Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sự kế thừa và luận giải mới của phan bội châu về các tư tưởng nho giáo trong tác...

Tài liệu Sự kế thừa và luận giải mới của phan bội châu về các tư tưởng nho giáo trong tác phẩm khổng học đăng

.PDF
163
510
75

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ----------***---------- LUYỆN THỊ MINH THƢ SỰ KẾ THỪA VÀ LUẬN GIẢI MỚI CỦA PHAN BỘI CHÂU VỀ CÁC TƢ TƢỞNG NHO GIÁO TRONG TÁC PHẨM KHỔNG HỌC ĐĂNG LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Hà Nội, 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ----------***---------- LUYỆN THỊ MINH THƢ SỰ KẾ THỪA VÀ LUẬN GIẢI MỚI CỦA PHAN BỘI CHÂU VỀ CÁC TƢ TƢỞNG NHO GIÁO TRONG TÁC PHẨM KHỔNG HỌC ĐĂNG Chuyên ngành: Triết học Mã số: 62 22 03 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS. LÊ THỊ LAN Hà Nội, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Lê Thị Lan. Các tư liệu sử dụng trong luận án hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Những kết quả của luận án chưa được công bố trong bất cứ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN LUYỆN THỊ MINH THƢ MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 2 Chƣơng I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ...................................................................................................................... 6 1.1. Các công trình nghiên cứu về cơ sở của việc luận giải tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng của Phan Bội Châu ............................................. 6 1.2. Các công trình nghiên cứu về những nội dung tư tưởng Nho giáo được Phan Bội Châu kế thừa và diễn giải mới trong tác phẩm Khổng học đăng ............................. 14 1.3. Các công trình nghiên cứu về giá trị, hạn chế và ý nghĩa của sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng 17 1.4. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết .................................................... 24 Chƣơng II. CƠ SỞ SỰ KẾ THỪA VÀ LUẬN GIẢI MỚI CỦA PHAN BỘI CHÂU VỀ CÁC TƢ TƢỞNG NHO GIÁO TRONG KHỔNG HỌC ĐĂNG ..... 26 2.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX .. 26 2.2. Bối cảnh văn hóa, tư tưởng của sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về các tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng ........................ 34 2.3. Thân thế, sự nghiệp của Phan Bội Châu và tác phẩm Khổng học đăng ............ 49 Chƣơng III. NHỮNG NỘI DUNG TƢ TƢỞNG NHO GIÁO ĐƢỢC PHAN BỘI CHÂU KẾ THỪA VÀ LUẬN GIẢI MỚI TRONG TÁC PHẨM KHỔNG HỌC ĐĂNG ............................................................................................. 57 3.1. Sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về Trời và con người trong Khổng học đăng .................................................................................................... 57 3.2. Sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về vấn đề kinh tế và chính trị trong Khổng học đăng........................................................................................... 67 3.3. Sự kế thừa và diễn giải mới của Phan Bội Châu về đạo đức và giáo dục trong tác phẩm Khổng học đăng .................................................................................... 90 Chƣơng IV. GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA SỰ KẾ THỪA VÀ LUẬN GIẢI MỚI CỦA PHAN BỘI CHÂU VỀ CÁC TƢ TƢỞNG NHO GIÁO TRONG TÁC PHẨM KHỔNG HỌC ĐĂNG ................................ 115 4.1. Giá trị và hạn chế của Phan Bội Châu khi luận giải tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng .................................................................................. 115 4.2. Ý nghĩa của việc Phan Bội Châu kế thừa và luận giải mới về Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng .................................................................................. 132 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .............................................................. 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 152 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Dân tộc Việt Nam có truyền thống lịch sử dựng nước, giữ nước lâu đời, hết sức vẻ vang, được nhiều dân tộc trên thế giới tôn trọng, mến mộ. Một dân tộc như vậy tất yếu phải có hệ thống tư tưởng ở trình độ nhất định, có nền văn hóa mang bản sắc độc đáo. Đó là những giá trị vô cùng quý báu, là hành trang quan trọng để Việt Nam hội nhập quốc tế thành công. Sau 30 năm đổi mới, với việc thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tích cực hội nhập với khu vực và thế giới, nền kinh tế nước ta đã từng bước ổn định và phát triển. Những thành tựu mà chúng ta đạt được về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục,... là điều không thể phủ nhận và rất đáng tự hào. Tuy nhiên, việc đẩy mạnh giao lưu văn hoá, hội nhập kinh tế quốc tế cũng ẩn chứa những nguy cơ, thách thức không nhỏ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xét trên góc độ văn hóa, với tâm lý sùng ngoại, một bộ phận không nhỏ người Việt Nam đã xem nhẹ những giá trị văn hoá dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng phương Tây. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp. Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ quyền cao chức trọng. Tất cả những điều đó đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc, đến cốt cách và bản lĩnh con người Việt Nam. Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, cùng với việc tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, hơn bao giờ hết, chúng ta phải biết giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống, nhằm xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để giải quyết tốt nhiệm vụ đó, việc nghiên cứu, xác định đầy đủ các giá trị tư tưởng dân tộc thông qua nghiên cứu tư tưởng của các nhà văn hóa lớn là rất cần thiết. Trong số các nhà tư tưởng Việt Nam, Phan Bội Châu (1867 - 1940) được đánh giá là nhà văn hoá, nhà tư tưởng lớn có vị trí quan trọng và ảnh hưởng sâu sắc đối với các tầng lớp xã hội nước ta thời cận đại. Ông được coi là dấu nối giữa tư tưởng văn hóa truyền thống với tư tưởng văn hóa hiện đại của nước nhà. Trong cuộc đời hoạt động của mình, ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng. Là một môn đồ ưu tú của chốn “cửa Khổng sân Trình”, ông đã 2 thấm nhuần những tư tưởng tích cực của Nho giáo. Giống như nhiều nhà tư tưởng cùng thời, để kết hợp yêu nước với duy tân, Phan Bội Châu đã phải chia tay với đạo lý thánh hiền ở nhiều điểm nhưng trong quá trình tiếp nhận tư tưởng mới, ông đã phải nhìn lại và chịu không ít những ràng buộc với tư tưởng Nho giáo. Vì vậy, vào thời gian cuối đời, ông đã viết hai bộ sách lớn về Nho giáo, trong đó có cuốn Khổng học đăng. Đây là tác phẩm có giá trị, thể hiện rõ ý thức trách nhiệm của một nhà yêu nước chân chính, với tâm huyết giữ gìn và phát huy các giá trị tư tưởng truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trong tác phẩm này, những kinh điển chủ yếu của Nho giáo đã được Phan Bội Châu giải thích lại thông qua lăng kính của một nhà nho tiến bộ, qua đó giúp người đọc thấy được những tinh hoa của Nho giáo trong toàn bộ lịch sử và đối với thời đại của Phan Bội Châu. Với Khổng học đăng, chúng ta thấy Phan Bội Châu “luôn trân trọng giữ gìn tinh thần chân chính của Khổng học và nhắc mỗi chúng ta biết coi trọng tinh thần nền tảng của văn hoá cội nguồn phương Đông” [37, tr. 350]. Đây là việc làm có ý nghĩa hết sức sâu sắc của ông trong bối cảnh “gió Á mưa Âu” ở Việt Nam buổi giao thời. Trong bối cảnh đất nước ta hiện nay, khi quá trình hội nhập kinh tế, văn hóa toàn cầu đang diễn ra ngày càng sâu rộng thì đã xuất hiện nhiều đặc điểm dường như lặp lại có tính biện chứng so với những đặc điểm của xã hội Việt Nam cách đây gần 100 năm - thời kỳ tác phẩm Khổng học đăng ra đời. Vì vậy, nghiên cứu sự kế thừa, luận giải mới của Phan Bội Châu về các tư tưởng Nho giáo trong Khổng học đăng là một việc làm cần thiết. Nó không chỉ giúp chúng ta đánh giá một cách đúng đắn nhất về tư tưởng và những cống hiến của Phan Bội Châu đối với dân tộc Việt Nam, mà còn gợi mở nhiều bài học sâu sắc về sự kế thừa và phát huy các giá trị tư tưởng truyền thống trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước hiện nay. Trên thực tế đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về Phan Bội Châu trên các góc độ khác nhau với từng mảng tư tưởng của ông. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng của Phan Bội Châu. Vì những lý do trên, nghiên cứu sinh quyết định chọn đề tài: “Sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về các tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm “Khổng học đăng” làm nội dung luận án tiến sĩ Triết học của mình. 3 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu: Làm rõ sự kế thừa và luận giải mới về Nho giáo của Phan Bội Châu trong tác phẩm Khổng học đăng, từ đó đưa ra những đánh giá về giá trị, hạn chế và ý nghĩa của việc luận giải Nho giáo đối với thời đại ông và hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ sau: - Làm rõ tình hình hình nghiên cứu về sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về các tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng, chỉ ra những nội dung kế thừa của các tác giả khác và xác định rõ hướng nghiên cứu của luận án. - Trình bày, phân tích những điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề tư tưởng dẫn đến sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng. - Trình bày, phân tích những nội dung tư tưởng Nho giáo được Phan Bội Châu kế thừa và luận giải trong tác phẩm Khổng học đăng. - Đánh giá những giá trị, hạn chế, ý nghĩa hiện thời của sự kế thừa và diễn giải mới của Phan Bội Châu về tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu: Sự diễn giải của Phan Bội Châu về Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Các tư tưởng của Nho giáo được Phan Bội Châu luận giải trong tác phẩm Khổng học đăng như: Vấn đề Trời, Mệnh trời, con người; vấn đề kinh tế, chính trị; vấn đề đạo đức, giáo dục. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về lịch sử triết học, lịch sử tư tưởng Việt Nam. 4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu triết học như: phương pháp lôgic – lịch sử, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so sánh, hệ thống hóa... kết hợp với phương pháp văn bản học, tiểu sử học. 5. Đóng góp của luận án: - Làm sáng tỏ được những điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề tư tưởng 4 dẫn đến sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng. - Phân tích và làm rõ được sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về những nội dung tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng. - Làm rõ được những giá trị, hạn chế và ý nghĩa hiện thời của sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về tư tưởng Nho giáo trong Khổng học đăng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận án góp tìm hiểu, hệ thống hóa những nội dung tư tưởng Nho giáo được Phan Bội Châu kế thừa và luận giải mới trong tác phẩm Khổng học đăng, từ đó góp phần tìm hiểu tư tưởng của nhà Nho, nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu. Trên cơ sở đó, luận án rút ra một số bài học thực tiễn và lý luận về việc kế thừa, phát triển tinh hoa văn hóa dân tộc để vận dụng vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy môn Lịch sử Triết học, Lịch sử tư tưởng Việt Nam. Luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến đề tài. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 12 tiết. Chương I: Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Chương II: Cơ sở sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về các tƣ tƣởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng Chương III: Những nội dung tƣ tƣởng Nho giáo đƣợc Phan Bội Châu kế thừa và luận giải mới trong tác phẩm Khổng học đăng Chương IV: Giá trị, hạn chế và ý nghĩa hiện thời của sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về các tƣ tƣởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng 5 Chƣơng I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Phan Bội Châu là người có vị trí quan trọng trong lịch sử Việt Nam cận đại, nên từ rất sớm, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về ông dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau như Văn học, Sử học, Triết học, ... Nghiên cứu Phan Bội Châu trên các phương diện của các tác giả trong và ngoài nước là vô cùng phong phú, đa dạng và đã đạt được những thành công nhất định. Với giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận án, chúng tôi chú trọng vào những khuynh hướng nghiên cứu chủ yếu về Phan Bội Châu có liên quan trực tiếp đến nội dung đề tài như sau: 1.1. Các công trình nghiên cứu về cơ sở của việc luận giải tƣ tƣởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng của Phan Bội Châu Ở nước ta, việc nghiên cứu sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về các tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng chưa được đề cập với tư cách là một nội dung độc lập mà thường chỉ được bàn tới một phạm vi hẹp hoặc thông qua các nội dung căn bản khác của ông. Tuy vậy, những nhận định được đưa ra từ những nghiên cứu này cũng có tác dụng định hướng cho tác giả khi nghiên cứu đề tài. Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về bối cảnh kinh tế, xã hội, văn hóa, tƣ tƣởng của việc luận giải tƣ tƣởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng của Phan Bội Châu Về bối cảnh kinh tế, xã hội, trước hết phải kể đến những phân tích của tác giả Trần Văn Giàu trong cuốn Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, tập 2 (Nxb Khoa học Xã hội, HN, 1975). Tác giả đã phân tích điều kiện chính trị, xã hội dẫn tới sự khủng hoảng của Nho giáo ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX; đồng thời miêu tả một cách chi tiết về biểu hiện của cuộc khủng hoảng này trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. Từ những phân tích đó, tác giả cho rằng: “Cái thời giữa hai cuộc chiến tranh này, lạ thay, lại chứng kiến một số sự kiện giống như chuyện một ngọn đèn phụt lên để rồi tắt. Như: hầu hết các kinh truyện Nho giáo, kể cả Kinh Dịch rất khó hiểu, đều được dịch, giải thích, in ra; như có những bài và những sách trình bày Nho giáo một cách có hệ thống, trình bày tư tưởng và lịch sử của Nho gia trứ danh, ở bên Trung Quốc và ở Việt Nam; lại như những loạt bài báo và những sách phê bình Nho giáo một cách 6 khá kịch liệt và đôi khi sâu sắc... Có thể nói rằng ở nước ta trước kia chưa từng có lúc nào thảo luận nhiều và sâu về Nho giáo như lúc này” [50, tr. 310, 311]. Bằng quan điểm duy vật, tác giả cuốn sách đã giải thích nguyên nhân dẫn tới những bàn luận “nhiều và sâu” về vấn đề Nho giáo và văn hóa dân tộc ở nước ta thời kỳ này. Ông viết: “Sở dĩ như vậy, xét đến cùng, không phải vì lẽ gì khác hơn là thời thế; những năm 20, 30 là thời kỳ chuyển mình của cách mạng Việt Nam, khiến các mặt đấu tranh tư tưởng đều nổi lên gần cùng một nhịp với đấu tranh kinh tế và chính trị. Những con người tham gia cuộc tranh luận lúc này không giống nho gia đầu thế kỷ, mà là những con người hoặc ít hoặc nhiều biết học thuật Tây phương hiện đại, sự sử dụng chữ quốc ngữ, số độc giả đông đều là những điều kiện thuận lợi, cho nên lập luận thường rành rọt, lô-gich, chi li, nói chung là sâu sắc hơn vài ba chục năm về trước” [50, tr. 311]. Những bàn luận trên của tác giả giúp chúng ta hiểu rằng các hoạt động bảo vệ, chấn hưng Nho giáo ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX là kết quả tất yếu của các cuộc đấu tranh kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng trong buổi giao thời. Ở đây, chúng ta không thấy Trần Văn Giàu bàn trực tiếp về cơ sở dẫn tới việc Phan Bội Châu viết tác phẩm Khổng học đăng, nhưng cần hiểu rằng đây là một tác phẩm nằm trong phong trào diễn dịch, giải thích các kinh truyện Nho giáo được tác giả nhắc đến trong bài viết. Vì vậy, những phân tích trên của tác giả có tác dụng định hướng chúng tôi khảo sát các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng ở Việt Nam và thế giới giai đoạn đầu thế kỷ XX với tư cách là cơ sở dẫn tới sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về các tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng. Ở góc độ trực tiếp hơn, trong bài Một số suy nghĩ về vấn đề Phan Bội Châu và Nho giáo (In trong kỷ yếu Phan Bội Châu – Con người và sự nghiệp của trường Đại học KHXH & NV, 1997), tác giả Đỗ Thị Hoà Hới đã nhắc đến tình hình xã hội Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất nhằm giúp độc giả hiểu rõ hơn động cơ, mục đích của Phan Bội Châu khi viết Khổng học đăng. Tác giả cho rằng, sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, chính quyền thực dân đẩy mạnh chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai khiến xã hội Việt Nam có những biến đổi nhiều mặt theo hướng thực dân hóa. Chúng tìm mọi cách để cắt đứt ảnh hưởng tốt đẹp của văn hóa truyền thống dân tộc trong đó có văn hóa Nho giáo chân chính, nhằm “Tây hóa” một cách thô bạo nền văn hóa lâu đời của Việt Nam. Theo tác giả, “không thể nói chính sách đó không gây 7 ra những di hại cho nền văn hóa dân tộc” và đó là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời Khổng học đăng của Phan Bội Châu. Tác giả viết: “Phan Bội Châu bị bắt và bị an trí ở Huế, mặc dầu sống trong hoàn cảnh hết sức khó khăn bị o ép đủ bề, nhưng với tấm lòng thương dân, yêu nước, với ý thức trách nhiệm cao đối với sự phục hưng đất nước, trước thực tế mới với độ mẫn cảm của một bậc đại chân nho sớm nhận thấy ảnh hưởng tai hại của chính sách làm đứt đoạn nền văn hóa truyền thống lúc ấy, ông đã có ý thức bảo tồn, chuyển dịch tinh hoa của văn hóa phương Đông cho hậu thế, với thiện chí có thể hướng bước chuyển của dân tộc từ truyền thống sang hiện đại một cách thuận chiều, ít đổ vỡ” [37, tr. 342]. Về bối cảnh văn hóa, tư tưởng, trong Luận án tiến sĩ Triết học “Tư tưởng triết học và chính trị của Phan Bội Châu” (Viện Triết học, 2006), TS. Nguyễn Văn Hòa đã khẳng định thái độ đúng đắn của Phan Bội Châu trong việc kế thừa di sản tư tưởng của dân tộc và tinh hoa của nhân loại và cho rằng chính sự tiếp xúc với văn minh phương Tây đã giúp Phan Bội Châu có được thái độ đúng đắn này. Tác giả viết: “Phan Bội Châu là một trong những người đại diện cho buổi giao thời của sự tiếp xúc Á – Âu hồi cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Ông đã hăm hở đón nhận và tiếp xúc với các trào lưu tư tưởng tư sản phương Tây được chuyển tải qua Tân thư, Tân văn” [57, tr. 45]. Theo tác giả, chính sự tiếp xúc với văn minh phương Tây đã giúp Phan Bội Châu đối chiếu, kiểm nghiệm lại vốn hành trang tư tưởng của mình, đưa lại cho ông một cách nhìn mới mẻ về thế giới. Ở đây, tác giả chỉ bàn đến Tân văn, Tân thư với tư cách là tiền đề lý luận quan trọng của chủ trương điều hòa Đông – Tây, Kim – cổ của Phan Bội Châu. Tuy nhiên, cần hiểu rằng, việc Phan Bội Châu kế thừa và luận giải mới các tư tưởng Nho giáo trong Khổng học đăng chính là bằng chứng tiêu biểu nhất cho chủ trương dung hợp đó. Vì vậy, những lập lập, phân tích hợp lý của tác giả Nguyễn Văn Hòa sẽ được chúng tôi kế thừa và phát triển để làm rõ tiền đề tư tưởng dẫn đến Khổng học đăng của Phan Bội Châu. Tác giả Nguyễn Thọ Đức trong bài Tìm hiểu xu hướng hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo trong Khổng học đăng của Phan Bội Châu (Tạp chí Hán Nôm, số 6, 2011, tr. 37 – 57), đã phân tích sự ra đời của Khổng học đăng như là kết quả tất yếu của phong trào “chấn hưng và hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo” ở Việt Nam những năm 30 của thế kỷ XX. Từ việc phân tích sự khủng hoảng sâu sắc của Nho giáo ở các quốc gia Đông Á trước cuộc xâm lược của các nước đế quốc phương Tây cuối thế 8 kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tác giả đã bàn về phong trào chấn hưng và hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo ở Trung Quốc và Việt Nam trong giai đoạn này. Trên cơ sở đó, tác giả làm rõ sự ra đời của Khổng học đăng: “Phong trào chấn hưng và hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo ở Trung Quốc bắt đầu từ những năm đầu thập niên ba mươi thế kỉ XX, phát triển mạnh mẽ và liên tục thành một dòng tư tưởng lớn trong lịch sử tư tưởng hiện đại Trung Quốc - trào lưu Tân Nho học hiện đại. Thập niên ba mươi, bốn mươi, ở Việt Nam diễn ra hoạt động chấn hưng Nho giáo khá rầm rộ của những người theo “khuynh hướng truyền thống”... Khổng học đăng của Phan Bội Châu là một trong những trước tác tiêu biểu của hoạt động chấn hưng Nho giáo giai đoạn này thể hiện khá rõ xu hướng hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo” [48, tr. 38]. Mặc dù chưa phân tích chi tiết về nội dung phong trào chấn hưng và hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo ở Trung Quốc và Việt Nam, nhưng tác giả đã giúp chúng tôi hiểu rằng những phong trào này chính là bối cảnh tư tưởng quan trọng dẫn tới sự ra đời Khổng học đăng của Phan Bội Châu. Có thể thấy, mặc dù có rất ít công trình nghiên cứu về cơ sở của sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về các tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng nhưng vấn đề này đã bước đầu được tiếp cận và phân tích ở góc độ trực tiếp hoặc gián tiếp. Những lập luận của các tác giả trên đã phần nào giúp chúng ta thấy được mối quan hệ giữa sự biến đổi về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX (dưới sự xâm lược của thực dân Pháp) với sự ra đời Khổng học đăng của Phan Bội Châu. Nhờ có những công trình nghiên cứu đó mà chúng ta nhìn nhận rõ hơn về cuộc khủng hoảng Nho giáo ở Việt Nam, cùng với nhu cầu bảo vệ các giá trị truyền thống của dân tộc trước sự lấn át của văn minh phương Tây. Đây được xem là điều kiện quan trọng dẫn tới việc Phan Bội diễn dịch lại các tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm của mình. Thứ hai, về thân thế, sự nghiệp của Phan Bội Châu Vấn đề này được rất nhiều các tác giả quan tâm nghiên cứu và được thể hiện không chỉ trong các công trình chuyên khảo về Phan Bội Châu mà cả trong các tài liệu khác viết về Lịch sử Việt Nam, Danh nhân văn hoá Việt Nam... Về thân thế của Phan Bội Châu, trước tiên phải kể đến cuốn Phan Bội Châu niên biểu (do Phan Bội Viết năm 1929). Đây là tập hồi ức của Phan Bội Châu mang đậm dấu ấn cá tính và bút pháp tác giả, trong đó ghi lại toàn bộ cuộc đời ông. Tập hồi ký hơn 200 trang này giúp người đọc biết được Phan Bội Châu sinh ra ở Nam 9 Đàn, Nghệ An trong một gia đình “Thanh nho”, “đời đời theo nghiệp đọc sách”. Cha ông là Phan Văn Phổ - “một người thông nho”, sống bằng nghề dạy học và có công lớn trong việc mở rộng kiến thức cho Phan Bội Châu bằng cách giảng giải sử sách, kinh truyện, sự nghiệp của các danh nhân, hiền triết,... Mẹ ông là Nguyễn Thị Nhàn, một người hết mực hiền hậu, hiểu biết và cũng có dòng dõi Nho học. Bên cạnh việc cung cấp cho độc giả những thông tin đầy đủ về thân thế của Phan Bội Châu, tập hồi ký còn giúp người đọc thấy được một con người có tư chất thông minh, tràn đầy nhiệt huyết, yêu nước chân thành và suốt đời phấn đấu, hy sinh cho nền độc lập của dân tộc. Tác phẩm này là cơ sở quan trọng cho các nhà nghiên cứu về sau trình bày, phân tích một cách chi tiết về quê hương, gia đình và bản thân Phan Bội Châu, trên cơ sở đó đánh giá sự ảnh hưởng của các yếu tố trên đến sự nghiệp chính trị, tư tưởng của ông sau này. Qua việc tìm hiểu rất nhiều tập sách chuyên khảo, luận án, luận văn, bài báo khoa học về Phan Bội Châu của các tác giả đã kể trên, chúng tôi nhận thấy, vấn đề thân thế của Phan Bội Châu đều được đề cập khá kỹ với những nhận xét, đánh giá mang tính thống nhất cao. Về hoàn cảnh xuất thân, các tác giả đều nhận định Phan Bội Châu được sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học tại vùng quê giàu truyền thống yêu nước; được đào luyện từ “cửa Khổng sân Trình” và là bậc đại nho luôn có trách nhiệm với vận mệnh của đất nước. Về đặc điểm bản thân, các tác giả đều đánh giá ông là con người tài năng, có tư tưởng cấp tiến, có lòng yêu nước nhiệt thành và suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Chẳng hạn, trong Lời giới thiệu của cuốn Phan Bội Châu (1867 – 1940) – con người và sự nghiệp (NXB Hà Nội, 1997), tác giả Phùng Hữu Phú cho rằng: “Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho, giữa miền quê Nghệ An giàu truyền thống yêu nước, Phan Bội Châu ngay từ hồi trẻ đã nổi tiếng là một người mẫn tiệp, có chí hơn người” [37, tr. 5]. Trong luận án tiến sĩ Triết học Thế giới quan Phan Bội Châu (Đại học KHXH & NV, 2001), tác giả Lê Ngọc Thông cũng nhận xét: “Được sinh ra và được nuôi dưỡng trong một gia đình như vậy, Phan Bội Châu đã trở thành một người con trác việt của dân tộc Việt Nam” [117, tr. 38]. Ở một góc độ sâu sắc hơn, trong luận án tiến sĩ Triết học Tư tưởng triết học và chính trị của Phan Bội Châu (Viện Triết học, 2006), trên cơ sở phân tích một cách khái quát về hoàn cảnh xuất thân và đặc điểm bản thân của Phan Bội Châu, tác giả Nguyễn Văn Hòa cho rằng: “Sinh ra 10 trong một gia đình như vậy, nên tư tưởng Nho giáo đã sớm ăn sâu vào Phan Bội Châu từ tấm bé” [57, tr. 52]. Tác giả còn khẳng định tài năng và đức độ của Phan Bội Châu “một mặt đã giúp cho ông thuyết phục, tập hợp được đông đảo quần chúng đi theo con đường cứu nước của mình; mặt khác, còn giúp cho ông biết chắt lọc, kế thừa và tiếp thu những tinh hoa triết học, văn hóa của phương Đông và phương Tây để làm giàu cho trí tuệ của mình” [57, tr. 53]. Gần đây, trong cuốn Phan Bội Châu, nhà yêu nước, nhà văn hóa (Nxb Văn hóa Thông tin, 2012), tác giả Chương Thâu nhận định: “Nhờ hoàn cảnh gia đình, điều kiện giáo dục, nhà trường Nho học, nhờ sự tiếp xúc với đời sống và giao dịch với nhiều nhà yêu nước khác, đặc biệt nhờ sự tác động của văn chương tiến bộ trong và ngoài nước mà một thế giới quan mới đã được dần dần hình thành trong Phan Bội Châu” [115, tr. 186], ... Những nhận xét trên còn được lặp lại trong rất nhiều công trình nghiên cứu về Phan Bội Châu sau này. Chúng tôi đồng tình với những phân tích, đánh giá, nhận xét của các nhà nghiên cứu đi trước và sẽ tiếp thu, kế thừa trong quá trình thực hiện đề tài luận án của mình. Theo chúng tôi, đó là điều kiện về gia đình và là những nhân tố chủ quan cơ bản dẫn đến sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về các tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng. Về sự nghiệp của Phan Bội Châu, trong các công trình nghiên cứu về ông, hầu hết các tác giả đều chia sự nghiệp của ông thành bốn chặng lớn (giống với cách mà ông tự chia trong Phan Bội Châu niên biểu), đó là: Từ đầu cho đến 1900, khi ông đỗ Giải nguyên thi Hương trường Nghệ; từ khi đỗ Giải nguyên cho đến trước khi xuất dương (1905); từ lúc xuất dương cho đến khi bị Pháp bắt ở Thượng Hải (1925) và cuối cùng là 15 năm bị giam lỏng ở Bến Ngự. Đánh giá về sự nghiệp của ông, trước đây, các nhà nghiên cứu đều nhất trí coi Phan Bội Châu là một chiến sĩ cách mạng kiên cường bất khuất, một nhà yêu nước lớn của Việt Nam đầu thế kỷ XX. Sự đánh giá đó rất đúng nhưng chưa toàn diện bởi mới chỉ dựa vào những vai trò và cống hiến của nhà chí sĩ về mặt chính trị cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Sau này, khi các tác phẩm của cụ được công bố nhiều hơn và ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu về Phan Bội Châu trên các lĩnh vực Văn, Sử, Triết thì những nhận định về Phan Bội Châu đã ở mức độ bao quát hơn, đầy đủ hơn và sâu sắc hơn. Chẳng hạn như trong bài Phan Bội Châu – nhà cách mạng dân tộc, nhà văn yêu nước, nhà tư tưởng dân chủ lớn nhất Việt Nam đầu thế kỷ XX (In trong cuốn Phan Bội Châu trong dòng thời 11 đại, Nxb Nghệ An, 2007), tác giả Trần Văn Giàu có viết: “Phan Bội Châu là một chính khách nổi tiếng, một nhà văn lớn, đồng thời cũng là một nhà tư tưởng lỗi lạc nhất nước ta trong vài chục năm đầu thế kỷ” [113, tr. 50]. Trong cuốn Phan Bội Châu, nhà yêu nước, nhà văn hoá (Nxb Văn hóa Thông tin, 2012), tác giả Chương Thâu nhận định: “Trong khi dấn thân vào sự nghiệp cứu nước, Phan Bội Châu cũng đồng thời có một sự nghiệp sáng tác văn thơ tuyên truyền yêu nước, coi đó là một mặt hoạt động không thể thiếu trong cuộc đấu tranh cách mạng, góp phần đắc lực trong sự mưu cầu tiến bộ của nhân quần xã hội. Văn chương của cụ thể hiện trên mọi thể loại: thơ văn, khảo cứu lịch sử, chính trị, tư tưởng, triết học, đạo đức, chủ thuyết, tôn giáo,... đáng được các thế hệ người đương thời và con cháu mai sau vinh danh là “một nhà yêu nước, nhà văn hóa lớn”” [115, tr, 11]. Trong cuốn Tư tưởng Phan Bội Châu về con người (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013), tác giả Doãn Chính và Cao Xuân Long cũng khẳng định: “Phan Bội Châu không chỉ là nhà văn, nhà nhơ, nhà yêu nước mà còn là nhà tư tưởng, nhà triết học, xã hội học... Trên lĩnh vực tư tưởng, ông là người có tư tưởng tiến bộ ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống kinh tế - xã hội, và là tư tưởng tiêu biểu cho một giai đoạn lịch sử đầy biến động ở Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX” [27, tr, 350]... Bên cạnh những ý kiến thống nhất trên, trong các công trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Phan Bội Châu còn xuất hiện sự bất đồng, đặc biệt là trong những đánh giá về 15 năm cuối đời của cụ. Trong cuốn Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại (Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1995), nhận xét về 15 năm cuối đời của Phan Bội Châu, tác giả Trần Đình Hượu viết: “Nhiều người vì tình cảm không nỡ nói đến 15 năm cuối cùng của Ông già Bến Ngự. Không có lý do chính đáng nào để che giấu sự thật. Hai mươi năm của cuộc đời hoạt động cứu nước của cụ đã đủ giành cho cụ vị trí vinh quang. Mặt khác về ý nghĩa làm chứng cho thời đại, 15 năm cuối đời mới cho ta thấy chỗ dừng lại của một nhà nho và nỗ lực của cụ tiếp tục vươn lên một cách bất lực, đồng thời mới cho ta thấy đầy đủ ý nghĩa lớn của 20 năm trước. Phan Bội Châu kết thúc cuộc đời của mình, như cụ tự nói là một người thất bại, hơn thế như một người cô độc, như một người trở lại là nhà nho. Cả cuộc đời cụ là bằng chứng vô giá cho một cuộc thí nghiệm không bao giờ nên lặp lại là dùng những quan điểm Nho giáo hay cách nhìn Nho giáo mà giải quyết các vấn đề của thế giới hiện đại” [62, tr. 275. 276]. 12 Khác với quan điểm trên, trong bài Nhà yêu nước Phan Bội Châu (1867 – 1940) (In trong cuốn Phan Bội Châu, con người và sự nghiệp, Nxb Hà Nội, 1997), tác giả Đinh Xuân Lâm cho rằng: “Phan Bội Châu là nhà yêu nước lớn suốt đời không ngừng phấn đấu hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, không phải chỉ trong thời kỳ “đắc ý” của những năm đầu thế kỷ XX, mà ngay cả khi bị kẻ thù bắt cóc, rồi đem về giam lỏng tại Bến Ngự sống trong vòng kiểm soát khắt khe vẫn tìm cách hoạt động – chủ yếu là dùng ngòi bút làm vũ khí – để góp phần cổ vũ, giáo dục đồng bào. Vì lẽ đó mà nếu như trước đây có ý kiến cho rằng từ sau khi tổ chức Việt Nam Quang Phục hội tan rã thì Phan Bội Châu đã đứng trên bờ của dòng thác cách mạng, e rằng nhận định đó có phần khắt khe và không phù hợp với thực tế lịch sử lúc bấy giờ” [37, tr. 9]. Nhận định trên thống nhất với nhận định của nhiều nhà nghiên cứu về Phan Bội Châu sau này như Trần Ngọc Vương, Imai Akio (Đại học Tokyo, Nhật Bản), Hoàng Kim Kính,... Trong bài “Mấy đặc điểm loại hình nhân cách nhà cách mạng Phan Bội Châu” (In trong cuốn Phan Bội Châu trong dòng thời đại, Nxb Nghệ An, 2007), tác giả Trần Ngọc Vương nhấn mạnh: “Riêng 15 năm cuối đời, Phan Bội Châu tự cho là “đồ bỏ”, là “sống thừa”, không có gì đáng chép, nhưng với người nghiên cứu thì vẫn có nhiều điều để bàn bạc và suy ngẫm” [113, tr. 145]. Ý kiến này cũng được tác giả Imai Akio (Đại học Tokyo, Nhật Bản) khẳng định trong bài Tư tưởng và văn học của Phan Bội Châu thời kỳ ở Huế (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 5 – 2014). Theo tác giả, giai đoạn từ khi Phan Bội Châu bị bắt về quản thúc ở Huế đến khi mất là “thời kỳ rất đáng được lưu tâm bởi nó là giai đoạn cực kỳ phong phú về mặt tư tưởng và văn học” [1, tr. 11]. Đặc biệt, trong bài“Vị trí tác phẩm Khổng học đăng trong tư tưởng Phan Bội Châu” (In trong cuốn Phan Bội Châu trong dòng thời đại), nhà nghiên cứu Hoàng Kim Kính khẳng định: “Không thể nói giai đoạn sau 1925 Phan Bội Châu không có gì đóng góp lớn hay có biểu hiện thịnh trị về mặt tư tưởng so với giai đoạn trước đó” [113, tr. 427]. Theo ông, “với việc từ một nhà nho yêu nước tiến tới tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản và việc diễn giải Khổng, Mạnh theo tư tưởng mới ở Phan Bội Châu đã là một bước tiến dài trong lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung và trong tư tưởng ông nói riêng” [113, tr. 427]. Chúng tôi cho rằng nhận định này là hợp lý, chỉ tiếc rằng, trong khuôn khổ của một bài nghiên cứu, các tác giả Đinh Xuân Lâm, Trần Ngọc Vương, Hoàng Kim Kính và Imai Akio đều chưa luận bàn một cách chi tiết, hệ thống và đủ sức thuyết phục 13 về nhận định của mình. Vì vậy, có thể coi đây là một gợi ý quan trọng cho việc đi sâu nghiên cứu và làm sáng tỏ công lao, đóng góp của Phan Bội Châu trong những năm cuối đời mình thông qua những trước tác được ông viết vào giai đoạn này, trong đó có Khổng học đăng. Như vậy, bằng việc nghiên cứu khá kỹ về cuộc đời, thân thế và sự nghiệp của Phan Bội Châu gắn liền với những biến cố lịch sử Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, hầu hết các tác giả đều có chung nhận định rằng dù có ở góc độ là nhà cách mạng, nhà văn, nhà thơ hay nhà triết học thì cả cuộc đời mình, từ lúc tuổi thơ cho đến khi từ giã cõi đời, Phan Bội Châu đã giành hết tâm sức cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do của Tổ quốc. Các tác giả cũng chỉ ra rằng, do những hạn chế tất yếu của điều kiện lịch sử và của giai cấp xuất thân chi phối nên cho đến cuối cuộc đời, cụ vẫn chưa thực hiện được hoài bão cao cả của mình, tuy vậy những bài học được rút ra từ cuộc đời và sự nghiệp của cụ cũng có ý nghĩa to lớn đối với hậu thế. Chúng tôi đồng tình với những nhận định sâu sắc trên và chú ý sử dụng các kết quả mà các nhà nghiên cứu đã đạt được để làm rõ những yếu tố chủ quan dẫn đến sự ra đời Khổng học đăng của Phan Bội Châu. 1.2. Các công trình nghiên cứu về những nội dung tƣ tƣởng Nho giáo đƣợc Phan Bội Châu kế thừa và diễn giải mới trong tác phẩm Khổng học đăng Qua khảo sát một khối lượng đồ sộ công trình nghiên cứu về Phan Bội Châu của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, chúng tôi nhận thấy những công trình nghiên cứu về nội dung tư tưởng Nho giáo được Phan Bội Châu kế thừa và diễn giải mới trong tác phẩm Khổng học đăng chiếm một số lượng khá khiêm tốn. Tuy nhiên, không phải vì thế mà thiếu những nhận định có giá trị về vấn đề này. Năm 1997, trong bài Một số suy nghĩ về vấn đề Phan Bội Châu và Nho giáo (In trong kỷ yếu Phan Bội Châu – Con người và sự nghiệp, Nxb Hà Nội), tác giả Đỗ Thị Hoà Hới cho rằng: “Trong kho tàng Khổng học gồm Tứ thư, Ngũ Kinh, chúng ta nhận thấy Phan Bội Châu chú trọng học thuyết Nhân đức – Tính thiện của Khổng – Mạnh. Ông dành phần lớn số trang của cả 2 tập sách, phân tích học thuyết nhân từ nghĩa gốc trong Luận ngữ và được phát triển thêm bởi Mạnh Tử và các nhà nho đời sau” [37, tr. 342 – 343]. Theo tác giả, vì mục tiêu quan trọng của Phan Bội Châu khi viết Khổng học đăng là thuyết phục hậu thế tin tưởng vào tính chân lý hiển nhiên của đạo lý Nhân – Đức, tính thiện của 14 Khổng – Mạnh, cho nên ông rất chú trọng làm rõ nội dung chữ Nhân trong tác phẩm này. Từ những phân tích của mình về chữ Nhân trong luận giải của Phan Bội Châu, tác giả đánh giá: “Qua cách trình bày của Phan Bội Châu, ta thấy ý nghĩa của chữ Nhân của Khổng giáo rất sâu sắc, ảnh hưởng của nó rất to lớn” [37, tr. 346]. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra hạn chế của Phan Bội Châu khi luận giải chữ Nhân trong Nho giáo, đó là “chưa thể vượt ra khỏi cách nhìn của Nho gia khi cho tất cả vấn đề Nhân – Đức – Tính thiện có nguồn gốc tiên thiên, tiên nghiệm và hoàn thiện chỉ thuộc về phạm vi chủ thể” [37, tr. 343]. Ở một góc độ sâu sắc hơn, trong bài Tìm hiểu xu hướng hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo trong Khổng học đăng của Phan Bội Châu” (Tạp chí Hán Nôm, số 6, 2011, tr. 37 – 57), tác giả Nguyễn Thọ Đức đã làm rõ một nội dung tư tưởng Nho giáo được luận giải trong Khổng học đăng, bao gồm: phạm trù Nhân; tư tưởng “dân chủ”, “dân quyền” và tư tưởng kinh tế. Phân tích luận giải của Phan Bội Châu về phạm trù Nhân trong Khổng học đăng, tác giả cho rằng “Phan Bội Châu lạc quan tin tưởng “Nhân” có giá trị thường hằng, phổ quát, là đạo lí tốt đẹp nhất, cao cả nhất của nhân loại” [48, tr. 44] và “dường như Phan Bội Châu muốn khẳng định giá trị của đạo “Nhân” trong học thuyết Nho giáo không chỉ còn bó hẹp trong phạm vi các nước vốn sở hữu văn hóa Nho giáo truyền thống, mà nó hoàn toàn có khả năng vượt qua biên giới của quốc gia, vượt qua thời gian quá khứ, để trở thành khuôn mẫu và mô phạm của nhân loại trên toàn thế giới trong tương lai” [48, tr. 44]. Bàn về vấn đề kinh tế trong Khổng học đăng, tác giả cho rằng: “Một trong những tư tưởng của Nho giáo bị phê phán gay gắt là tư tưởng “trọng nông ức thương”, coi thường phát triển kinh tế... Phan Bội Châu cho rằng đó là quan điểm sai lầm về tư tưởng Khổng - Mạnh, thực ra tư tưởng Khổng - Mạnh có bao hàm cả tư tưởng kinh tế” [48, tr. 46]. Tác giả còn trích dẫn một số lập luận của Phan Bội Châu về chế độ “tỉnh điền”, “tự do mậu dịch” trong Khổng học đăng và cho rằng: “Người đời nay phê phán Mạnh Tử không biết chính sách làm cho nước giàu lên, còn Phan Bội Châu thì khẳng định sách Mạnh Tử là cuốn cẩm nang kinh tế dân giàu nước mạnh “đáng xem làm sách phú cường”” [48, tr. 47]. Về tư tưởng “dân chủ”, tác giả bài báo cho rằng, nếu như từ trước đến nay, mọi người đều cho rằng Nho giáo khiếm khuyết tư tưởng dân chủ, dân quyền thì trong Khổng học đăng, Phan Bội Châu đã chứng minh cho người đọc thấy được “Nho giáo hàm chứa đầy đủ những tư tưởng đó” [48, tr. 45]. 15 Trên cơ sở phác họa một số nội dung hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo trong Khổng học đăng như trên, tác giả nhấn mạnh: “Với Phan Bội Châu, Nho giáo không chỉ là học thuyết có giá trị đạo đức thường hằng phổ biến ưu việt hơn so với các tôn giáo khác, là phương thuốc hữu hiệu chữa trị căn bệnh văn hóa vật chất phương Tây, mà còn hội đủ những tư tưởng quan trọng căn bản theo “tiêu chuẩn” phương Tây thời hiện đại như: dân chủ, khoa học, kinh tế...” [48, tr. 12]. Nhận định trên của tác giả Nguyễn Thọ Đức cũng giống với nhận định của tác giả Imai Akio (Đại học Tokyo, Nhật Bản) khi bàn về xu hướng “tái giải thích Nho giáo” trong Khổng học đăng. Trong bài Tư tưởng và văn học của Phan Bội Châu thời kỳ ở Huế (Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 5, 2014, tr. 11 – 17), Imai Akio đã dành một mục để trình bày về việc Phan Bội Châu tái giải thích Nho giáo. Bằng việc so sánh quan niệm của Phan Bội Châu với Phan Khôi và Trần Trọng Kim, tác giả đã nêu lên những nét đặc sắc trong luận giải của Phan Bội Châu về chính trị và kinh tế. Về chính trị, tác giả nhận định: “Phan Khôi cho rằng đạo Khổng vốn đề cao tôn quân - trung quân nên không thích hợp cho thể chế dân chủ hiện đại. Trần Trọng Kim lại cho rằng “quân quyền” cũng chính là chủ quyền quốc gia, nên nếu người dân trung thành với “quân quyền” thì chính thể mới vững chắc... Riêng Phan Bội Châu lại cho rằng trong tư tưởng Nho giáo đã bao hàm các yếu tố của “chủ nghĩa dân chủ”. Về kinh tế, theo tác giả, nếu như Phan Khôi dẫn chứng thái độ xem thường thực nghiệp như một ví dụ cho ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo thì Phan Bội Châu lại ca ngợi “Chủ nghĩa kinh tế bình dân” của Mạnh Tử như là nguồn cội của chủ nghĩa xã hội. Tác giả nhấn mạnh: “Về mặt kinh tế, tác phẩm ủng hộ chế độ công hữu chứ không phải chế độ tư hữu và coi trọng chủ nghĩa bình quân, bình đẳng” [1, tr. 17]. Tác giả cũng cho rằng với Khổng học đăng, Phan Bội Châu đã giúp người đọc thấy được trong tư tưởng Nho giáo đã bao hàm tư tưởng dân chủ, tư tưởng kinh tế chứ không hề mâu thuẫn với “dân chủ” và khiếm khuyết tư tưởng kinh tế như quan niệm của nhiều người, đặc biệt là những người theo khuynh hướng Tây học. Tuy nhiên, trong phạm vi một bài tạp chí, tác giả chưa có những phân tích và trích dẫn kinh điển cần thiết để chứng minh cho những nhận định của mình. Ở góc độ gián tiếp, trong cuốn Tư tưởng Phan Bội Châu về con người (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013), tác giả Doãn Chính và Cao Xuân Long cũng dành một phần nhỏ bàn về một số nội dung trong Khổng học đăng liên quan đến 16 vấn đề giải phóng con người như: vấn đề “dưỡng dân”, vấn đề “giáo dân”, vai trò và sức mạnh của nhân dân. Các tác giả của cuốn sách khẳng định trong tác phẩm Khổng học đăng “Phan Bội Châu đã cho rằng nhân dân có một sức mạnh vô cùng to lớn, nhân dân là trời cho nên ý muốn, nguyện vọng của nhân dân là ý muốn và nguyện vọng của trời” [27, tr. 148]. Như vậy, những nội dung tư tưởng Nho giáo được Phan Bội Châu luận giải trong Khổng học đăng đã được một số tác giả đề cập ở góc độ trực tiếp hoặc gián tiếp, song mới dừng lại ở những tiếp cận ban đầu trong một phạm vi nghiên cứu hẹp. Tuy vậy, những nhận định hợp lý của các tác giả trên lại có tác dụng gợi ý cho chúng tôi khảo sát một cách chi tiết về nội dung tư tưởng Nho giáo được Phan Bội Châu kế thừa và phát triển trong tác phẩm Khổng học đăng của ông, qua đó rút ra những bài học bổ ích để vận dụng vào quá trình xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay. 1.3. Các công trình nghiên cứu về giá trị, hạn chế và ý nghĩa của sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về tƣ tƣởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng Thứ nhất, về giá trị của việc luận giải Nho giáo trong Khổng học đăng của Phan Bội Châu Năm 1990, trong cuốn Phan Bội Châu toàn tập, tập 9 (Nxb Thuận Hóa, Huế), tác giả Chương Thâu cho rằng Khổng học đăng là bộ sách biên khảo có giá trị bậc nhất của Phan Bội Châu trong những năm sống ở Bến Ngự. Tác giả viết: “Diễn dịch lại Tứ thư theo quan điểm mới có quan hệ với lịch sử Trung Quốc, Việt Nam và với một số nước khác trên thế giới, đồng thời chỉ ra cái hay, cái tích cực, phê phán những cái tiêu cực có liên quan đến tư tưởng Nho giáo, rút ra bài học kinh nghiệm, đem ứng dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, đó chính là nội dung quan trọng nhất của bộ sách Khổng học đăng cũng là những điều tâm đắc nhất, tâm huyết của Phan Bội Châu, là thiện chí của nhà chí sĩ muốn gửi lại cho đời và cho các thế hệ con cháu mai sau” [17, tr. 9]. Năm 1997, trong bài Phan Bội Châu - nhà văn hoá (In trong cuốn Phan Bội Châu con người và sự nghiệp, Nxb Hà Nội, 1997), tác giả Nguyễn Đình Chú cho rằng: “Với Khổng học đăng, Phan Bội Châu đã để lộ hai điều thật là đáng quý hiếm trong học thuật, sự ham hiểu cặn kẽ, sâu sắc Khổng học và tư thế học thuật vững chãi đầy bản lĩnh đối với những giá trị văn hoá tinh thần của phương Đông cổ truyền” [37, tr. 244 - 245]. Đặt trong sự so sánh với nhiều công trình khác của các tác giả khi viết 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan