Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn xây dựng và sử dụng tài liệu tự học có hướng dẫn chương 6 kim loại kiềm kiề...

Tài liệu Skkn xây dựng và sử dụng tài liệu tự học có hướng dẫn chương 6 kim loại kiềm kiềm thổ nhôm.

.DOC
186
1205
101

Mô tả:

Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy MỤC LỤC Trang 2 Trang 42 Bản đăng ký sáng kiến năm học 2014 - 2015 Phụ lục Chương I Trang 97 Trang 101 Trang 130 Phần 4: Tài liệu tự học: Bài tập trắc nghiệm tổng hợp chương 6 Trang 161 Trang 180 Chương II Trang 185 Trang 186 Tài liệu tự học có hướng dẫn chương 6 – Kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ, nhôm - Hóa học lớp 12 THPT - Ban cơ bản. Phần 1: Tài liệu tự học có hướng dẫn với nội dung lý thuyết. Phần 2: Bài tự kiểm tra đánh giá kiến thức “chương 6 – Kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ, nhôm”. Phần 3: Tài liệu tự học có hướng dẫn với nội dung bài tập. Phần 3.1: Các dạng bài tập lý thuyết. Phần 3.2: Các dạng bài tập tính toán. Thực nghiệm sư phạm. Tài liệu tham khảo. Phụ lục 1 Một số tư liệu liên hệ thực tế về kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ, nhôm và các hợp chất của chúng DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Bài tập hóa học: BTHH Phương pháp dạy học: PPDH Kim loại kiềm: KLK Giáo viên: GV Kim loại kiềm thổ: KLKT Học sinh: HS Dung dịch: Dd (DD, dd) Thực nghiệm, thí nghiệm: TN Phương trình hóa học: PTHH Sách bài tập: SBT Tài liệu tự học: TLTH Sách giáo khoa: SGK Kiến thức: KT; Kĩ năng: KN Trắc nghiệm khách quan: TNKQ Bảng tuần hoàn: BTH Điều kiện tiêu chuẩn: đktc Trung học phổ thông: THPT Phương trình phản ứng: ptpư CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do – Hạnh phúc Sáng kiến kinh nghiệm 1 Năm học 2014 - 2015 Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy BẢN ĐĂNG KÝ SÁNG KIẾN NĂM HỌC 2014 - 2015 I. TÊN SÁNG KIẾN: “XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG TÀI LIỆU TỰ HỌC CÓ HƯỚNG DẪN THEO ĐỊNH HƯỚNG TÍCH CỰC “CHƯƠNG VI: KIM LOẠI KIỀM, KIM LOẠI KIỀM THỔ, NHÔM” HÓA HỌC LỚP 12 - THPT - BAN CƠ BẢN, NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC TỰ HỌC CỦA HỌC SINH”. II. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN: TRƯƠNG THỊ HỒNG CHIÊN Chức danh: Giáo viên. Trình độ chuyên môn: Cử Nhân Hóa Học. Địa chỉ: Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy, Thành Phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Email: [email protected] ĐTDĐ: 0946 108 599. III. NỘI DUNG SÁNG KIẾN. 1. Giải pháp cũ thường làm. 1.1. Phân tích sử dụng một số phương pháp dạy học truyền thống mà người thầy đóng vai trò trung tâm : a. Sử dụng phương pháp thuyết trình. Phương pháp thuyết trình là một phương pháp dạy học trong đó GV dùng lời nói, chữ viết để trình bày, giảng giải nội dung bài học, còn HS chủ yếu thụ động nghe, nhìn, ghi chép, tái hiện và ghi nhớ nội dung bài học. Phương pháp thuyết trình gồm các bước sau: - Bước 1: Đặt vấn đề. Mục đích của việc này là nhằm thu hút sự chú ý của HS và tạo tâm thế học tập, thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức cũ và kiến thức mới, đồng thời giới thiệu mục tiêu của bài học. Cách đặt vấn đề có thể là dựa vào kiến thức, vốn sống, kinh nghiệm đã có của HS hoặc dựa vào các tư liệu về lịch sử phát triển khoa học Vật lí, hoặc dựa vào hiện tượng thực tế có liên quan,… - Bước 2: Giải quyết vấn đề. Sáng kiến kinh nghiệm 2 Năm học 2014 - 2015 Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy Giải quyết theo từng nội dung trong bài, chú ý các đoạn chuyển tiếp giữa các phần, minh họa – giải thích, nêu vấn đề và giải quyết,… Có thể giải quyết vấn đề theo con đường quy nạp hoặc diễn dịch tuỳ theo đặc điểm nội dung bài học. - Bước 3: Kết luận. Tóm tắt những nội dung trọng tâm, hệ thống hoá và chỉ ra logic giữa các đơn vị kiến thức trong bài, củng cố bài học và giao nhiệm vụ tiếp cho HS. * Phương pháp này có ưu điểm là GV chủ động về mặt thời gian và kế hoạch lên lớp, do đó cũng chủ động thiết kế logic nội dung, cập nhật bổ sung kiến thức, tiết kiệm thời gian. * Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của phương pháp này là HS thụ động, việc truyền thụ kiến thức dễ mang tính áp đặt, dập khuôn máy móc, gây ra sự nhàm chán, khó tiếp thu, khó ghi nhớ; HS bị động, học trong tư tưởng gượng ép, học vẹt, nhanh quên, không có hứng thú và say mê môn học. Do vậy, khi sử dụng phương pháp này, cần chú ý các điểm sau: + Lời giảng của GV phải đủ to, rõ, không vi phạm các qui luật logic. + Tốc độ vừa phải, có định hướng ghi chép, theo dõi của HS. + Biết dừng đúng lúc với thời gian hợp lí. + Nội dung bài thuyết trình phải logic. + Tư thế, tác phong và cách diễn đạt của GV phải hấp dẫn, lôi cuốn HS. b. Sử dụng phương pháp đàm thoại. Phương pháp đàm thoại là phương pháp trong đó GV đặt ra một hệ thống câu hỏi, HS sẽ trả lời hay trao đổi với GV hoặc tranh luận giữa các thành viên trong lớp với nhau, qua đó HS sẽ củng cố, ôn tập kiến thức cũ và tiếp thu được kiến thức mới. Trong hệ thống câu hỏi, ngoài các câu hỏi chính còn có những câu hỏi phụ để gợi ý khi HS gặp khó khăn. Người ta thường chia ra hai dạng đàm thoại chính là: + Đàm thoại tái hiện: các câu hỏi, vấn đề do GV đặt ra đòi hỏi HS nhớ, tái hiện lại kiến thức, kinh nghiệm đã có thì có thể giải quyết được. Loại này chủ yếu dùng để ôn tập, củng cố kiến thức. + Đàm thoại gợi mở hay vấn đáp tìm tòi: Trong vấn đáp tìm tòi GV luôn đóng vai trò chỉ đạo, điều khiển hoạt động của HS. Hệ thống câu hỏi của GV giữ vai trò chỉ đạo, định hướng hoạt động nhận thức của HS. Trật tự logic của câu hỏi góp phần hướng dẫn HS từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, quy luật của hiện tượng và quá trình vật lí. Muốn nâng cao hiệu quả của phương pháp vấn đáp tìm tòi, GV cần đầu tư nâng cao chất lượng của các câu hỏi. Giảm bớt các câu hỏi có yêu cầu thấp về mặt nhận thức (chỉ đòi hỏi tái hiện kiến thức). Sáng kiến kinh nghiệm 3 Năm học 2014 - 2015 Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy Tăng dần số câu hỏi có yêu cầu cao về mặt nhận thức (câu hỏi có sự thông hiểu và sáng tạo trong vận dụng kiến thức để trả lời câu hỏi, cũng như đòi hỏi cả sự phân tích, hệ thống hoá, khái quát hoá,… kiến thức). Loại câu hỏi thứ hai có tác dụng kích thích tư duy tích cực của HS. Tuy nhiên, cũng không nên xem thường loại câu hỏi thứ nhất, vì không tích lũy kiến thức đến một mức độ nhất định nào đó thì khó mà tư duy sáng tạo. 1.2. Quy trình chuẩn bị và thực hiện một giờ học theo phương pháp dạy học truyền thống. a. Quy trình chuẩn bị một giờ học. Hoạt động chuẩn bị cho một giờ dạy học đối với GV thường được thể hiện qua việc chuẩn bị giáo án. Đây là hoạt động xây dựng kế hoạch dạy học cho một bài học cụ thể, thể hiện mối quan hệ tương tác giữa GV với HS, giữa HS với HS nhằm đạt được những mục tiêu của bài học. Hoạt động chuẩn bị cho một giờ học có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng, quyết định nhiều tới chất lượng và hiệu quả giờ dạy học. Từ thực tế dạy học, có thể tổng kết thành quy trình chuẩn bị một giờ học với các bước thiết kế một giáo án và khung cấu trúc của một giáo án cụ thể như sau: * Các bước thiết kế một giáo án - Bước 1: Xác định mục tiêu của bài học căn cứ vào chuẩn kiến thức (KT), kĩ năng (KN) và yêu cầu về thái độ trong chương trình. Bước này được đặt ra bởi việc xác định mục tiêu của bài học là một khâu rất quan trọng, đóng vai trò thứ nhất, không thể thiếu của mỗi giáo án. Mục tiêu (yêu cầu) vừa là cái đích hướng tới, vừa là yêu cầu cần đạt của giờ học; hay nói khác đi đó là thước đo kết quả quá trình dạy học. Nó giúp GV xác định rõ các nhiệm vụ sẽ phải làm (dẫn dắt HS tìm hiểu, vận dụng những KT, KN nào; phạm vi, mức độ đến đâu; qua đó giáo dục cho HS những bài học gì). - Bước 2: Nghiên cứu SGK và các tài liệu liên quan để: hiểu chính xác, đầy đủ những nội dung của bài học; xác định những KT, KN, thái độ cơ bản cần hình thành và phát triển ở HS; xác định trình tự logic của bài học. (Đúc kết được phạm vi, mức độ KT, KN của từng bài học sao cho phù hợp với năng lực của HS và điều kiện dạy học. Trong thực tế dạy học, nhiều khi chúng ta thường đi chưa tới hoặc đi quá những yêu cầu cần đạt về KT, KN. Nếu nắm vững nội dung bài học, GV sẽ phác họa những nội dung và trình tự nội dung của bài giảng phù hợp, thậm chí có thể cải tiến cách trình bày các mạch KT, KN của SGK, xây dựng một hệ thống câu hỏi, bài tập giúp HS nhận thức, khám phá, vận dụng các KT, KN trong bài một cách thích hợp). Sáng kiến kinh nghiệm 4 Năm học 2014 - 2015 Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy - Bước 3: Xác định khả năng đáp ứng các nhiệm vụ nhận thức của HS, gồm: xác định những KT, KN mà HS đã có và cần có; dự kiến những khó khăn, những tình huống có thể nảy sinh và các phương án giải quyết. - Bước 4: Lựa chọn PPDH, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách thức đánh giá thích hợp nhằm giúp HS học tập tích cực, chủ động, sáng tạo. Bước này được đặt ra bởi trong giờ học theo định hướng đổi mới PPDH, GV phải quan tâm tới việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, KN vận dụng KT vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; tác động đến tư tưởng và tình cảm để đem lại niềm vui, hứng thú trong học tập cho HS. Trong thực tiễn dạy học hiện nay, các GV vẫn quen với lối dạy học đồng loạt với những nhiệm vụ học tập không có tính phân hoá, ít chú ý tới năng lực học tập của từng đối tượng HS. Đổi mới PPDH sẽ chú trọng cải tiến thực tiễn này, phát huy thế mạnh tổng hợp của các PPDH, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách thức đánh giá nhằm tăng cường sự tích cực học tập của các đối tượng HS trong giờ học. - Bước 5: Thiết kế giáo án. Đây là bước người GV bắt tay vào soạn giáo án - thiết kế nội dung, nhiệm vụ, cách thức hoạt động, thời gian và yêu cầu cần đạt cho từng hoạt động dạy của GV và hoạt động học tập của HS. Trong thực tế, có nhiều GV khi soạn bài thường chỉ đọc SGK, sách GV và bắt tay ngay vào hoạt động thiết kế giáo án; thậm chí, có GV chỉ căn cứ vào những gợi ý của sách GV để thiết kế giáo án bỏ qua các khâu xác định mục tiêu bài học, xác định khả năng đáp ứng nhiệm vụ học tập của HS, nghiên cứu nội dung dạy học, lựa chọn các PPDH, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách thức đánh giá thích hợp nhằm giúp HS học tập tích cực, chủ động, sáng tạo. Cách làm như vậy không thể giúp GV có được một giáo án tốt và có những điều kiện để thực hiện một giờ dạy học tốt. Về nguyên tắc, cần phải thực hiện qua các bước 1, 2, 3, 4 trên đây rồi hãy bắt tay vào soạn giáo án cụ thể. * Cấu trúc của một giáo án được thể hiện ở các nội dung sau: - Mục tiêu bài học: + Nêu rõ yêu cầu HS cần đạt về KT, KN, thái độ; + Các mục tiêu được biểu đạt bằng động từ cụ thể, có thể lượng hoá được. - Chuẩn bị về phương pháp và phương tiện dạy học: Sáng kiến kinh nghiệm 5 Năm học 2014 - 2015 Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy + GV chuẩn bị các thiết bị dạy học (tranh ảnh, mô hình, hiện vật, hoá chất,...), các phương tiện dạy học (máy chiếu, TV, đầu video, máy tính,...) và tài liệu dạy học cần thiết; + Hướng dẫn HS chuẩn bị bài học (soạn bài, làm bài tập, chuẩn bị tài liệu và đồ dùng học tập cần thiết). - Tổ chức các hoạt động dạy học: Trình bày rõ cách thức triển khai các hoạt động dạy- học cụ thể. Với mỗi hoạt động cần chỉ rõ: + Tên hoạt động ; + Mục tiêu của hoạt động; + Cách tiến hành hoạt động; + Thời lượng để thực hiện hoạt động; + Kết luận của GV về: những KT, KN, thái độ HS cần có sau hoạt động; những tình huống thực tiễn có thể vận dụng KT, KN, thái độ đã học để giải quyết; những sai sót thường gặp; những hậu quả có thể xảy ra nếu không có cách giải quyết phù hợp;... - Hướng dẫn các hoạt động tiếp nối: xác định những việc HS cần phải tiếp tục thực hiện sau giờ học để củng cố, khắc sâu, mở rộng bài cũ hoặc để chuẩn bị cho việc học bài mới. b. Thực hiện giờ dạy học. Một giờ dạy học nên được thực hiện theo các bước cơ bản sau: * Kiểm tra sự chuẩn bị của HS. - Kiểm tra tình hình nắm vững bài học cũ và những KT, KN đã học có liên quan đến bài mới. - Kiểm tra tình hình chuẩn bị bài mới (soạn bài, làm bài tập, chuẩn bị tài liệu và đồ dùng học tập cần thiết)) Lưu ý: Việc kiểm tra sự chuẩn bị của HS có thể thực hiện đầu giờ học hoặc có thể đan xen trong quá trình dạy bài mới. * Tổ chức dạy và học bài mới. - GV giới thiệu bài mới: nêu nhiệm vụ học tập và cách thức thực hiện để đạt được mục tiêu bài học; tạo động cơ học tập cho HS. - GV tổ chức, hướng dẫn HS suy nghĩ, tìm hiểu, khám phá và lĩnh hội nội dung bài học, nhằm đạt được mục tiêu bài học với sự vận dụng PPDH phù hợp. * Luyện tập, củng cố. GV hướng dẫn HS củng cố, khắc sâu những KT, KN, thái độ đã có thông qua hoạt động thực hành luyện tập có tính tổng hợp, nâng cao theo những hình thức khác nhau. * Đánh giá. Sáng kiến kinh nghiệm 6 Năm học 2014 - 2015 Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy - Trên cơ sở đối chiếu với mục tiêu bài học, GV dự kiến một số câu hỏi, bài tập và tổ chức cho HS tự đánh giá về kết quả học tập của bản thân và của bạn. - GV đánh giá, tổng kết về kết quả giờ học. * Hướng dẫn HS học bài, làm việc ở nhà. - GV hướng dẫn HS luyện tập, củng cố bài cũ (thông qua làm bài tập, thực hành, thí nghiệm,…). - GV hướng dẫn HS chuẩn bị bài học mới. 2. Giải pháp mới cải tiến. 2.1. Lý do chọn đề tài sáng kiến: Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước, đổi mới nền giáo dục và đào tạo là một trong những trọng tâm của sự phát triển. Muốn nâng cao chất lượng giáo dục, chúng ta phải đổi mới nội dung và đổi mới phương pháp dạy học ở các môn học, các cấp bậc học. Đổi mới phương pháp dạy học đã và đang là vấn đề hết sức cấp bách hiện nay. Ngày nay, nền kinh tế tri thức đòi hỏi ngành giáo dục phải đào tạo ra những con người năng động sáng tạo, có khả năng tự học và tự đánh giá, biết cách cộng tác với mọi người, để phát triển cá nhân hoà hợp với sự phát triển chung của cộng đồng . Do đó, từ chỗ áp dụng các phương pháp dạy học mà người thầy đóng vai trò trung tâm, thì chúng ta phải chuyển sang hướng dạy học lấy học sinh làm trung tâm, nhằm phát huy tính tích cực chủ động của người học. Có như thế thì chúng ta mới tạo ra được những “sản phẩm chất lượng cao” đáp ứng cho nhu cầu của xã hội. Để lựa chọn được phương pháp dạy học vào thực tế có hiệu quả không thể bỏ qua vấn đề tự học của học sinh. Quá trình dạy học thành công của giáo viên có quan hệ biện chứng với quá trình tự học của học sinh. Vì vậy, thước đo hiệu quả của phương pháp dạy học là kết quả của tự học. Dạy học trong nhà trường không phải là cung cấp một khối lượng tri thức hàn lâm kinh điển mà dạy cho người học phương pháp tiếp cận thông tin, phương pháp tư duy để họ có thể tiếp tục học sau khi rời ghế nhà trường. Thực chất của phương pháp dạy học này là dạy cách học, cách tự học để học tập suốt đời. Hiện nay, nước ta cũng như các nước trên thế giới đều quan tâm đến vấn đề tự học không chỉ trong các trường Đại học mà ngay cả ở bậc giáo dục phổ thông. Nghị quyết Trung ương V khóa 8 từng nêu rõ: “ Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học, tự sáng tạo của học sinh, Bảo đảm mọi điều kiện và thời gian tự học cho học sinh, phát triển mạnh mẽ phong Sáng kiến kinh nghiệm 7 Năm học 2014 - 2015 Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân”. Trên tinh thần ấy, rõ ràng Đảng ta đã coi tự học, tự đào tạo là vấn đề mấu chốt có vị trí cực kì quan trọng trong chiến lược giáo dục - đào tạo của đất nước. Bởi tự học và học suốt đời là một trong những chìa khoá bước vào thế kỷ XXI. Đặc biệt trong quan niệm mới về “học tập suốt đời: Một động lực của xã hội” sẽ giúp con người đáp ứng yêu cầu của một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Điều này thể hiện những đòi hỏi đang ngày càng mãnh liệt hơn “Không thể thoả mãn những đòi hỏi đó được, nếu mỗi người không học cách học”. Như vậy, việc hướng dẫn học sinh phương pháp tự học: Chủ động sáng tạo và tự mình thực hiện nhiệm vụ học tập, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, lĩnh hội kiến thức mới, ôn luyện kiến thức cũ là một nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong nhà trường phổ thông hiện nay mà mỗi thầy cô giáo dạy học ở các môn học, các cấp bậc học đều phải quan tâm, chung tay thực hiện góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Trong quá trình dạy học Hóa học cần phải giải đáp được ba câu hỏi lớn: - Dạy và học Hóa học để làm gì (mục đích và nhiệm vụ của môn Hóa học)? - Dạy và học cái gì (nội dung môn Hóa học)? - Dạy và học như thế nào (phương pháp, phương tiện, tổ chức việc dạy và việc học)? Ba câu hỏi trên liên quan đến ba nhiệm vụ cơ bản của phương pháp dạy học hóa học: Nhiệm vụ thứ nhất đòi hỏi phải làm sáng tỏ mục đích của việc dạy và học môn Hóa học trong trường phổ thông: không chỉ chú ý nhiệm vụ cung cấp và tiếp thu nền học vấn Hóa học phổ thông mà còn phải chú ý tới nhiệm vụ giáo dục thế giới quan, đạo đức cách mạng và nhiệm vụ phát triển tiềm lực trí tuệ cho học sinh. Nhiệm vụ thứ hai đòi hỏi phải xây dựng nội dung môn Hóa học trong nhà trường phổ thông Việt Nam đáp ứng được những yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới. Nhiệm vụ thứ ba đòi hỏi phải nghiên cứu chỉ ra được những phương pháp, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức việc dạy và việc học tối ưu, trong đó trước hết chú ý nghiên cứu việc giảng dạy của giáo viên và đi liền là việc tự học của học sinh. Trong quá trình dạy học ở trường THPT, bản thân tôi và các đồng nghiệp luôn cố gắng dạy học làm sao để học sinh nắm vững được kiến thức, hình thành thế giới quan, khơi dậy cho các em hứng thú học tập, rèn tính tự giác, tích cực, chủ động góp phần phát triển tiềm lực trí tuệ, phát triển năng lực nhận thức cho các em học sinh. Hoá học là bộ môn khoa học thực nghiệm nên có rất nhiều khả năng trong việc phát triển năng lực nhận thức cho học sinh ở nhiều góc độ. Nếu giáo viên có một hệ thống các giáo án được thiết kế hay, theo hướng dạy học tích cực, có những tập tài liệu, chuyên đề hướng Sáng kiến kinh nghiệm 8 Năm học 2014 - 2015 Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy dẫn học sinh phương pháp tự học thì chắc chắn việc giảng dạy sẽ có hiệu quả cao hơn. Trong chương trình Hoá học phổ thông, tôi nhận thấy phần kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ và nhôm có nội dung hết sức phong phú, đa dạng, có nhiều ứng dụng quan trọng trong cuộc sống và là kiến thức chủ đạo của hoá học vô cơ trong các đề thi đại học vì nó liên quan đến nhiều phần khác như: phản ứng oxi hoá – khử, phi kim, axit, bazơ, muối, ancol,... Những lí do trên đã thôi thúc tôi quyết định thực hiện đề tài nghiên cứu: “ Xây dựng và sử dụng tài liệu tự học có hướng dẫn theo định hướng tích cực “chương 6: Kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ, nhôm” – Hóa học lớp 12 THPT - Ban cơ bản, nhằm nâng cao năng lực tự học của học sinh.” với mong muốn đề tài sáng kiến của mình sẽ góp phần thiết thực vào việc đổi mới phương pháp dạy học hóa học nâng cao năng lực tự học của học sinh hiện nay. 2.2. Khách thể và đối tượng nghiên cứu: Quá trình giảng dạy, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh trong “chương 6: Kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ, nhôm” – Hóa học lớp 12 THPT - Ban cơ bản ở trường THPT. 2.3. Cơ sở lý luận. 2.3.1. Dạy học hóa học theo hướng tích cực: Dạy học tích cực là quá trình dạy học phát huy được cao độ tính tích cực nhận thức của học sinh trong hoạt động học tập, nó được dựa trên cơ sở quan niệm về tính tích cực hóa hoạt động của học sinh và lấy học sinh làm trung tâm của quá trình học tập. Để đạt được tính tích cực trong dạy học cần phải đổi mới về “chất” tất cả các quá trình dạy học Hóa học. Quá trình dạy học Hóa học là một hệ toàn vẹn bao gồm các thành tố: Mục đích, nội dung dạy học, phương pháp và phương tiện dạy học, hoạt động dạy của giáo viên, hoạt động học của học sinh, hình thức tổ chức dạy học và kết quả của sự dạy học. Các thành tố này có mối quan hệ chặt chẽ, quan hệ thống nhất và chi phối lẫn nhau. Mục đích dạy học xác định nội dung, cấu trúc tiến trình và việc lựa chọn phương pháp và phương tiện, hình thức tổ chức dạy học khác nhau. Theo phương hướng dạy học tích cực cần đảm bảo tính hệ thống trong việc đổi mới, khai thác các yếu tố tích cực trong các thành tố của cả quá trình dạy học hóa học. Việc đổi mới cần được thực hiện từ sự đổi mới mục tiêu giáo dục, nội dung dạy học. Khai thác các yếu tố tích cực trong hoạt động dạy và hoạt động học, sử dụng phương pháp và phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh để có được hình ảnh chân thực về kết quả của quá trình dạy học. Sáng kiến kinh nghiệm 9 Năm học 2014 - 2015 Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy Theo phương hướng dạy học tích cực, để tạo điều kiện cho học sinh tham gia vào hoạt đông nhận thức, giáo viên cần sử dụng các phương tiện dạy học như là nguồn tri thức để học sinh tìm tòi, phát hiện ra tri thức cần lĩnh hội. Giáo viện sử dụng các phương tiện dạy học phối hợp với lời giảng theo phương pháp nghiên cứu, tổ chức cho học sinh tìm tòi, nghiên cứu qua các phương tiện dạy học đó mà rút ra các kết luận cần thiết. 2.3.2. Phân tích sử dụng một số phương pháp dạy học truyền thống theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh. Các phương pháp dạy học tích cực hình thành và phát triển từ lâu, tuy nhiên do những yêu cầu đổi mới giáo dục nhằm đào tạo thế hệ trẻ thành những con người phát triển, năng động và sáng tạo, nên các phương pháp này ngày càng được đặc biệt quan tâm hơn. Trong các phương pháp dạy học tích cực, người ta đề cao vai trò hoạt động của HS, nhưng không hề hạ thấp hay giảm nhẹ vai trò của GV. Trái lại, người GV càng có vai trò quan trọng hơn và được chuyển đổi từ vai trò là người truyền đạt kiến thức sang vai trò là người tổ chức, điều khiển, hướng dẫn hoạt động nhận thức của HS. Phương pháp dạy học tích cực không phải là một phương pháp dạy học cụ thể, chuyên biệt nào đó, cũng không phải là sự phủ nhận các phương pháp dạy học truyền thống mà là muốn nhấn mạnh một định hướng khai thác mặt tích cực của các phương pháp dạy học hiện có. Những phương pháp như thuyết trình, đàm thoại…vẫn rất cần thiết trong quá trình dạy học. Điều cốt yếu là phải lựa chọn và vận dụng các phương pháp sao cho phù hợp với nội dung của bài dạy và đặc biệt là phù hợp với đối tượng HS, trong đó cần chú ý khai thác và sử dụng các kĩ thuật dạy học nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức và phát triển tư duy của HS, hình thành cho các em khả năng độc lập, năng động, sáng tạo trong việc tiếp thu và xử lí thông tin, cũng như trong việc giải quyết những công việc cụ thể sau này. Trước hết ta hãy bàn về những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực mà người thày giáo sử dụng trong các giờ học. Thứ nhất: dạy học thông qua việc tổ chức các hoạt động học tập của HS. Nét đặc thù của hoạt động dạy học là: HS vừa là đối tượng vừa là chủ thể của quá trình dạy học. HS không chỉ tiếp thu những kiến thức từ người dạy, mà phải thông qua hoạt động tự lực để chiếm lĩnh nó và làm biến đổi bản thân. Tâm lí học sư phạm cũng khẳng định rằng: nhân cách của trẻ được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động có ý thức của chủ thể. Vì vậy có thể nói, hoạt động học là cách tốt nhất để làm biến đổi chính người học. Dạy học không còn là sự Sáng kiến kinh nghiệm 10 Năm học 2014 - 2015 Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy truyền thông tin từ thầy sang trò, thầy không còn là người truyền thông tin mà phải là người tổ chức, hướng dẫn, điều khiển các hoạt động học tập của HS. Thứ hai: chú trọng rèn luyện phương pháp tự học hơn là việc truyền thụ kiến thức. Câu nói: “Người thầy giáo tồi truyền đạt chân lí, người thầy giáo giỏi dạy cách tìm ra chân lí” là hoàn toàn chính xác. Rèn luyện cho HS phương pháp tự học không chỉ là biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu của dạy học. Con người được đào tạo trước hết phải là con người năng động, có tính tích cực, có khả năng tự học, tự nghiên cứu để tự hoàn thiện mình. Mặt khác, trong một thời gian ngắn nhà trường phổ thông không thể kịp trang bị cho HS những kiến thức cần thiết trong kho tàng kiến thức của nhân loại đang ngày một phong phú thêm. Do vậy, người thày phải tìm cách hình thành ở HS phương pháp và năng lực tự học, tự nghiên cứu để có thể tự chiếm lĩnh kiến thức và hoàn thiện bản thân sau này. Thứ ba: Tăng cường tính tự lực của cá nhân HS đồng thời chú trọng phối hợp tương tác thày – trò và tương tác nhóm. Phương pháp dạy học tích cực đòi hỏi sự cố gắng và nỗ lực của mỗi HS trong quá trình tự chiếm lĩnh kiến thức mới. Vì vậy, phải chú ý đến vai trò của từng cá nhân trong hoạt động dạy học. Tuy nhiên, vai trò cá nhân chỉ có thể phát huy tốt thông qua sự tương tác giữa GV và HS, giữa HS và HS và tương tác giữa các nhóm với nhau, đó chính là phương pháp học tập hợp tác. Trong phương pháp này, người ta đề cao vai trò giao tiếp giữa HS và HS. Để phát huy vai trò của HS người ta thường tổ chức việc học tập hợp tác theo kiểu nhóm, tổ từ 4 đến 6 người. Học tập nhóm, tổ tạo cho HS có nhiều cơ hội bộc lộ suy nghĩ, hiểu biết và thái độ của mình, cũng như biết cách bảo vệ ý kiến của mình. Đó là cách tốt nhất để hình thành cho HS tính tích cực, độc lập và sáng tạo trong suy nghĩ, cũng như hành động. Thứ tư: Kết hợp đánh giá của GV và tự đánh giá của HS. Quá trình dạy học bao gồm hai hoạt động dạy và học, với hai chủ thể là GV và HS. Trong quá trình này luôn có sự điều chỉnh và tự điều chỉnh. Vì vậy, ngoài sự đánh giá của GV, phải có sự tự đánh giá của HS. Qua tự đánh giá, HS sẽ đưa ra những nhận định về bản thân và tự điều chỉnh cách học của mình cho phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả học tập. Trong phương pháp dạy học tích cực, người ta chú trọng đến việc dạy cho HS cách tự học đi kèm theo là năng lực tự đánh giá của HS. Thiếu năng lực này HS không thể tự điều chỉnh cách học của mình và không hoàn chỉnh được phương pháp tự học. Như vậy, năng lực tự học luôn gắn liền với năng lực tự đánh giá, tự điều chỉnh, mà tự học là dấu hiệu Sáng kiến kinh nghiệm 11 Năm học 2014 - 2015 Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy của phương pháp tích cực. Do vậy, khả năng rèn luyện năng lực tự đánh giá của HS cũng là một dấu hiệu của phương pháp dạy học tích cực theo một mô hình mới. 2.3.3. Học là gì? Tự học là gì? Tự học quan trọng như thế nào? Cách tự học tốt nhất như thế nào? a. Học là gì? Tự học là gì? Thực trạng tự học hiện nay của HS THPT? Ngày nay, khi khoa học kĩ thuật phát triển thì việc học tập cũng phát triển theo. Chính vì vậy các em học sinh đã sáng tạo ra rất nhiều cách học nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho bản thân. Nhưng theo tôi: trong học tập, tự học là cách học tốt nhất giúp ta tiến bộ hơn trong khi học. Và khi nói đến vấn đề này, tôi muốn mọi người hiểu được trước nhất là ý nghĩa của việc học rồi mới đến cách tự học. Vậy học là gì ? Tự học là gì ? Học là quá trình con người tiếp thu những kiến thức, kĩ năng, thông tin qua các giác quan do người khác truyền lại, não bộ xử lý các thông tin trở thành kiến thức của mình, vận dụng vào thực tế và tự học là việc con người phát huy những kiến thức, kĩ năng đã được truyền lại bằng chính sức lực, khả năng của riêng mình. Thực tế ngày nay cho thấy các cách học của học sinh chưa mang lại hiệu quả cao. Học sinh ngày nay đã quá phụ thuộc vào các bài giảng của thầy cô trên lớp, thầy cô dạy như thế nào thì lại hiểu và học như thế ấy dẫn đến quá trình thụ động, thiếu suy nghĩ và thiếu sáng tạo trong lúc học để đào sâu kho tàng kiến thức còn ẩn sâu sau các bài giảng của thầy cô. Và cũng chính vì chỉ học cô đọng trong các bài giảng bốn mươi lăm phút trên lớp của thầy cô mà dẫn đến tình trạng học sinh phải đi học thêm tràn lan. Mà khi đã học thêm tràn lan thì lại càng khiến học sinh không chịu tự học, càng thêm phụ thuộc vào việc học thêm. Thêm việc ngày nay khi việc học được nâng cao thì có quá nhiều sách tham khảo, văn mẫu, hướng dẫn... dẫn đến việc học sinh đâm lười suy nghĩ trong khi làm các bài tập. Hậu quả của những việc trên rất nặng nề vì như vậy sẽ dễ dẫn đến hiện tượng "học vẹt": học thuộc bài nhưng không hiểu nội dung, vấn đề được nêu ra trong bài dẫn đến việc học xong là quên ngay, kiến thức không bền và sẽ không làm được các bài tập thực hành, chỉ học lí thuyết suông, kiến thức sẽ ngày càng rỗng, thành tích học tập sẽ càng sút kém khiến bản thân đâm nản chí. Một khi kiến thức đã trang bị không chắc chắn thì kết quả sẽ không bao giờ cao. Chính những thực tế được nêu trên lại càng khẳng định việc tự học cho bản thân là rất quan trọng. Nó chính là một chiếc chìa khóa đưa ta đến kho tàng tri thức, là điều kiện giúp ta thành công trong học tập. Nếu chúng ta biết tự học Sáng kiến kinh nghiệm 12 Năm học 2014 - 2015 Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy cho bản thân thì chúng ta chắc chắn sẽ thành công và nâng cao được tri thức của chính mình. Tự học giúp con người có được ý thức tốt nhất trong quá trình học: chủ động suy nghĩ, tìm tòi, khám phá, nghiên cứu và nắm được bản chất vấn đề từ đó tự học giúp ta tiếp thu được kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau như sách, báo, từ truyền hình ti vi, từ bạn bè hoặc từ những người xung quanh, những kinh nghiệm sống của nhân dân. Giáo sư – Tiến sĩ Khoa học Thái Duy Tuyên đã viết: “Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp,…) cùng các phẩm chất, động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học”. Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/ 1998 cũng bàn về khái niệm tự học: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự đặt mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp,… Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học”. Giáo sư Trần Phương cũng cho rằng: “ Học bao giờ và lúc nào cũng chủ yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích lũy từ nhiều thế hệ của nhân loại thành kiến thức của mình, tự cải tạo tư duy của mình và rèn luyện cho mình kĩ năng thực hành những tri thức ấy”. Từ những quan niệm trên đây có thể nhận thấy rằng, khái niệm tự học luôn đi cùng, gắn bó chặt chẽ với khái niệm tự thân. Tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng của mỗi cá nhân chỉ được hình thành bền vững và phát huy hiệu quả thông qua các hoạt động tự thân ấy. Để có được, đạt tới sự hoàn thiện thì mỗi người, mỗi HS phải tự thân tiếp nhận tri thức từ nhiều nguồn; Tự thân rèn luyện các kĩ năng; Tự thân bồi dưỡng tâm hồn của mình ở mọi nơi mọi lúc. Tự học giúp ta có thể chủ động ghi nhớ các bài giảng trên lớp, tiết kiệm được thời gian, có thể tiếp thu một lượng kiến thức lớn mà vẫn hiểu và nắm chắc bài học. Và qua tự học, từ lý thuyết, chúng ta biết chủ động luyện tập thực hành, giúp ta có thể nhanh chóng hình thành kĩ năng, củng cố và nâng cao kiến thức đã học.Vì vậy, chủ động tự học sẽ giúp ta tìm ra được phương pháp học tốt nhất mang lại hiệu quả cao cho chính bản thân mình. Tôi khẳng định rằng tự học là chìa khóa, là con đường đưa ta đến thành công. Tấm gương sáng thành công nhờ đã từng nỗ lực tự học là Bác Hồ kính yêu của dân tộc ta, Bác đã tự say mê tìm tòi học hỏi và đã thành công, Sáng kiến kinh nghiệm 13 Năm học 2014 - 2015 Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy thông thuộc được nhiều ngôn ngữ của các nước trên thế giới và tìm ra được con đường cứu nước, đưa cả dân tộc Việt Nam ra khỏi ách đô hộ của giặc Tây tàn ác, hướng đến nền độc lập, dân chủ, tự do, hạnh phúc ngày nay. Chính vì vậy, tự học là cách tốt nhất giúp ta tiến bộ hơn trong học tập, mang lại một kết quả học tập cao nhất có thể. Nếu chúng ta biết nỗ lực tự học, chúng ta sẽ thành công, sẽ mở được một tương lai rộng mở cho chính mình. Nếu chúng ta học tập thành công, chúng ta sẽ trở thành những người có ích cho xã hội, cho đất nước, đưa đất nước ngày càng đi lên, phát triển đến một tầm cao mới b. Vị trí vai trò của tự học. Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học. Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức rõ ý nghĩa của phương pháp dạy tự học. Trong quá trình hoạt động dạy học (DH), giáo viên (GV) không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những tri thức có sẵn, chỉ cần yêu cầu HS ghi nhớ mà quan trọng hơn là phải định hướng, tổ chức cho HS tự mình khám phá ra những qui luật, thuộc tính mới của các vấn đề khoa học. Giúp HS không chỉ nắm bắt được tri thức mà còn biết cách tìm đến những tri thức ấy. Thực tiễn cũng như phương pháp dạy học hiện đại còn xác định rõ: càng học lên cao thì tự học càng cần được coi trọng, nói tới phương pháp dạy học thì cốt lõi chính là dạy tự học. Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Nhất là đối với HS THPT cần phải ghi nhớ một lượng kiến thức rất lớn chuẩn bị cho kỳ thi đại học, cao đẳng quyết định bước ngoặt cuộc đời của mình, mà để đạt được sự ghi nhớ tốt nhất và có kết quả thi đại học tốt nhất (đặc biệt đối với bộ môn Hóa học rất dễ bị “mất gốc”) thì không thể không thông qua con đường tự học. HS muốn thành công trên bước đường học tập và nghiên cứu sau này thì phải có khả năng phát hiện và tự giải quyết những vấn đề mà cuộc sống, khoa học đặt ra. Bồi dưỡng năng lực tự học là phương cách tốt nhất để tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá trình học tập. Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân là tính tích cực, sự chủ động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh.Và một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là hình thành phẩm chất đó cho người học. Bởi từ đó nền giáo dục mới mong đào tạo ra những lớp người năng động, sáng tạo, thích ứng với mọi thị trường lao động, góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực (hình thành từ năng lực tự học) như một điều kiện, kết quả của sự phát triển nhân cách thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại. Trong đó hoạt động tự học là những biểu hiện sự gắng sức cao về nhiều mặt của từng cá nhân người học trong quá trình nhận thức thông qua sự hưng phấn tích cực. Mà hưng phấn chính là tiền đề cho mọi hứng thú trong học tập. Có hứng thú người học mới có được sự tự giác Sáng kiến kinh nghiệm 14 Năm học 2014 - 2015 Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy say mê tìm tòi nghiên cứu khám phá. Hứng thú là động lực dẫn tới tự giác. Tính tích cực của con người chỉ được hình thành trên cơ sở sự phối hợp ngẫu nhiên giữa hứng thú với tự giác. Nó bảo đảm cho sự định hình tính độc lập trong học tập. Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời, học tập để khẳng định năng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con người thích ứng với mọi biến cố của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học mỗi cá nhân sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả những thách thức to lớn từ môi trường nghề nghiệp. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao. Với những lí do nêu trên có thể nhận thấy, nếu xây dựng được phương pháp tự học, đặc biệt là sự tự giác, ý chí tích cực chủ động sáng tạo sẽ khơi dậy năng lực tiềm tàng, tạo ra động lực nội sinh to lớn cho người học. c. Cách tự học như thế nào là tốt nhất? Trong quá trình học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa là tự mình lao động trí óc để chiếm lĩnh kiến thức. Trong tự học, bước đầu thường có nhiều lúng túng nhưng chính những lúng túng đó lại là động lực thúc đẩy học sinh tư duy để thoát khỏi “lúng túng”, nhờ vậy mà thành thạo lên, và ghi nhớ được lâu, vận dụng lý thuyết vào bài tập ngày càng nhanh nhậy và chính xác hơn, hiệu quả hơn. Biện pháp thực hiện: Trong quá trình học tập, việc xác định mục đích, xây dựng động cơ, lựa chọn phương pháp, hình thức tự học hợp lý là cần thiết. Song điều quan trọng là học sinh phải có hệ thống kỹ năng tự học, kỹ năng làm việc độc lập, trên cơ sở phát huy tính tích cực nhận thức để chiếm lĩnh hệ thống tri thức. Vì tri thức là sản phẩm của hoạt động, muốn nắm vững tri thức thì việc rèn luyện hệ thống kỹ năng tự học một cách thường xuyên và nghiêm túc phải được chú trọng ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông. Như vậy, để hoạt động học tập của học sinh đạt chất lượng và hiệu quả, học sinh phải có tri thức và kỹ năng tự học. Chính kỹ năng tự học là điều kiện vật chất bên trong để học sinh biến động cơ tự học thành kết quả cụ thể và làm cho học sinh tự tin vào bản thân mình, bồi dưỡng và phát triển hứng thú, duy trì tính tích cực nhận thức trong hoạt động tự học của họ. Sáng kiến kinh nghiệm 15 Năm học 2014 - 2015 Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy Vận dụng hệ các phương pháp tự học nêu trên vào chu trình tự học của học sinh . Đó là một chu trình ba giai đoạn: - Giai đoạn 1- Tự nghiên cứu: Người học tự tìm tòi, quan sát, mô tả, giải thích, phát hiện vấn đề, định hướng, giải quyết vấn đề, tự tìm ra kiến thức mới (chỉ mới đối với người học) và tạo ra sản phẩm ban đầu hay sản phẩm thô có tính chất cá nhân theo hệ thống câu hỏi, bài tập hướng dẫn của GV. - Giai đoạn 2 - Tự thể hiện: Người học tự thể hiện mình bằng văn bản, bằng lời nói, tự trình bày, bảo vệ kiến thức hay sản phẩm cá nhân ban đầu của mình, tự thể hiện qua sự đối thoại, giao tiếp với các bạn và thầy cô - Giai đoạn 3 - Tự kiểm tra, tự điều chỉnh: Sau khi tự thể hiện mình qua sự hợp tác trao đổi với các bạn và thầy cô, sau khi thầy cô kết luận, người học tự kiểm tra, tự đánh giá sản phẩm ban đầu của mình, tự sửa sai, tự điều chỉnh thành sản phẩm khoa học. Chu trình trên bước đầu chỉ ra cho HS con đường phát hiện vấn đề, định hướng giải quyết, và giải quyết vấn đề của nghiên cứu khoa học ở bậc đại học sau này. Rèn luyện phương pháp tự học phải trở thành một mục tiêu học tập của học sinh. Tự học có ý nghĩa to lớn đối với bản thân học sinh để hoàn thành nhiệm vụ học tập của họ đối với chất lượng, hiệu quả của quá trình dạy học trong nhà trường phổ thông. Tự học là sự thể hiện đầy đủ nhất vai trò chủ thể trong quá trình nhận thức của học sinh. Trong quá trình đó, người học hoàn toàn chủ động và độc lập, tự lực tìm tòi, khám phá để lĩnh hội tri thức dưới sự chỉ đạo, điều khiển của giáo viên. Để phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của mình, sinh viên cần tự rèn luyện phương pháp tự học, đây không chỉ là một phương pháp nâng cao hiệu quả học tập mà là một mục tiêu quan trọng của học tập. Có như vậy thì phương pháp tự học mới thực sự là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Phương pháp tự học sẽ trở thành cốt lõi của phương pháp học tập. Học là quá trình lâu dài và không ngừng nghỉ, dù bạn có thông minh tới đâu nhưng nếu không học, không trau dồi kiến thức liên tục thì thông minh cũng chỉ giống như vật trang trí mà thôi. Tuy nhiên, bạn cần phải hiểu rằng không phải mỗi ngày cắp sách tới trường, chăm chú nghe thầy cô giảng bài, hay cứ ra đời rồi mình sẽ tự có kiến thức. Đó là suy nghĩ hoàn toàn sai lầm. Để có được kiến thức bạn cần phải có kỹ năng học và tự học, những kỹ năng đó sẽ không ai dạy bạn mà chính bản thân bạn phải ý thức được sự quan trọng của kiến thức mà rèn luyện cho bản thân. Vậy những kỹ năng đó là gì, bạn có thể rèn luyện cho mình những kỹ năng đó hay không? Sáng kiến kinh nghiệm 16 Năm học 2014 - 2015 Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy Kế hoạch và mục tiêu Làm bất kỳ việc gì dù lớn hay nhỏ bạn cũng cần phải có kế hoạch và mục tiêu rõ ràng. Với việc học cũng vậy, bạn phải lên cho mình một kế hoạch học tập thật khoa học, xác định được khối kiến thức mà bạn cần phải trau dồi, phân bổ thời gian cho từng loại kiến thức cụ thể nếu bạn không muốn lãng phí thời gian cho một mớ kiến thức hỗn độn trong đầu. Có kế hoạch thì phải có mục tiêu, mục tiêu sẽ là động lực học tập của bạn. Bởi bạn biết mình cần phải học vì cái gì, những loại kiến thức bạn học sẽ phục vụ vào công việc gì. Khi đó bạn sẽ chủ động học và tự học để có đủ kiến thức thực hiện mục tiêu mà bản thân đã đề ra. Phương pháp và nhẫn nại Bạn không thể cứ ngồi vào bàn ghi ghi, chép chép, hay cầm quyển sách lên đọc, lên mạng tìm kiếm tài liệu nghĩa là bạn sẽ có được lượng kiến thức như mình mong muốn. Việc học không đơn giản như vậy, để có được những kiến thức hay, bổ ích bạn phải có phương pháp học khoa học, tuy nhiên phương pháp học của mỗi người mỗi khác, đừng cố áp dụng phương pháp của người khác vào mình rồi ép bản thân phải làm được như vậy. Hãy tìm ra phương pháp phù hợp với bản thân để việc học không gây khó khăn và chán nản cho bạn. Để làm được như vậy bạn cần phải kiên trì, nhẫn nại. Đừng vội chán nản, lo lắng khi đã bỏ ra quá nhiều thời gian nhưng kết quả thu lại không được bao nhiêu. Hãy thay đổi phương pháp học nếu phương pháp bạn đang áp dụng không mang lại hiệu quả, bởi học không phải là ngày một ngày hai mà là “học nữa, học mãi”. Kỷ luật khi học Hãy luyện cho mình tính kỷ luật khi học trên lớp cũng như lúc tự học. Bạn không thể vừa học, vừa nói chuyện, vừa học vừa chơi game hay làm một việc khác. Khi học bạn hãy dành toàn bộ tâm trí, tập trung cao độ, không xao nhãng. Đừng tập cho mình những thói quen xấu khi học, nếu không những thói quen này sẽ theo bạn ở bất kỳ hoàn cảnh nào trong đời sống cũng như công việc. Hãy kỷ luật khi học, đó cũng là cách tốt nhất để bạn rèn luyện tính kỷ luật cho bản thân mình sau này. Tìm kiếm tài liệu Bạn không chỉ nên tiếp thu kiến thức từ một nguồn như giáo viên cung cấp, sách vở, xã hội,… mà cần tìm kiếm tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau. Bạn đã nghe giáo viên giảng về vấn đề nào đó mà bạn quan tâm thì hãy tìm kiếm tài liệu về vấn đề đó từ sách, báo, các trang mạng, bạn bè để hiểu sâu hơn về nó. Tuy nhiên, không phải ai cũng có kỹ năng tìm kiếm tài liệu nhanh và chính xác, Sáng kiến kinh nghiệm 17 Năm học 2014 - 2015 Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy vì thế bạn cũng cần rèn luyện cho mình kỹ năng này nhé. Việc này chỉ khó khi bạn mới bắt đầu, khi đã quen bạn sẽ dễ dàng tìm được các thông tin cần thiết để bổ sung thêm vào kho kiến thức của mình. Tự kiểm tra kiến thức Không phải kiến thức của bạn lúc nào cũng được người khác kiểm tra, vì vậy để việc học đạt hiệu quả cao bạn phải biết cách tự kiểm tra kiến thức của mình bằng cách như: Tự làm bài kiểm tra ngắn, liệt kê những nội dung chính, vẽ biểu đồ, bản đồ tư duy, thiết kế những bảng câm rồi tự điền kiến thức vào và đối chiếu lại,… Việc kiểm tra lại kiến thức cũng là cách bạn một lần nữa củng cố lại những gì đã học được, những gì còn mơ hồ cần phải học thêm. Học cách ghi nhớ Bạn cần phải biết được thói quen học của mình như thế nào để có cách ghi nhớ hiệu quả nhất. Mỗi người sẽ có cách ghi nhớ khác nhau, có người sẽ viết lại nhiều lần ra giấy, liệt kê những nội dung chính, có người sẽ đọc thật to, có người chỉ đọc thầm,… miễn sao có thể nhớ được kiến thức đó. Hãy thử tất cả những cách trên xem cách nào giúp bạn ghi nhớ nhanh nhất và hiệu quả nhất. Nếu không có cách nào phù hợp bạn hãy tìm cho mình cách ghi nhớ khác. Đặc biệt là môn Hóa học là môn học có liên quan nhiều đến hiện tượng thực tế, kiến thức logic, có sự lặp lại cao, nhớ vấn đề này thì sẽ nhớ được vấn đề khác. Thí dụ, tính chất hóa học của chất này lại chính là phương pháp điều chế hay nhận biết chất kia, … vì vậy, khi học ta nên ghi nhớ tính chất của chất đó gắn với hiện tượng thực tế nào, hay phản ứng này đã học ở bài nào chương nào, … biến việc học môn hóa từ “rất khó” thành “vô cùng dễ”. Chọn lọc thông tin, kiến thức Mỗi ngày bạn sẽ tiếp nhận rất nhiều thông tin, kiến thức khác nhau từ thầy cô, sách vở, các loại tài liệu tham khảo,… Nếu không có kỹ năng chọn lọc thông tin, kiến thức sẽ khiến cho bạn bị nhấn chìm trong một mớ bòng bong của quá nhiều kiến thức khác nhau. Hãy biết cách chọn lọc những thông tin, kiến thức quan trọng, cần thiết và ghi nhớ lại chúng. Đừng cố nhớ quá nhiều thứ hỗn độn trong đầu, điều đó sẽ khiến cho bạn cảm thấy việc học thật sự rất đáng sợ và tồi tệ. Hiểu sâu và thường xuyên ôn lại Đây là hai kỹ năng bạn cần rèn luyện để việc học và tự học của bạn đạt hiệu quả cao nhất. Việc hiểu sâu những kiến thức sẽ giúp bạn luôn nhớ và biết cách áp dụng chúng vào từng hoàn cảnh như thế nào cho phù hợp. Ngoài ra bạn cũng cần thường xuyên ôn lại những gì đã học, nếu không những gì bạn đã học được sẽ dần bị lãng quên theo thời gian. Đừng chủ quan nghĩ rằng bạn vẫn nhớ Sáng kiến kinh nghiệm 18 Năm học 2014 - 2015 Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy như in những gì đã học được, nếu không bạn sẽ phải ân hận nhất là trong lúc làm bài thi. Sắp xếp thời gian tự học Tất cả các giờ học trên lớp bạn đều phải chú ý nghe giảng, tư duy, trả lời được các vấn đề thầy cô nêu ra. Hạn chế việc đi học thêm tràn lan, ỷ lại vào thầy cô chữa bài tập cho rồi nên không cần suy nghĩ gì nữa, chỉ cần học thuộc bài là đủ. Mỗi ngày phải có ít nhất từ 3 – 5 giờ tự học độc lập ở nhà. Tự hoàn thành hết câu hỏi, bài tập trong tài liệu tự học có hướng dẫn thầy cô giao cho. Ghi chép cẩn thận những câu hỏi và bài tập khó, lạ, chưa hiểu để trao đổi lại với bạn bè hoặc thầy cô. Như vậy, hoạt động tự học diễn ra cả ở trường, ở nhà, thậm chí là cả lúc đi chơi với bạn bè. Học và tự học là cách duy nhất để mỗi chúng ta trau dồi kiến thức cho bản thân. Dù còn ngồi trên ghế nhà trường hay đã đi làm, bạn cũng đừng quên việc học nhé. Hãy luôn rèn luyện cho mình kỹ năng học và tự học mọi lúc, mọi nơi để có thật nhiều kiến thức vững vàng thi đỗ đại học, phục vụ cho cuộc sống cũng như công việc của chính mình và trở thành người có ích cho xã hội. 2.3.4. Nội dung của quá trình tự học. Bàn về hoạt động tự học và phương pháp tổ chức cho HS tự học như thế nào để có hiệu quả thiết thực là một vấn đề hoàn toàn không đơn giản, đặc biệt là các em đã quen với việc học ghi chép, làm theo mẫu, theo sự áp đặt của thầy cô ở trên lớp. Ngoài việc tìm hiểu khái niệm, những vấn đề liên quan đến động cơ, thói quen học tập của HS thì mỗi GV rất cần đến quá trình nghiên cứu nhằm tìm ra nội dung cơ bản, các phương cách tối ưu rèn luyện phương pháp tự học cho HS. Để đáp ứng yêu cầu nêu trên cần xác định rõ những yêu cầu cơ bản của hoạt động tự học như: nội dung của hoạt động tự học gồm mấy vấn đề, để tiếp cận nó phải tuân thủ theo qui trình nào, điều kiện để áp dụng có hiệu quả các yêu cầu ra sao,… từ đó xây dựng những biện pháp dạy tự học tích cực tương ứng. Với tất cả các lĩnh vực khoa học, việc dạy tự học có những điểm chung, thống nhất về cách thức cũng như phương pháp. Đó là những vấn đề được xác định như sau: a/ Xây dựng động cơ học tập Khơi gợi hứng thú học tập để trên cơ sở đó ý thức tốt về nhu cầu học tập. Người học tự xây dựng cho mình động cơ học tập đúng đắn là việc cần làm đầu tiên. Bởi vì, thành công không bao giờ là kết quả của một quá trình ngẫu hứng tùy tiện thiếu tính toán, kể cả trong học tập lẫn nghiên cứu. Nhu cầu xã hội và thị Sáng kiến kinh nghiệm 19 Năm học 2014 - 2015 Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy trường lao động hiện tại đặt ra cho mỗi người những tố chất cần thiết chứ không phải là những điểm số đẹp, những chứng chỉ như vật trang sức vào đời mà không có thực lực vì động cơ học tập lệch lạc. Có động cơ học tập tốt khiến cho người ta luôn tự giác say mê, học tập với những mục tiêu cụ thể rõ ràng với một niềm vui sáng tạo bất tận. Trong rất nhiều động cơ học tập của HS, có thể khuôn tách thành hai nhóm cơ bản: - Các động cơ hứng thú nhận thức. - Các động cơ nhiệm vụ và trách nhiệm trong học tập. Thông thường các động cơ hứng thú nhận thức hình thành và đến được với người học một cách tự nhiên khi bài học có nội dung mới lạ, thú vị, bất ngờ, sinh động và chứa nhiều những yếu tố nghịch lí, gợi sự tò mò. Động cơ này sẽ xuất hiện thường xuyên khi GV biết tăng cường tổ chức các trò chơi nhận thức, các cuộc thảo luận hay các biện pháp kích thích tính tự giác tích cực từ người học. Động cơ nhiệm vụ và trách nhiệm thì bắt buộc người học phải liên hệ với ý thức về ý nghĩa xã hội của sự học. Giống như nghĩa vụ đối với Tổ quốc, trách nhiệm đối với gia đình, thầy cô, uy tín danh dự trước bạn bè,…Từ đó các em mới có ý thức kỉ luật trong học tập, nghiêm túc tự giác thực hiện mọi nhiệm vụ học tập, những yêu cầu từ GV, phụ huynh, tôn trọng mọi chế định của xã hội và sự điều chỉnh của dư luận. Cả hai động cơ trên không phải là một quá trình hình thành tự phát, cũng chẳng được đem lại từ bên ngoài mà nó hình thành và phát triển một cách tự giác thầm lặng từ bên trong. Do vậy người GV phải tùy đặc điểm môn học, tùy đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của đối tượng để tìm ra những biện pháp thích hợp nhằm khơi dậy hứng thú học tập và năng lực tiềm tàng nơi HS. Và, điều quan trọng hơn là tạo mọi điều kiện để các em tự kích thích động cơ học tập của mình. Đối với phần đông những người trẻ nhất là lứa tuổi HS, việc tạm gác những thú vui, những trò giải trí hấp dẫn nhất thời để toàn tâm toàn sức cho việc học là hai điều có ranh giới vô cùng mỏng manh. Nó đòi hỏi sự quyết tâm cao và một ý chí mạnh mẽ cùng nghi lực đủ để chiến thắng chính bản thân mình. Đối với người trưởng thành, khi mục đích cuộc đời đã rõ, ý thức trách nhiệm đối với công việc đã được xác định và sự học đã trở thành niềm vui thì việc xác định động cơ thái độ học tập nói chung không khó khăn như thế hệ trẻ, tuy nhiên không phải là hoàn toàn không có. Vì suy cho cùng ai cũng có những nhu cầu riêng và từ đó có những hứng thú khác nhau. Vấn đề là phải biết kết hợp biện chứng giữa nội sinh và ngoại sinh, tức là hứng thú nhận thức, hứng thú trách nhiệm được đánh thức, khơi dậy Sáng kiến kinh nghiệm 20 Năm học 2014 - 2015
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng