Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ So sánh chế định giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật việt ...

Tài liệu So sánh chế định giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật việt nam và theo công ước viên 1980

.PDF
89
683
143

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN QUANG SO SÁNH CHẾ ĐỊNH GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THEO CÔNG ƢỚC VIÊN 1980 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2014 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN QUANG SO SÁNH CHẾ ĐỊNH GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THEO CÔNG ƢỚC VIÊN 1980 Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS .TS BÙI NGUYÊN KHÁNH Hà Nội - 2014 2 MỤC LỤC MỤC LỤC...................................................................................................... 1 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ....................................................................... 5 LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................ 6 CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THEO CÔNG ƢỚC VIÊN NĂM 1980 .............................................. 11 1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .................................................................................... 11 1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .............................. 17 1.3. Những nguyên tắc của luật hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ......... 25 1.3.1. Nguyên tắc tự do ý chí ........................................................................ 25 1.3.2. Nguyên tắc áp dụng tập quán và thói quen thương mại ..................... 26 1.3.3. Nguyên tắc phù hợp với luật của nước được lựa chọn hoặc dẫn chiếu tới .................................................................................................................. 27 1.4. Vai trò và ý nghĩa của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ................. 28 CHƢƠNG 2 SO SÁNH CÁC NỘI DUNG CỤ THỂ CỦA CÔNG ƢỚC VIÊN 1980 VỚI PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ ......................................................... 31 2.1. Hình thức của hợp đồng ......................................................................... 31 2.2. Đề nghị giao kết hợp đồng ..................................................................... 35 2.2.1.Khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng .................................................. 35 2.2.2. Điều kiện có hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng ........................ 38 2.2.3. Thời hạn có hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng .......................... 40 2.2.4. Đưa ra chào hàng mới ......................................................................... 44 3 2.2.5. Chào hàng trong sự so sánh với các quy định của Các nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế .................................................... 45 2.3. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng ................................................... 50 2.3.1.Khái niệm chấp nhận đề nghị theo Công ước Viên 1980 .................... 50 2.3.2.Hiệu lực của chấp nhận chào hàng ...................................................... 53 2.3.3. Chấp nhận chào hàng: So sánh với PICC ........................................... 59 2.3.4. Thay đổi nội dung của chấp nhận đề nghị .......................................... 64 2.4. Thời điểm giao kết hợp đồng ................................................................. 66 CHƢƠNG 3 : KIẾN NGHỊ ĐỐI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ ....................................................................................................................... 69 3.1. Về đề nghị giao kết hợp đồng ................................................................ 69 3.1.1. Qui định chung về đề nghị giao kết hợp đồng .................................... 69 3.1.2. Về điều kiện giá cả trong đề nghị giao kết hợp đồng ......................... 73 3.2. Về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng .............................................. 75 3.3. Kiến nghị gia nhập Công ước Viên 1980 .............................................. 80 3.4. Kiến nghị thực hành ............................................................................... 82 KẾT LUẬN .................................................................................................. 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 88 4 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT - CISG : Contracts for the International Sale of Goods ( Công ước Viên 1980 ) - NĐ-CP : Nghị định - Chính phủ - PICC : Principles of International Commercial Contracts ( Những nguyên tắc của hợp đồng thương mại quốc tế ) . - UNCITRAL : United Nations Commission on International Trade Law ( Ủy ban liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế ) -UNIDROIT : The International Institute for the Unification of Private Law ( Viện quốc tề về nhất thể hóa pháp luật tư ) -VCCI : Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam -WTO : World Trade Organization ( Tổ chức thương mại Thế giới ) 5 LỜI MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài Giao lưu giữa các nước trên thế giới ngày càng mở rộng theo xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Đặc biệt sự hình thành và phát triển của các tổ chức khu vực, liên khu vực và các công ty đa quốc gia trong mấy thập kỷ vừa qua đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới. Tình hình này khiến cho các quốc gia không thể chỉ bó hẹp hoạt động kinh tế của mình trong phạm vi quốc gia, mà còn phải tham gia vào các hoạt động kinh tế toàn cầu hoặc khu vực nhằm tận dụng mọi lợi thế so sánh. Giao lưu quốc tế của các nước trên thế giới càng mở rộng và phức tạp thì càng cần thiết có pháp luật quốc tế thích hợp để điều chỉnh các mối quan hệ đó. Đồng thời pháp luật quốc gia cần được xem xét trong sự so sánh với pháp luật quốc tế để làm rõ các điểm tương đồng và khác biệt. Trên cơ sở đó các nước chủ động trong quá trình hội nhập. Hoạt động thương mại quốc tế hiện nay không còn bị giới hạn trong việc trao đổi hàng hóa mà được mở rộng sang cả các lĩnh vực khác như thương mại dịch vụ, thương mại đầu tư, thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Hàng hóa được bán ra ở nhiều quốc gia với số lượng lớn hơn và chủng loại phong phú hơn. Nhưng khi khối lượng cũng như tính phức tạp của mua bán hàng hóa quốc tế tăng lên thì khả năng dẫn đến tranh chấp và hiểu lầm cũng theo đó mà tăng lên nếu như các hợp đồng mua bán hàng hóa không được soạn thảo một cách cụ thể. Công cụ pháp lý được sử dụng trong việc trao đổi hàng hóa chính là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế . Có thể nói rằng, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đã và đang đóng vai trò chủ 6 đạo trong hoạt động ngoại thương của Việt Nam. Kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta không ngừng tăng cao trong những năm gần đây, và đặc biệt là sẽ được tăng cao hơn nữa khi Việt Nam đã là thành viên của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Thực tiễn ký kết hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại ở Việt Nam trong thời gian vừa qua cho thấy rằng, hợp đồng được ký kết chủ yếu theo thói quen mà không theo kỹ năng pháp lý. Cũng chính vì vậy mà những vấn đề liên quan đến giá trị pháp lý của đề nghị giao kết hợp đồng (chào hàng) và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng không mấy được quan tâm. Trong khi đó, để một hợp đồng là một căn cứ pháp lý bảo vệ quyền lợi cho mình thì khâu giao kết hợp đồng dường như là quan trọng nhất. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam về vấn đề giao kết hợp đồng vẫn còn khá nhiều điểm chưa sát hợp với thực tiễn áp dụng. Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) được soạn thảo bởi Ủy ban của Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL) trong một nỗ lực hướng tới việc thống nhất nguồn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Công ước này đã trở thành công ước được áp dụng rộng rãi nhất trong số các điều ước quốc tế đa phương về mua bán hàng hoá quốc tế với 66 quốc gia thành viên. Chính vì vậy, để góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề giao kết hợp đồng, tôi chọn đề tài “So sánh chế định giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam và theo Công ƣớc Viên 1980” để qua đó góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế theo chủ trương của Đảng. 7 2. Mục đích nghiên cứu Xuất phát từ lý do trên, khi nghiên cứu đề tài “So sánh chế định giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam và theo Công ƣớc Viên 1980”, Luận văn có các mục đích sau: - Thứ nhất: Nghiên cứu cơ sở lý luận chung về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Qua đó thấy được tầm quan trọng của vấn đề giao kết hợp đồng liên quan tới lĩnh vực này, đồng thời làm rõ các yếu tố của việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. - Thứ hai: Phân tích và đánh giá các quy định của Công ước Viên 1980 – Công ước thống nhất các quy định về vấn đề hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trên toàn thế giới - về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế trong sự so sánh với các quy định của pháp luật Việt Nam. - Thứ ba: Kiến nghị một số phương hướng và giải pháp chính nhằm xây dựng và hoàn thiện về pháp luật hợp đồng nói chung và giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế nói riêng của pháp luật Việt Nam sau khi nghiên cứu Công ước Viên 1980. 3. Phạm vi nghiên cứu Công ước Viên 1980 là Công ước quốc tế về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế do Uỷ ban Liên hợp quốc soạn thảo với rất nhiều quốc gia thành viên và được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Việt Nam mặc dù chưa phải là thành viên của Công ước này nhưng các doanh nghiệp Việt Nam vẫn có cơ hội áp dụng các quy định của Công ước khi tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá có tính chất quốc tế. Công ước quy định về mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế như đối tượng, chủ thể của hợp đồng, vấn đề giao kết hợp đồng, quyền và nghiã vụ của các bên trong hợp đồng, các vấn đề chế tài, 8 trách nhiệm của các bên, vấn đề bồi thường thiệt hại….Tuy nhiên do đề tài mà luận văn hướng đến là vấn đề về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá theo Công ước Viên 1980 nên trong luận văn này chỉ nghiên cứu về vấn đề giao kết bao gồm: chào hàng, chấp nhận chào hàng và ký kết hợp đồng và một số vấn đề pháp lý khác liên quan trực tiếp. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Là một đề tài thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, cho nên trong luận văn này sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau. Bên cạnh những phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống và cổ điển như phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, luận còn dựa trên những phương pháp mang tính đặc thù như: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp... - Phương pháp phân tích: Được thể hiện trong luận văn thông qua tập trung phân tích những quy định cụ thể trong Công ước Viên 1980, Bộ luật Dân sự, Luật thương mại về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. - Phương pháp so sánh: được áp dụng thông qua việc so sánh những quy định của Công ước Viên 1980 với những quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. - Phương pháp tổng hợp: Từ những kết quả có được thông qua việc phân tích và so sánh những quy định của Công ước và một số hệ thống pháp luật khác, tác giả đã rút ra những kết luận mang tính chất khái quát, tổng hợp về thực trạng pháp luật Việt Nam và đưa ra những phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia sao cho phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Đặc biệt Luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh hai đối tượng so sánh với đối tượng thứ ba. Đối tượng thứ ba này không phải là đối tượng 9 chính trong hoạt động so sánh, song có vai trò làm cho thấy rõ hơn đối tượng nào trong các đối tượng so sánh chính gần gũi hơn so với các chuẩn mực hiện hữu. 5. Bố cục của Luận văn Luận văn này gồm có 3 chương, cụ thể là Chƣơng 1: Khái quát chung về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam và theo Công ước Viên năm 1980 Chƣơng 2: So sánh các nội dung cụ thể của Công ước Viên năm 1980 với pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Chƣơng 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 10 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THEO CÔNG ƢỚC VIÊN NĂM 1980 1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. 1.1.1 Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Hợp đồng ở bất kỳ hệ thống pháp luật nào đều được quan niệm là sự thỏa thuận hay sự thống nhất ý chí làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ hợp đồng. Nói cách khác, các bên bị ràng buộc với nhau trong một quan hệ pháp luật do có một sự giao kết hợp đồng liên quan. Trong hoạt động ngoại thương, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế còn có những sự diễn giải khác nhau như hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài, hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hóa, hợp đồng mua bán ngoại thương. Nhưng tựu chung lại, dù gọi theo cách nào thì các thuật ngữ này đều biểu hiện một đặc điểm chung- Đó là hợp đồng có yếu tố nước ngoài, có nghĩa là làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt một quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài. Khi nói tới hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là nói tới quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, mà thuật ngữ quan hệ dân sự ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả quan hệ dân sự, thương mại, lao động và hôn nhân gia đình. Điều 758 của Bộ luật Dân sự 2005 định nghĩa: “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước 11 ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”. Nếu theo định nghĩa này hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài hay yếu tố quốc tế mà được gọi tắt là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bao gồm: hợp đồng mà có một bên giao kết là người nước ngoài; hoặc hợp đồng được giao kết theo pháp luật nước ngoài hoặc ở nước ngoài; hoặc hợp đồng mà có đối tượng là tài sản ở nước ngoài. Nhưng đối với Công ước Viên 1980 thì yếu tố quốc tế hay yếu tố nước ngoài được qui định hẹp hơn. Nguồn gốc của hàng hóa không được xem xét đến để xác định hợp đồng đó có phải là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hay không. Yếu tố nước ngoài hay yếu tố quốc tế xác định theo chủ thể của hợp đồng. Điều 1, khoản 1 của Công ước Viên 1980 qui định: “Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau: a. Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của Công ước hoặc b. Khi theo các qui tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật của các nước thành viên Công ước này”. Công ước Viên 1980 không dựa trên quốc tịch của người giao kết hợp đồng để xác định yếu tố nước ngoài. Theo Luật Doanh nghiệp 2005 quốc tịch của thương nhân được xác định theo nơi mà thương nhân đó thành lập, đăng ký kinh doanh (Điều 4, khoản 20). Do có sự khác biệt giữa pháp luật của các nước, có thể Công ước Viên 1980 không quan tâm tới vấn đề quốc tịch của thương nhân. Điều 1, khoản 3 của Công ước này qui định: “Quốc tịch của các bên, qui chế dân sự hoặc thương mại của họ, tính chất dân sự hay thương mại của hợp đồng không được xét tới khi xác định phạm vi áp dụng Công ước này”. Qui định này cũng đã cho thấy quan niệm về quan hệ dân sự theo nghĩa rộng giống với quan niệm của Việt Nam về vấn đề này 12 như đã nói ở trên. Công ước Viên 1980 coi các thương nhân thuộc các nước khác nhau căn cứ vào trụ sở của các thương nhân đó mà không căn cứ vào nước mà thương nhân đó mang quốc tịch hoặc căn cứ vào nước mà thương nhân đó thành lập hay đăng ký kinh doanh. Ở Pháp khi xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, người ta căn cứ vào hai tiêu chuẩn- đó là tiêu chuẩn kinh tế, và tiêu chuẩn pháp lý. Theo các tiêu chuẩn kinh tế, một hợp đồng tạo nên sự di chuyển qua lại biên giới các giá trị trao đổi tương ứng giữa hai nước, nói cách khác hợp đồng đó thể hiện quyền lợi của thương mại quốc tế là hợp đồng mua bán có yếu tố quốc tế. Đây là quyết định của Tổng kiểm soát trưởng Matter [81]. Trong vụ án Pélissier du Besset, Ông đã tuyên bố “Điều cần thiết là hợp đồng phải thể hiện được sự vận động hai chiều qua biên giới của các dòng lợi ích”. Theo tiêu chuẩn pháp lý thì một hợp đồng được coi là hợp đồng quốc tế nếu nó bị chi phối bởi các tiêu chuẩn pháp lý của nhiều quốc gia như quốc tịch, nơi cư trú của các bên, nơi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nguồn vốn thanh toán...[82]. Ở nước ta, trước khi ban hành Luật Thương mại 1997, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được hiểu thông qua khái niệm “hợp đồng mua bán ngoại thương” và được quy định “là những cam kết giữa một bên là tổ chức xuất nhập khẩu Việt Nam với một bên là khách hàng nước ngoài nhằm thiết lập, thay đổi, đình chỉ mối quan hệ nghĩa vụ và quyền lợi trong lĩnh vực mua bán, trao đổi hàng hóa, mua bán phát minh sáng chế và bí quyết kỹ thuật, cung ứng dịch vụ, gia công…” (Điều 1, Quyết định 127 BNgT/XNK ngày 18/3/1986 của Bộ Ngoại thương). Quy chế tạm thời của Bộ Thương nghiệp số 4797/TN-XNK ngày 31/7/1991 hướng dẫn việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương đã định nghĩa tại Điều 1 như sau: “Hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương là hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất quốc tế.” Đồng 13 thời bản Quy chế cũng xác định: “Tính chất này (quốc tế) của hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương thể hiện ở những mặt sau: a.Chủ thể của Hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương là các pháp nhân có quốc tịch khác nhau. b.Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng thông thường được di chuyển từ nước này qua nước khác. c.Đồng tiền thanh toán trong Hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương là ngoại tệ đối với một hoặc cả hai bên ký kết hợp đồng”.[24] Khi Luật thương mại 1997 được ban hành, khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng chưa được quy định rõ ràng. Điều 80 của Luật chỉ đề cập đến “hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài” với định nghĩa: “Hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài là hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với một bên là thương nhân nước ngoài” (Điều 80). Điều này chỉ đề cập đến sự khác biệt giữa hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế với các loại hợp đồng khác thông qua việc xác định quốc tịch của các chủ thể giao kết hợp đồng. Thuật ngữ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế lần đầu tiên xuất hiện trong pháp luật Việt Nam tại Luật Thương mại năm 2005. Điều 27 của Luật này xác định theo cách thức liệt kê như sau: “Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tái nhập và chuyển khẩu”. Tiếp theo điều luật này, Luật Thương mại năm 2005 cũng đưa ra các khái niệm về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tái nhập và chuyển khẩu tại các điều từ Điều 28 đến Điều 30. Với 5 khái niệm liên quan tới 5 dạng hoạt động nói trên, Luật Thương mại năm 2005 cho rằng hàng hóa trong các hoạt động này mà có thể được di chuyển qua biên giới của Việt Nam hoặc qua biên giới của một nước 14 (vùng lãnh thổ), hoặc di chuyển qua khu chế xuất, khu vực hải quan riêng...được xem là có yếu tố quốc tế. Để thi hành Luật này, Nghị định số 187/2013/NĐ- CP ngày 20/11/2013 qui định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nhưng có sự liệt kê các hoạt động mà từ đó có thể suy luận ra yếu tố quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quan niệm của Việt Nam. Khoản 1, Điều 1 của Nghị định này qui định: “Nghị định này quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, bao gồm các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập; chuyển khẩu; các hoạt động ủy thác và nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu; đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa”. Qua sự liệt kê này có thể hiểu yếu tố quốc tế của loại hợp đồng này là có sự di chuyển hàng hóa qua biên giới quốc gia. Nhằm mục đích nghiên cứu so sánh giữa Công ước Viên 1980 với pháp luật Việt Nam, từ các nghiên cứu trên, Luận văn không thể làm khác hơn việc thống nhất một cách hiểu đơn giản rằng: hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng được giao kết giữa các bên có trụ sở kinh doanh chính tại các nước khác nhau. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chỉ khác với hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường ở yếu tố quốc tế. Do vậy nó mang đầy đủ các đặc điểm của một hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường với đối tượng là hàng hóa. Vấn đề này có lẽ không cần phải nói tới nếu như quan niệm về hàng hóa theo pháp luật Việt Nam giống với quan niệm về hàng hóa theo pháp luật của các nước. Điều đặc biệt là khái niệm hàng hóa theo pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay có sự khác biệt với quan niệm chung của pháp luật quốc tế và pháp luật các nước khác trên thế giới. 15 Luật Thương mại 2005 tại Điều 3, khoản 2 định nghĩa hàng hóa bao gồm: Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền với đất đai. Định nghĩa này rất khó giải thích bởi từ ngữ ở đó cho thấy hàng hóa là bất kể loại tài sản nào (động sản, hoặc bất động sản, hoặc hữu hình, hoặc vô hình), trong khi đó nhằm mục đích riêng của luật thương mại cả thế giới quan niệm hàng hóa (mà tiếng Anh gọi là goods) là động sản hữu hình. Với quan niệm chung về hàng hóa như vậy của thế giới, có thể thấy: nếu đối tượng của hợp đồng là bất động sản thì hợp đống đó không phải là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mặc dù bất động sản được bán cho người nước ngoài. Hợp đồng mua bán bất động sản với người nước ngoài thường bị điều chỉnh bởi một qui chế pháp lý riêng biệt với qui chế dành cho mua bán hàng hóa (goods). Thực tế Công ước Viên năm 1980 đã xác định phạm vi áp dụng của Công ước dựa trên quan niệm đó và loại trừ thêm một số tài sản khác ra khỏi nội hàm của khái niệm hàng hóa. Công ước qui định tại Điều 2 như sau: “Công ước này không áp dụng đối với mua bán: (a) các hàng hóa dùng cho cá nhân, gia đình hoặc nội trợ, ngoại trừ khi người bán, vào bất kỳ lúc nào trong thời gian trước hoặc vào thời điểm ký kết hợp đồng, không biết hoặc không cần phải biết rằng hàng hóa đã được mua để sử dụng như thế; (b) đấu giá; (c) trong việc thi hành hoặc để thực thi các việc khác bởi nhà chức trách pháp luật; (d) các cổ phiếu, cổ phần, chứng khoán đầu tư, các chứng từ lưu thông hoặc tiền tệ; (e) tầu, thuyền, tầu chạy nhờ đệm không khí hoặc tầu bay; (f) điện năng”. 16 1.1.2. Khái niệm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo những nguyên tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập với nhau các quyền, nghĩa vụ liên quan tới việc mua bán hàng hóa quốc tế. Những nguyên tắc đó bao gồm : -Nguyên tắc tự do ý chí (hay còn gọi là tự do hợp đồng) . -Nguyên tắc áp dụng tập quán và thói quen thương mại. -Nguyên tắc phù hợp với luật của nước được lựa chọn hoặc dẫn chiếu tới. Như vậy, ngoài việc tuân theo các nguyên tắc trên, để xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các thương nhân cần phải thể hiện bằng hành vi để thể hiện ý chí của mình. Bởi hợp đồng là sự thống nhất ý chí hay sự thỏa thuận, nên nó có hai thành tố cơ bản là : - Đề nghị giao kết hợp đồng - Chấp nhận giao kết hợp đồng. Các thành tố này sẽ được làm rõ trong chương 2. 1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Khi nói tới hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung, về mặt pháp lý, người ta nghĩ ngay tới các đặc điểm cơ bản của nó là loại hợp đồng song vụ có đền bù. Bản thân mua bán là một hoạt động trao đổi các lợi ích nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất hoặc tinh thần (hoặc cả hai) của các bên trong quan hệ mua bán đó. Theo hợp đồng này bên bán có nghĩa vụ chuyển giao hàng hóa và quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua để đổi lại việc bên mua phải trả giá mua cho bên bán. Tuy nhiên so với hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có một số điểm khác biệt sau: 17 Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng: Trong mua bán hàng hóa thông thường, người ta có thể xem xét tới chủ thể của hợp đồng bởi mua bán hàng hóa là một hành vi thương mại mà nó có thể chỉ được tiến hành bởi thương nhân. Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, như trên đã nói, người ta buộc phải biết tới sự khác biệt sau về chủ thể- đó sự mua bán giữa các thương nhân có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau. Tư cách thương nhân hay năng lực chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường không được các điều ước quốc tế qui định mà để cho luật quốc gia qui định. Do đó thương nhân (dù là thể nhân hay pháp nhân) đều có thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Tuy nhiên tư cách của họ phải được xác định phù hợp với pháp luật quốc gia nơi họ mang quốc tịch hoặc thường trú. Luật Thương mại 2005 quy định: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh” (Điều 6, khoản 1). Thế nhưng để được giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, thương nhân phải đáp ứng được những điều kiện nhất định theo qui định của pháp luật. Theo quy định của Điều 8 của Nghị định 57/1998 ngày 31/7/1998 được sửa đổi bởi Nghị định 44/2001/NĐ-CP ngày 2/8/2001, thương nhân được phép xuất khẩu tất cả các loại hàng hóa không phụ thuộc ngành nghề, ngành hàng ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, trừ hàng hóa nằm trong danh mục những hàng hóa cấm xuất khẩu; được nhập khẩu hàng hóa theo các ngành nghế, ngành hàng được ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trước khi tiến hành hoạt động xuất, nhập khấu, chủ thể kinh doanh phải đăng ký mã số kinh doanh xuất, nhập khẩu tại Cục hải quan tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Tới nay Điều 2, Nghị định số 187/2013/NĐ- CP ngày 20/11/2013 qui định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động 18 mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài xác định đối tượng áp dụng của Nghị định này là “Thương nhân Việt Nam; các tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại quy định tại Luật Thương mại”. Như vậy ngoài thương nhân, các tổ chức và cá nhân khác có liên quan tới hoạt động thương mại cũng có quyền giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Thế nhưng chủ thể thông thường của các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là các thương nhân. Tuy nhiên trong một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cụ thể, các bên thương nhân phải có quốc tịch khác nhau hoặc trụ sở thương mại đặt tại các nước khác nhau. Đây là dấu hiệu rất quan trọng bởi chính dấu hiệu này tạo nên yếu tố quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo cách hiểu chung của thế giới được thống nhất bởi Công ước Viên 1980 như đã phân tích ở trên. Thương nhân, theo pháp luật của các nước trên thế giới, được xác định bởi hai dấu hiệu: (1) Thực hiện các hành vi thương mại một cách thường xuyên và lấy chúng làm nghề nghiệp của mình; và (2) Tự thân thực hiện các hành vi thương mại, tức là thực hiện các hành vi thương mại dưới danh nghĩa và tài khoản của họ [1, tr. 72]. Tuy nhiên Luật Thương mại 2005 tại Điều 6, khoản 1 xác định thương nhân thể nhân hay cá nhân kinh doanh có ba dấu hiệu bao gồm: (1) Hoạt động thương mại độc lập; (2) hoạt động thương mại thường xuyên; và (3) có đăng ký kinh doanh. PGS. TS.Ngô Huy Cương cho rằng đăng ký kinh doanh có thể được giải thích là việc xác định nghề nghiệp chuyên thực hiện hành vi thương mại nào đó; vì vậy về cơ bản các dấu hiệu xác định thương nhân theo pháp luật Việt Nam không khác biệt so với các dấu hiệu xác định thương nhân theo pháp luật của các nước khác [1, tr. 72]. Tuy nhiên việc xác định thương nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân ở Việt Nam chưa rõ ràng trong pháp luật Việt Nam. 19 Đồng thời pháp luật chưa tìm được các dấu hiệu chung của thương nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân, do đó qui định: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh” (Luật Thương mại 2005, Điều 6, khoản 1). Tìm hiểu luật thực định của các quốc gia và phân tích đời sống thương mại thì có thể chia thương nhân thành hai loại: Thương gia thể nhân và thương gia pháp nhân. Khi tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, thương gia thể nhân có thể tham gia trực tiếp hoặc có thể uỷ quyền cho người khác. Còn đối với thương gia pháp nhân thì hành vi đó được thực hiện thông qua người đại diện. Người đại diện cho thương gia pháp nhân hay các công ty thương mại do bản chất điều lệ công ty quyết định. Trong trường hợp này Điều lệ được xem là một hình thức uỷ quyền của công ty (với tính cách là một thực thể pháp luật) cho một thể nhân cụ thể. Người được ủy quyền này có thể uỷ quyền lại cho người khác. Khi là người đại diện của pháp nhân (công ty), hành vi của người đại diện này vì lợi ích của pháp nhân và trong phạm vi quyền hạn được pháp nhân giao cho được xem là hành vi của chính pháp nhân đó, có nghĩa là nó làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của pháp nhân đó với người thứ ba, chứ không phải làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của người đại diện với người thứ ba. Ý chí của pháp nhân được thể hiện thống nhất thông qua người đại diện. Để giải thích cho sự đại diện một số luật gia đã viện dẫn nguyên tắc ý chí tự do làm căn bản, theo đó trong giao kết hợp đồng, sự đại diện chỉ có hiệu lực khi hội đủ các điều kiện sau đây: - Người đại diện phải có quyền đại diện: Người đại diện được thể hiện thông qua những quy định trong bản điều lệ của pháp nhân hay thông qua văn bản uỷ quyền hợp pháp; 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan