại, nếu đặt câu hỏi đó sau khi hoàn thành tiết học, một bài giảng thì nó không còn là một nhiệm vụ của bài tập nhận thức nữa mà chỉ là câu hỏi củng cố, rèn luyện. 1.3. Phân loại bài tập trong dạy học lịch sử ở trường THPT Việc phân loại bài tập nói chung và bài tập lịch sử nói riêng có tầm quan trọng đặc biệt, vì nó giúp chúng ta hiểu được vị trí, tác dụng của từng loại để trên cơ sở đó tiến hành xây dựng nội dung và phương pháp vận dụng thích hợp Thứ nhất, nhóm bài tập nhận biết lịch sử. Đây là nhóm bài tập chủ yếu tái tạo lại hình ảnh quá khứ, qua đó rèn luyện cho học sinh kĩ năng ghi nhớ, tái hiện lại sự kiện, hiện tượng, niên đại, nhân vật, địa danh lịch sử…. trong chương trình, sách giáo khoa, bài giảng mà các em đã học. 12 Nhóm bài tập này chủ yếu xây dựng dưới hình thức trắc nghiệm khách quan hoặc câu hỏi tự luận ở dạng trình bày Ví dụ: - Bài tập lựa chọn đúng sai: đây có thể là một câu hỏi trần thuật, một nhận định hay một một câu hỏi trực tiếp được trả lời “đúng” hay “sai”. Đây là loại trắc nghiệm đơn giản, dễ sử dụng. Tuy nhiên kết quả bị ảnh hưởng nhiều của yếu tố ngẫu nhiên - Bài tập lựa chọn câu trả lời đúng nhất Ví dụ: Khoanh tròn một chữ cái in hoa ở đầu câu trả lời đúng Vào những năm đầu thế kỉ XX, một số nhà yêu nước Việt Nam muốn đi theo con đường cứu nước của Nhật Bản vì: A. Nhật Bản là nước “đồng văn, đồng chủng”, là nước duy nhất ở Châu Á thoát khỏi số phận thuộc địa B. Sau cải cách Minh Trị (1868), Nhật bản trở thành nước tư bản hùng mạnh C. Nhật Bản đánh thắng đế quốc Nga (1905), là quốc gia duy nhất ở châu Á lúc bấy giờ đánh thắng đế quốc phương Tây. D. Cả A,B,C đều đúng - Bài tập yêu cầu học sinh xác lập mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử và địa danh Ví dụ: Điền số 1,2,3…. ở cột địa danh vào các sự kiện lịch sử tương ứng STT 1 Địa danh Sự kiện lịch sử Bà Điểm – Hóc Môn …. Sự ra đời của ủy ban dân tộc giải phóng 2 Đình Bảng – Bắc Ninh ….Hội nghị BCHTW Đảng cộng sản Đ D 11-1939 13 3 Tân Trào – Tuyên Quang … Hội nghị TƯ lần VIII của Đảng (1941) 4 Bắc Sơn – Lạng Sơn … Quốc dân Đại hội 5 Pắc Pó – Cao Bằng … Đội du kích đầu tiên ra đời - Bài tập yêu cầu xác lập mối quan hệ giữa sự kiện lịch sử và niên đại lịch sử Ví dụ: Có hai cột ghi chép niên đại và sự kiện, hãy đánh số thứ tự tương ứng vào cột các sự kiện lịch sử STT Địa danh Sự kiện lịch sử 1 12-3-1945 … Cách mạng tháng 8 thắng lợi ở Hà Nội 2 27-9-1940 … Nhật đảo chính Pháp 3 15-8-1945 … Nhật đầu hàng quân Đồng minh 4 28-1-1941 … Nhật vào Đông Dương 5 19-8-1954 … Thành lập mặt trận Việt Minh 6 19-5-1941 … Ban TVTWĐ ra chỉ thị “Nhật – Pháp…” 7 9-3-1945 … Nguyễn Ái Quốc về nước sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài Để tăng thêm độ khó của bài tập thuộc dạng này, chúng ta có thể đưa thêm dữ liệu vào bài tập. Ví dụ như: “Bài tập xác định mối quan hệ giữa sự kiện, nhân vật và niên đại lịch sử”. Hoặc “Bài tập xác định mối quan hệ giữa sự kiện, niên đại và địa danh lịch sử”… Ví dụ: có 3 cột sự kiện, nhân vật và địa danh theo thứ tự A,B,C. hãy sắp xếp các sự kiện, nhân vật và địa danh theo từng nhóm có liên quan đến nhau A. Sự kiện B. Nhân vật 14 C. Địa danh 1. Đại hội Đảng xã hội Pháp (12-1920) 1. Hồ Chí Minh 1. Hà Nội 2. Luận cương chính trị (10-1930) 2. Nguyễn Ái Quốc 2. Yên Bái 3. Cuộc binh biến Đô Lương (11-1941) 3. Trần Phú 3. Tua (Pháp) 4. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-1930) 4. Hoàng Hoa Thám 4. Hương Cảng 5. Tuyên ngôn độc lập (9-1945) 5. Đội Cung 5. Nghệ An - Loại bài tập lựa chọn kết hợp với việc giải thích ngắn gọn mối quan hệ giữa các nội dung kiến thức được lực chọn Đây là dạng bài tập tương đối phức tạp, vì nó vừa có sự kết hợp giữa loại bài tập lựa chọn và bài tập xác định mối quan hệ, vừa yêu cầu học sinh phải trình bày, lý giải vấn đề được đặt ra. Nó đòi hỏi học sinh phải nhớ chính xác sự kiện. địa danh, nhân vật… rồi từ đó rút ra kết luận về mối quan hệ giữa các kiến thức nêu trên. Đây là dạng bài tập vừa mang nội dung nhận biết, vừa mang nội dung nhận thức. - Bài tập điền thế: Là các câu dẫn (diễn đạt một sự kiện, hiện tượng lịch sử, các kết luận về chúng…) nhưng còn để các chô trống. Học sinh phải điền từ, cụm từ, số liệu hay kí hiệu để hoàn chính nội dung thông tin. Ví dụ: Nhiệm vụ cách mạng 2 miền Nam-Bắc sau hiệp định Giơnevơ * Miền Bắc…………………………………………………………………… * Miền Nam…………………………………………………………………. *Nhiệm vụ chung của cách mạng 2 miền……………………………………. * Vai trò, vị trí của cách mạng môi miền…………………………………… Thứ hai, nhóm bài tập nhận thức lịch sử. Việc phân chia hai loại bài tập: nhận biết lịch sử và nhận thức lịch sử chỉ là tương đối, bởi vì trong hai loại bài tập nhận biết lịch sử học sinh đã thể hiện việc hiểu rõ khá sâu sắc sự kiện, dồng thời khi làm bài nhận thức lịch sử học sinh cũng phải dựa trên cơ sở biết chính xác một số sự kiện cơ bản. Đây là nhom bài tập đòi hỏi học 15 sinh phải có năng lực độc lập suy nghĩ để giải quyết vấn đề nêu ra, trình độ tư duy cao, lí giải vấn đề và tìm tòi, sáng tạo trong nhận thức lịch sử. So với nhóm bài tập nhận biết, thì nhóm bài tập nhận thức lịch sử khó và phức tạp hơn nhiều, giáo viên có thể xây dựng dưới dạng câu hỏi tổng hợp. Qua thực nghiệm sư phạm chúng tôi nhận thấy nhóm này rất phù hợp với đối tượng học sinh giỏi. và nó bao gồm hệ thống các dạng bài tập như sau: - Bài tập xác định đặc trưng bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử (tiến bộ, phản động, bản chất giai cấp) giúp học sinh hiểu sâu sự kiện đang học Ví dụ: Hãy lí giải cuộc chiến tranh giành độc lập của 13 bang thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ là cuộc cách mạng tư sản (căn cứ vào mục tiêu, lực lượng lãnh đạo, lực lượng tham gia, kết quả). - Bài tập xác lập mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện lịch sử nhằm góp phần phát triển ở học sinh khả năng phân tích, tổng hợp để tìm ra nguyên nhân, ý nghĩa của sự kiện, hiện tượng lịch sử, phát hiện ra mối quan hệ , sự tương tác lịch sử để hiểu rõ bản chất của chúng Ví dụ: tại sao đến đầu năm 1930 yêu cầu thành lập một chính đảng vô sản thống nhất ở Việt Nam đặt ra cấp thiết? - Bài tập xác định bản chất của sự kiện và hiện tượng mới trên cơ sở sự kiện, hiện tượng khác nhằm gây cho học sinh hứng thú tìm kiếm kiến thức mới trên cơ sở kiến thức đã học. Ví dụ: Căn cứ vào cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930) em hãy phân tích tính chất của cuộc cách mạng tháng 8- 1945. - Bài tập xác định tính kế thừa giữa các sự kiện, giai đoạn, thời kì lịch sử giúp học sinh hiểu rõ quá trình phát triển liên tục, thống nhất, tính chất tiến bộ của lịch sử và tính phong phú da dạng, cụ thể của các sự kiện, giai đoạn thời kí lịch sử. 16 Ví dụ: Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam đươc nêu trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là Độc lập dân tộc, người cày có ruộng (dân tộc, dân chủ) Đảng ta đã giải quyết các nhiệm vụ này như thế nào trong thời kì 1936- 1939? Có nét gì khác so với thời kì 1930-1931? - Bài tập tìm hiểu khuynh hướng phát triển của một sự kiện, một thời đại hay một xã hội nói chung giúp học sinh nắm bắt được phương pháp tư duy biện chứng để đoán định sự phát triển tương lai trên cơ sở hiểu rõ quá khứ và hiện tại. Ví dụ: Sau khi từ Thụy Sỹ về Pê tơ rô grat, Lê nin vạch rõ nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Nga lúc này là chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng XHCN bằng phương pháp hòa bình. Căn cứ vào đâu Lê nin đề ra chủ trương và phương pháp như vậy và có thể thực hiện được không? - Bài tập xác định mức độ tiến bộ của sự kiện lịch sử nhằm hình thành ở học sinh kĩ năng phân tích, lí giải, đánh giá, nhận xét các sự kiện lịch sử - Bài tập so sánh để rút ra cái chung, cái riêng, giống và khác nhau tiêu biểu và đặc thù của các sự kiện, thời kì. Ví dụ: So sánh Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và Luận cương thánh 10 -1930 của Trần Phú để thấy sự đúng đắn, sáng tạo của văn kiện trước và hạn chế của văn kiện sau - Bài tập tìm hiểu ý nghĩa của sự kiện, rút ra bài học kinh nghiệm lịch sử đối với ngày nay, có tác dụng gợi cho học sinh về sự cần thiết phải tìm hiểu quá khứ để giải thích các sự kiện, hiện tượng đang diễn ra trong hiện tại, làm cho các em có thức được tầm quan trọng của việc học tập lịch sử. Ví dụ: tại sao nói phong trào cách mạng 1936-1939 là cuộc diễn tập lần thứ hai chuẩn bị cho cách mạng tháng 8 năm 1945? - Bài tập xác định mục đích của một sự kiện ở một giai đoạn, thời kì nhất định. 17 Ví dụ: Tại sao hội nghị trung ương 8 lại quyết định thành lập mặt trận Việt Minh?. Vai trò của mặt trận đối với thắng lợi của cách mạng tháng 8 – 1945? - Bài tập bồi dưỡng tư tưởng tình cảm học sinh qua việc nhận định, đánh giá một nhân vật lịch sử về hành vi và hoạt động của con người, vai trò của cá nhân, quần chúng nhân dân trong lịch sử Ví dụ: Dựa vào công lao của C.Mác em hãy giải thích câu nói của Lê nin: “Mác là linh hồn của Quốc tế I”? - Bài tập bồi dưỡng tư tưởng tình cảm học sinh qua việc nhận định, đánh giá một sự kiện lịch sử gồm việc phân tích, nhận xét nội dung, nêu ý nghĩa, bài học kinh nghiệm của sự kiện… - Bài tập đánh giá về các hoạt động sản xuất, vận dụng khoa học kĩ thuật.... Ví dụ: Em hãy đánh giá những tác động của cuộc CM KH – CN đối với xã hội loài người - Bài tập nhằm phát triển các năng lực nhận thức lịch sử của học sinh: Tri giác, nhớ, hình dung, tưởng tượng, tư duy… Ví dụ: Tại sao ta quyết định mở cuộc tiến công Đông-Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ? Nêu diễn biến chính. Tác dụng của nó đối với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược - Bài tập nhằm rèn luyện khả năng vận dụng những kiến thức đã học để hiểu kiến thức mới, trên cơ sở so sánh đối chiếu với các kiến thức đã học Ví dụ: Thông qua chiến thắng Việt Bắc thu- đông 1947, chiến thắng Biên giới 1950, chiến thắng Đông-Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Em hãy làm rõ bước phát triển của cuộc kháng chiến chống Thực Dân Pháp xâm lược Thứ ba, nhóm bài tập thực hành lịch sử 18 Nhằm làm cho học sinh có biểu tượng chính xác, giàu hình ảnh, biết vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống, lao động và công tác. Vì vậy, nội dung bài tập thực hành giúp học sinh rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo thực hành bộ môn; đồng thời làm cho học sinh biết phân tích, giải thích, trình bày, nhận xét của mình về kết quả thực hành đó, qua đó bồi dưỡng cho các em những phẩm chất tốt đẹp, những hành động đúng. Nhóm bài tập này gồm các dạng bài sau: - Bài tập thực hành về xây dựng và sử dụng đồ dùng trực quan như vẽ bản đồ, lược đồ. Bao gồm vẽ, trình bày, giải thích, nhận xét, xác định địa danh, ghi kí hiệu. + Bài tập vẽ sơ đồ: Tương tự như vẽ bản đồ nhằm cụ thể hóa nội dung cơ bản của một sự kiện lịch sử cụ thể bằng những mô hình học đơn giản, diễn tả một cơ cấu tỏ chức xã hội, một chế độ chính trị, mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử Ví dụ: Vẽ sơ đồ tiến trình cách mạng tư sản Anh và cách mạng tư sản Pháp. Từ đó em hãy rút ra nhận xét về hai cuộc cách mạng này. + Bài tập vẽ đường trục thời gian: Nhằm bồi dưỡng cho học sinh ý niệm vè thời gian (thời điểm, khoảng cách thời gian) xảy ra sự kiện Ví dụ: Vẽ trục thời gian thể hiện bước phát triển đi lên của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954). + Bài tập vẽ biểu đồ: nhằm cụ thể hóa nội dung lịch sử, so sánh sự phát triển của một sự kiện lịch sử. Có thể từ những số liệu trong sách giáo khoa hay từ những tài liệu tham khảo đáng tin cậy do giáo viên cung cấp, giáo viên yêu cầu học sinh vẽ hình tròn hoặc hình trụ + Bài tập vẽ đồ thị: để diễn tả sự phát triển một sự kiện hay so sánh sự phát triển của các sự kiện khác nhau 19 Ví dụ: sau khi học sinh học xong bài “Việt Nam trên đường đi lên xây dựng CNXH (1975 – 1991), yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ biểu thị về tình hình kinh tế nước ta trong giai đoạn này. + Bài tập lập niên biểu: Nhằm kiểm tra sự hiểu biết của học sinh về trình độ cao hơn của nhận thức lịch sử. Ví dụ: lập niên biểu về các sự kiện quan trọng trong thời kì cách mạng 1930 – 1945. - Bài tập thực hành về sưu tầm hiện vật, tranh ảnh, tài liệu… nhất là tài liệu lịch sử địa phương. - Bài tập yêu cầu học sinh làm việc với tài liệu học tập như: sách giáo khoa, các đoạn trích từ các văn kiện Đảng, tìa liệu lịch sử khac hoặc có thể yêu cầu học sinh tự tìm hiểu rút ra kết luận trên cơ sở quan sát đồ dùng trực quan Thứ tư, nhóm bài tập tổng hợp lịch sử Bài tập dưới dạng tổng hợp là loại bài tập nhận biết lịch sử và bài tập nhận thức lịch sử. Nó không chỉ đòi hỏi học sinh phải nhận biết chính xác sự kiện, nhận thức đúng bản chất lịch sử mà còn đòi hỏi học sinh thể hiện trình độ lập luận, trình bày diễn đạt, nhằm giúp học sinh củng cố chắc kiến thức đã học và nâng cao trình độ hiểu biết của học sinh lên một mức độ mới. Nội dung bài tập không phải là lặp lại những việc đã làm trên lớp mà phải phát hiện thêm những khía cạnh mới của vấn đề hoặc mở rộng, bổ xung kiến thức đã biết sâu sắc hơn. Loại bài tập này thường yêu cầu học sinh phải nghiên cứu từ 2 đến 3 bài học, một chương hay một phần lịch sử mới trả lời được và nó thường có dạng cơ bản sau đây: Thứ nhất:câu hỏi thông thường có thể trả lời tự do Ví dụ: từ 1940 đến tháng 3-1945, Nhật và Pháp đã thi hành những thủ đoạn chính trị gì để lừa bịp nhân dân ta?. Có gì giống nhau trong mục đích của chúng? 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng