VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HOÀNG VŨ
TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HÒA,
TỈNH LONG AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HOÀNG VŨ
TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HÒA,
TỈNH LONG AN
Chuyên Ngành: Luật Kinh Tế
Mã Số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kì công trình nào khác, các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ
nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hoàng Vũ
LỜI CẢM ƠN
Qua hai năm được học tập và rèn luyện tại Học viện Khoa học xã hội, tôi đã
nhận được sự dạy dỗ, chỉ bảo nhiệt tình của các thầy cô giáo. Các thầy cô đã truyền
đạt cho tôi những kiến thức chuyên môn giúp tôi vững vàng, tự tin trong công việc.
Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Trong quá trình thực hiện đềtài luận văn này, tôi đã nhận được sự chỉ bảo,
giúp đỡ tận tình của PGS.TS. Phạm Hữu Nghị, các thầy cô trong khoa Luật- Học
viện Khoa học xã hội. Nhân dịp này cho tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
PGS.TS. Phạm Hữu Nghị về những ý kiến đóng góp quý báu của thầy.
Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo, cán bộ Trung tâm phát triển quỹ đất
huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình
tôi thực hiện luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng lĩnh vực nghiên cứu có tính chất phức tạp
cao, kết quả nghiên cứu không tránh được những thiếu sót, tôi mong được sự góp ý
của các Thầy, Cô và các bạn để Luận văn này được hoàn thiện hơn, được sử dụng
trong thực tế để đóng góp cho công tác xây dựng chính sách đền bù, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất tại địa phương.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hoàng Vũ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI ĐỊNH CƢ VÀ PHÁP LUẬT
VỀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT .........................................7
1.1. Lý luận chung về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ...................................7
1.2. Lý luận pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ............................16
1.3. Các yếu tố tác động đến tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ......................22
1.4. Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật về tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất ..............................................................................................................24
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TẠI
HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN ................................................................33
2.1. Thực trạng pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất .......................33
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại
huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ..............................................................................44
2.3. Đánh giá về công tác tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện
Đức Hòa, tỉnh Long An .........................................................................................55
Chƣơng 3: YÊU CẦU, ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ
NƢỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG
AN .............................................................................................................................62
3.1. Yêu cầu, định hướng bảo đảm và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An 62
3.2. Giải pháp bảo đảm và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ..................68
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................81
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CCN
Cụm công nghiệp
GPMB
Giải phóng mặt bằng
KCN
Khu công nghiệp
SDĐ
Sử dụng đất
TĐC
Tái định cư
THĐ
Thu hồi đất
UBND
Ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì
mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” thì việc thu hồi đất
để chuyển một phần quỹ đất ở, đất nông nghiệp sang sử dụng vào mục đích khác là
việc làm không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, sự việc này tác động rất lớn đến người bị
thu hồi đất. Mặc dù Nhà nước chỉ thu hồi đất nhưng các thiệt hại không chỉ là thửa
đất mà còn là nhà ở, vật kiến trúc, cây trồng mà quan trọng hơn cả là các mối quan
hệ kinh tế- xã hội có thể bị phá vỡ. Đây là những ảnh hưởng không nhỏ làm thay
đổi cả tập quán sống, thói quen sinh hoạt, làm việc, học tập của người có đất bị thu
hồi và tác động trực tiếp đến các mối quan hệ xã hội, cá nhân, gia đình, cộng đồng.
Nhận thức sâu sắc các hậu quả do việc thu hồi đất gây ra cho người sử dụng đất,
Nhà nước thông qua pháp luật đất đai đã có những quy định về việc giải quyết công
ăn, việc làm cho người bị mất đất sản xuất; giải quyết vấn đề tái định cư cho người
bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở. Thực tế áp dụng các quy định này cho thấy đây
là vấn đề nhạy cảm, khó khăn, phức tạp và thường phát sinh tranh chấp, khiếu kiện
gay gắt, kéo dài.
Xuất phát từ tầm ảnh hưởng của vấn đề tái định cư đối với người bị thu hồi
đất, trong những năm qua chính sách pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
luôn được Nhà nước quan tâm. Tuy nhiên, trên thực tế, chính sách về tái định cư
cũng như quá trình thực hiện pháp luật về tái định cư cho người dân khi Nhà nước
thu hồi đất ở cũng còn nhiều bất cập, vướng mắc. Trong nhiều dự án THĐ, người
dân bị rơi vào cảnh bị chủ đầu tư "đem con bỏ chợ", nghĩa là khi đất ở, nhà ở đã bị
thu hồi nhưng vẫn chưa được TĐC,công tác tái định cư cũng chưa được chuẩn bị
chu đáo, thiếu các điều kiện đảm bảo cho người dân có điều kiện sinh hoạt bình
thường tại nơi ở mới, nhiều dự án người dân được cơ quan có thẩm quyền hoặc chủ
đầu tư bố trí nơi ở tạm thiếu những điều kiện sống tối thiểu như điện, nước sạch,
trường học, bệnh viện… Tình trạng trên có thểbị kéo dài nhiều năm, thậm chí kéo
dài hàng chục năm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích, đời sống của người dân và
1
gây nên những bất bình, bức xúc, thậm chí mất lòng tin của người dân đối với chính
quyền. Nhiều dự án người dân không đồng thuận, chống đối ngay từ giai đoạn đầu
làm cho cơ quan có thẩm quyền và chủ đầu tư không thể GPMB để thực hiện dự án,
tác động xấu đến môi trường đầu tư của nước ta.
Huyện Đức Hòa nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh Long An, trong
những năm gần đây đã có nhiều thay đổi, nhiều dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ
tầng, khu công nghiệp, khu đô thị, thương mai, dịch vụ, đường giao thông đã và
đang được triển khai thực hiện nên việc thu hồi đất để thực hiện các mục tiêu phát
triển kinh tế- xã hội là tất yếu khách quan. Chính bởi lẽ đó, công tác bồi thường
GPMB nói chung, cũng như công tác TĐC nói riêng luôn là điểm nóng và là một
trong những công tác luôn được sự chỉ đạo trọng tâm của các cấp chính quyền. Việc
nghiên cứu các qui định pháp luật về tái định cư khi nhà nước THĐ là vô cùng thiết
thực nhằm góp phần tìm ra giải pháp khắc phục những tồn tại, thiếu sót trên và
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nói riêng và các địa phương khác trong
cả nước nói chung. Với ý nghĩa đó, tôi lựa chọn đề tài “Tái định cƣ khi Nhà nƣớc
thu hồi đất theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long
An” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đến đề tài
Trong thời gian qua, đã có khá nhiều các bài viết, các công trình nghiên cứu
liên quan trực tiếp đến bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất. Tiêu biểu
có các công trình nghiên cứu như: Nông Đức Mạnh (2003), đổi mới chính sách đất
đai bảo đảm hài hòa lợi ích Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất, bài phát
biểu tại phiên bế mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ 7 khóa XI, Báo Tiền Phong; Nguyễn Vĩnh Diện (2006), Pháp luật về
bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, Luận văn thạc sỹ Luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thị Dung (2009), Chính sách đền bù khi Nhà nước
thu hồi đất của một số nước trong khu vực và Việt Nam, Thông tin pháp luật Dân
sự, ngày 11/9/2009; Lê Hoàng Dương (2009), Các vấn đề pháp lý về tái định cư khi
2
Nhà nước thu hồi đất thực hiện các dự án đầu tư, khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại
học Luật Hà Nội. Trần Quang Huy (2010), Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất, Tạp chí Luật học (12), tr.14-20; Trần Quang Huy (2010), Pháp luật về đất đai
Việt Nam hiện hành nhìn từ góc độ bảo đảm quyền của người sử dụng đất, Tạp chí
Luật học (8), tr.37-45; Nguyễn Thị Nga (2010), Pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi
đất, bồi thường giải phóng mặt bằng và những vướng mắc nảy sinh trong quá trình
áp dụng, Tạp chí Luật học (11), tr27-36; Minh Nghĩa (2011), Nhà tái định cư: nơi
thừa, nơi thiếu, Báo điện tử Đô thị, ngày 11/11/2011; Vũ Như (2012), Đẩy nhanh
tiến độ đầu tư xây dựng nhà TĐC, Báo điện tử Tienphong.vn; Nguyễn Linh (2011),
Thúc đẩy thực hiện hiệu quả Nghị định 69/2009/NĐ-CP về đất đai, Báo điện tử
Chính phủ ngày 09/02/2011; Trần Đình Dũng (2012), Mua căn hộ ế làm nhà tái
định cư ở Thành Phố Hồ Chí Minh, Báo điện tử thông tin bất động sản, nhà đất; Hải
Minh (2012), Nhà tái định cư ở Hà Nội xuống cấp trầm trọng trong 5-7 năm tới,
Báo điện tử Việt Báo, ngày 16/2/2012; Sài Gòn giải phóng (2011), Thành Phố Hồ
Chí Minh- Chương trình nhà ở tái định cư: Mua bán suất tái định cư, bao giờ mới
chấm dứt, Báo điện tử Baomoi.com; Sài Gòn giải phóng (2012), Chương trình nhà
ở TĐC Thành Phố Hồ Chí Minh- nhiều tín hiệu vui; Phạm Thu Thủy (2014), Pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam, Luận án tiến
sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu, các bài viết đã phản ánh đa dạng và
sâu sắc ở nhiều khía cạnh khác nhau về bồi thường khi Nhà nước THĐ nói chung
và TĐC khi Nhà nước THĐ nói riêng. Thành quả của những công trình nghiên cứu
đó đã cung cấp những luận cứ khoa học, thực tiễn cho việc xây dựng, triển khai
công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Tiếp thu các
quan điểm, các nhận định về bồi thường, TĐC khi Nhà nước THĐ của các nhà khoa
học đi trước, Luận văn tập trung nghiên cứu sâu hơn về thực trạng pháp luật qua
thực tiễn triển khai thi hành trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An để làm sâu
sắc hơn vấn đề nghiên cứu.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về TĐC khi
Nhà nước THĐ, đối chiếu giữa thực tế của hoạt động TĐC và các quy phạm pháp
luật hiện hành chỉ ra được những vướng mắc, bất cập, hạn chế, yếu kém trong công
tác thực hiện tái định cư. Qua đó, đề xuất những giải pháp tháo gỡ vướng mắc, bất
cập, khắc phục hạn chế, yếu kém nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về TĐC và pháp luật về TĐC khi nhà nước
thu hồi đất.
- Nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật về tái định cư từ thực tiễn thi hành
trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp bảo đảm và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh
Long An.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu pháp luật về TĐC khi Nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thực
hiện pháp luật về TĐC khi Nhà nước THĐ trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long
An.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ có hạn của một bản luận văn thạc sĩ luật học đề tài tập
trung nghiên cứu các hệ thống pháp luật thực định, các nguyên tắc pháp lý cũng như
các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành trong lĩnh vực tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất.
Luận văn tiếp cận và phân tích, bình luận các quy định về tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất được ban hành từ năm 2003 đến nay. Qua việc nghiên cứu
những quy định của pháp luật, tác giả mong muốn làm rõ, cụ thể hóa các vấn đề liên
quan đến tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để rút ra những kết quả đạt được
4
trong công tác thực thi pháp luật về tái định cư và những khó khăn, hạn chế về tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Đồng
thời, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hơn nữa trong công tác tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, các quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và xu thế hội nhập quốc tế của Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp thu thập số liệu; Phương pháp
thống kê; phương pháp tổng hợp; phương pháp phân tích, đánh giá; phương pháp hệ
thống; phương pháp lịch sử cụ thể; phương pháp so sánh… để đảm bảo cho những
lập luận đưa ra có tính chặt chẽ và lôgic.
Số liệu được thu thập từ các phòng, ban, ngành trên địa bàn huyện, các
nguồn tài liệu từ sách báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan
đến quá trình đô thị hóa, sự biến động đất đai và vấn đề đời sống người dân. Trên
cơ sở các số liệu thu thập được, tiến hành thống kê, phân loại theo các nhóm, nhập
dữ liệu và xử lý số liệu để từ đó mô tả, phân tích và dự báo, đánh giá cho các kết
quả nghiên cứu, đáp ứng cho mục tiêu nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Bằng kết quả nghiên cứu, kết hợp những kinh nghiệm rút ra được qua thực tế
công tác, những kiến thức được trang bị trong qua trình học chương trình Cao học
Luật Kinh tế, tác giả tập trung phân tích, nghiên cứu tìm ra những nguyên nhân sâu
xa của những hạn chế, yếu kém trong công tác bồi thường, tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất. Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về TĐC khi Nhà nước thu hồi đất. Do đó, hy vọng đề tài là một tài liệu có giá
trị tham khảo, ứng dụng trên thực tế đối với hoạt động bồi thường, tái định cư khi
thực hiện thu hồi đất, nhất là những nơi có nhiều dự án đầu tư đang được triển khai.
5
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về tái định cư và pháp luật về tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất;
- Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An;
- Chương 3:Yêu cầu, định hướng, giải pháp bảo đảm và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Đức
Hòa, tỉnh Long An.
6
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI ĐỊNH CƢ VÀ PHÁP
LUẬT VỀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Lý luận chung về tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất
1.1.1. Tái định cư: Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa
1.1.1.1. Khái niệm tái định cư
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là điều kiện tồn tại
và phát triển của mỗi con người và các sinh vật trên đất. Đất đai là nguồn của cải, là
nguồn lực, một kho vốn, một tài sản cố định hoặc đầu tư cố định. Đất đai có thể
hiểu như là sự bảo hiểm cho cuộc sống, bảo hiểm về tài chính như là sự chuyển
nhượng của cải qua các thế hệ và nguồn lực cho các mục đích tiêu dùng.
Khái niệm thu hồi đất: Thu hồi đất là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến
trong các văn bản pháp luật đất đai. Nếu như giao đất, cho thuê đất là cơ sở để làm
phát sinh quan hệ pháp luật đất đai, phát sinh quyền sử dụng đất của người được
Nhà nước trao quyền sử dụng; thì thu hồi đất là một biện pháp làm chấm dứt quan
hệ pháp luật đất đai bằng một quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Thông qua những hoạt động này, Nhà nước thể hiện rất rõ quyền định đoạt
đất đai, với tư cách là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai. Theo Từ điển tiếng Việt
thông dụng: “Thu hồi: Lấy lại cái đã đưa ra, đã cấp phát ra hoặc bị người khác lấy”
[18, tr 759]. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, thu hồi đất được hiểu là:
“Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất của người vi phạm
quy định về sử dụng đất để Nhà nước giao cho người khác sử dụng hoặc trả lại cho
chủ sử dụng đất hợp pháp bị lấn chiếm. Trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi
đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an
ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng” [32, tr186]. Định nghĩa này cho thấy, các
nhà khoa học mới chỉ đề cập các trường hợp thu hồi đất mà chưa làm rõ nội hàm
của khái niệm THĐ là gì. Mặt khác, sự liệt kê nêu trên cũng chưa bao quát hết các
trường hợp THĐ của Nhà nước. Nhà nước không chỉ THĐ của người có hành vi vi
phạm về sử dụng đất hay THĐ để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi
7
ích quốc gia, lợi ích công cộng, mà còn thu hồi đất do các lợi ích kinh tế xã hội khác
hoặc những trường hợp chấm dứt theo quy định của pháp luật. Khi Luật Đất đai
năm 2003 ra đời, khái niệm THĐ đã được giải thích tại Khoản 5 Điều 4: “Thu hồi
đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu
lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thịtrấn quản lý theo quy
định của Luật này”.
Dù đã có sự điều chỉnh và mở rộng nội hàm của vấn đề thu hồi đất, song
cách giải thích này là chưa thật sự chính xác, bởi nó dẫn đến cách hiểu, người sử
dụng đất bị thu hồi chỉ là tổ chức hay Ủy ban nhân dân xã, phường thị trấn, trong
khi theo quy định pháp luật, người sử dụng đất bị thu hồi còn có thể là hộ gia đình,
cá nhân sử dụng đất, không những thế đây còn là chủ thể phổ biến bị thu hồi đất.
Trong quá trình xây dựng Luật Đất đai năm 2013, đã có khá nhiều các quan điểm, ý
kiến bàn luận về khái niệm pháp lí này. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các ý kiến,
các quan điểm của các nhà khoa học, Luật Đất đai năm 2013 đã được Quốc hội
thông qua ngày 29/11/2013, có hiệu lực ngày 01/07/2014, tại Khoản 11 Điều 4 Luật
đất đai năm 2013 đã quy định: “Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định
thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc
thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai”.
Khái niệm tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất:
Trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay ở Việt Nam,
TĐC cho người dân bị mất đất ở là một vấn đề rất bức thiết, được dư luận quan tâm.
Bởi vậy, thuật ngữ “TĐC” được nhắc đến nhiều trên các phương tiện thông tin đại
chúng cũng như trong cuộc sống của người dân. Nó cũng là một thuật ngữ pháp lý
được đề cập nhiều trong các văn bản pháp luật, đặc biệt là văn bản pháp luật về đất
đai. Từ điển Luật học- cuốn sách giải thích trên khía cạnh pháp lý về các thuật ngữ
pháp lý thông dụng không đưa ra định nghĩa về tái định cư. Còn trong Đại từ điển
Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên cũng không giải thích thuật ngữ về “TĐC”.
Tuy nhiên tác giả lại chỉ rõ: “tái: hai lần hoặc lần thứ hai; lại một lần nữa” [18,
tr.1485]; “định cư: ở lại một nơi nhất định để sinh sống và làm ăn, phân biệt với du
8
cư” [18, tr.641]. Như vậy, có thể hiểu TĐC là việc một lần nữa chuyển đến một nơi
nhất định để sinh sống và làm ăn ổn định. Tái định cư là một thuật ngữ được sử
dụng khá phổ biến trong các văn bản quy phạm pháp luật. Xong các quy định mới
chỉ dừng lại ở việc nêu ra các hình thức TĐC mà chưa chỉ rõ nội hàm của tái định
cư. Cụ thể, trước đây, Điều 4 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của
Chính phủ về việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất quy
định: “Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Nghị định này
mà phải di chuyển chỗ ở thì được bố trí TĐC bằng một trong các hình thức sau: 1.
Bồi thường bằng nhà ở; 2. Bồi thường bằng đất ở; 3. Bồi thường bằng tiền để tự lo
chỗ ở mới”. Đến Luật đất đai năm 2013, tại điểm c Khoản 2 Điều 83 quy định tái
định cư là một trong các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, theo đó “Hỗ trợ tái
định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam
định cư ởnước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở”. Khi nghiên cứu về vấn đề này, có
một số tác giả đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về TĐC. Theo tác giả Nguyễn
Quang Tuyến, “TĐC là việc người sử dụng đất được bố trí nơi ở mới bằng một
trong các hình thức: bồi thường bằng nhà ở mới hoặc bồi thường bằng giao đất ở
hoặc bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới khi họ bị Nhà nước thu hồi đất ở và
phải di chuyển chỗ ở” [38, tr42-46]. Theo tác giả Trịnh Thị Hằng Nga “TĐC là biện
pháp nhằm ổn định, khôi phục đời sống cho các hộ bị ảnh hưởng bởi dự án, khi mà
đất định cư cũ bị thu hồi hết hoặc thu hồi không hết, mảnh còn lại không đủ điều
kiện để ở lại nơi ở cũ, phải di chuyển đến nơi ở mới” [16, tr.66]. Theo quan điểm
của Ngân hàng thế giới được ghi nhận trong Khung chính sách TĐC thuộc khuôn
khổ Dự án Quản lý thuỷ lợi phục vụ phát triển nông thôn vùng Đồng bằng sông Mê
Kông (MDWRM-RDP), “TĐC là thuật ngữ chung liên quan tới việc thu hồi và bồi
thường cho tổn thất về tài sản khi có di dời, tổn thất đất, nhà ở, tài sản hoặc phương
tiện sinh kế khác” [17, tr.5]. Tuy nhiên, định nghĩa trên đã đưa ra cách hiểu khá
rộng về TĐC, bao gồm cả công tác bồi thường do tổn thất nhà ở, tài sản hoặc
phương tiện sinh kế khác. Theo quan điểm của pháp luật Việt Nam, những công tác
nêu trên thuộc về phạm vi bồi thường về đất và tài sản gắn liền trên đất. Như vậy,
9
quan điểm của Ngân hàng thế giới và của pháp luật Việt Nam về nội hàm khái niệm
“TĐC” có điểm không tương đồng với nhau.
Tóm lại, xem xét khái niệm TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, có thể thấy rõ
TĐC là hậu quả pháp lý của việc thu hồi đất của Nhà nước. Nói cách khác, vấn đề
TĐC chỉ đặt ra khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất
của người sử dụng đất. TĐC chính là một trong các công việc của hậu thu hồi đất.
Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp cứ có hành vi thu hồi đất là phát sinh
vấn đề TĐC. Để công tác TĐC được tiến hành phải đáp ứng được một số điều kiện
nhất định theo quy định của pháp luật, trong đó điều kiện về thu hồi đất là tiên
quyết, quan trọng nhất.
Từ những cơ sở trên, có thể đưa ra khái niệm về TĐC như sau: TĐC là một
trong các trách nhiệm của Nhà nước bố trí nơi ở mới cho người bị Nhà nước thu hồi
đất và phải di chuyển chỗ ở bằng một trong các hình thức: bồi thường bằng nhà ở
mới hoặc bồi thường bằng giao đất ở hoặc bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới.
TĐC là hậu quả pháp lý của hành vi thu hồi đất của Nhà nước.
1.1.1.2. Đặc điểm của tái định cư
TĐC là một phương thức bồi thường thiệt hại về tài sản khi Nhà nước THĐ.
Như chúng ta đã biết quyền sử dụng đất nói chung và quyền sử dụng đất ở nói riêng
là tài sản của cá nhân, hộ gia đình được Nhà nước bảo hộ. Cá nhân công dân, hộ gia
đình có quyền làm ăn, sinh sống trên đất ở hợp pháp của mình. Theo qui định của
pháp luật dân sự khi một chủ thể nào đó gây thiệt hại về tài sản cho chủ thể khác thì
phải bồi thường. Bất luận đó là chủ thể nào. Khi Nhà nước thu hồi đất ở làm cho
người dân không thể tiếp tục làm ăn, sinh sống tại nơi ở cũ trên mảnh đất mà họ có
quyền sử dụng đất hợp pháp, phải di dời đến nơi ở mới gây cho họ nhiều thiệt hại:
Không còn mặt bằng để làm nơi ở. Cùng với mất nơi ở, nhiều trường hợp nhiều tài
sản bị hủy hoại như nhà cửa, vật kiến trúc, cây lâu năm… Do quyền sử dụng đất ở
là tài sản (và là tài sản có giá trịrất lớn) nên khi Nhà nước thu hồi đất ở phải thực
hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho người có đất ở bị thu hồi, phải có trách
nhiệm tạo lập nơi ở mới cho người có đất ở bị thu hồi. Trong trường hợp này việc
10
tạo lập nơi ở mới cho người có đất ở bị thu hồi (tái định cư) thực chất là một hình
thức bồi thường thiệt hại về tài sản. Trong mối quan hệ này, bên bị thiệt hại là hộ
gia đình, cá nhân có đất ở bị Nhà nước thu hồi, bên có nghĩa vụ phải bồi thường
thiệt hại là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thu hồi đất (hoặc chủ
đầu tư trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất để giao cho chủ đầu tư thực hiện các
dự án). Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc lập và
thực hiện các dự án mới về nhà ở, đất ở, với điều kiện bằng hoặc tốt hơn nơi cũ cho
người bị THĐ ở phải di chuyển chỗ ở, đồng thời giúp người bị THĐ nhanh chóng
ổn định đời sống và sản xuất.
TĐC không hoàn toàn giống như các hình thức bồi thường thiệt hại về tài sản
khác. Như phân tích ở trên là một phương thức bồi thường thiệt hại về tài sản. Tuy
nhiên, QSDĐ được coi là một tài sản “đặc biệt”, không giống như những tài sản
khác. Theo qui định của pháp luật hiện hành, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nên
người sử dụng đất chỉ có QSDĐ mà không có quyền sở hữu đối với đất đai. Do vậy,
tái định cư không hoàn toàn giống như các hình thức bồi thường thiệt hại về tài sản
khác. Từ góc độ lý luận, trách nhiệm bồi thường của một chủ thể chỉ phát sinh khi
chủ thể có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại. Việc Nhà nước tiến hành THĐ đã gây
ra những thiệt hại đáng kể cho người dân. Bên cạnh những thiệt hại về vật chất mà
chúng ta có thể nhận thấy được như nhà cửa, cây trồng, vật kiến trúc, công trình xây
dựng…còn có những thiệt hại “vô hình” khác mà người có đất bị thu hồi phải gánh
chịu như vấn đề tâm linh tổ tiên, cuộc sống bị xáo trộn, tập quán sống của người
dân bị thay đổi, xa trường học, chỗ làm việc, mất đi mặt bằng cho hoạt động sản
xuất, kinh doanh tạo thu nhập, nguồn sống chính của nhiều hộ gia đình, cá
nhân….Tuy nhiên, việc Nhà nước thực hiện THĐ để sử dụng vào mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, phát triển kinh tế theo qui định của pháp luật
không phải là hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy, những thiệt hại phát sinh khi Nhà
nước thu hồi đất ở không phải là hệ quả của hành vi vi phạm pháp luật. Nếu như bồi
thường thiệt hại về tài sản trong những trường hợp khác là hệ quả pháp lý của hành
vi vi phạm pháp luật của một chủ thể khi có hành vi xâm hại gây thiệt hại đối với tài
11
sản của chủ sở hữu tài sản hoặc chủ thể có quyền quản lý đối với tài sản; thì hành vi
thu hồi đất của cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất theo qui định của pháp luật là
hành vi có gây thiệt hại về tài sản đối với người có đất bị thu hồi nhưng không phải
là hành vi trái pháp luật mà là hành vi hợp pháp. Bởi hành vi thu hồi đất là hành vi
thuộc quyền năng của Nhà nước đại diện chủ sở hữu đối với đất đai; thu hồi đất là
một trong những nội dung của quản lý nhà nước về đất đai được thực hiện bởi các
cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền, là hành vi được thực hiện trên cơ sở và
phù hợp với quy định của pháp luật.
Quan hệ pháp luật phát sinh trong quá trình thực hiện tái định cư giữa cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất và người dân có đất bị thu hồi không phải
là quan hệ pháp luật dân sự đơn thuần và cũng không phải là quan hệ pháp luật hành
chính đơn thuần mà là quan hệ pháp luật vừa có tính chất hành chính, vừa có tính
chất dân sự. Những thiệt hại phát sinh từ hành vi thu hồi đất ở của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền theo qui định của pháp luật không phải là thiệt hại phát sinh từ
hành vi trái pháp luật nên trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với những thiệt
hại do hành vi thu hồi đất gây ra khác với trách nhiệm của các chủ thể có hành vi vi
phạm pháp luật gây thiệt hại và phải bồi thường. Như vậy, trong trường hợp này
việc đền bù thiệt hại không hoàn toàn là đền bù ngang giá mà Nhà nước có thể giới
hạn mức bồi thường, hình thức bồi thường thiệt hại. Mặt khác, việc giải quyết tái
định cư - bồi thường những tổn thất phát sinh khi Nhà nước thu hồi đất ở phụ thuộc
vào chính sách của Nhà nước, đảm bảo lợi ích của các cá nhân, hộ gia đình có đất ở
bị thu hồi, đồng thời phải đảm bảo lợi ích chung của toàn xã hội.
Như vậy, việc giải quyết tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở không phải
hoàn toàn thực hiện trên cơ sở sự thỏa thuận mà còn được thực hiện trên cơ sở
quyền lực Nhà nước. Điều đó dẫn đến trình tự thủ tục giải quyết tái định cư với tư
cách là hình thức bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất ở khác với trình tự,
thủ tục giải quyết bồi thường thiệt hại trong các quan hệ pháp luật dân sự khác.
Thực tế cho thấy, thủ tục thực hiện tái định cư hiện nay chủ yếu là thủ tục có tính
chất hành chính.
12
TĐC có mối quan hệ chặt chẽ với các hình thức bồi thường khác khi Nhà
nước THĐ ở. Bồi thường khi Nhà nước THĐ đóng vai trò trung tâm và có tính chất
quyết định đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị THĐ, Nhà nước có nghĩa vụ
bồi thường ngang giá và sát với giá thị trường cho người sử dụng đất về những thiệt
hại hữu hình và thiệt hại vô hình phát sinh trực tiếp từ hoạt động THĐ. TĐC là việc
Nhà nước bồi thường về đất ở, nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt, đời sống của
người dân và các chi phí di chuyển, ổn định cuộc sống cho người bị THĐ khi phải
di chuyển đến nơi ở mới. Do đó, TĐC là hình thức bồi thường có vai trò quan trọng
nhất khi Nhà nước thu hồi đất ở, cùng với các hình thức bồi thường thiệt hại khác
giúp cho người dân nhanh chóng ổn định cuộc sống, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của người dân khi bị thu hồi đất ở, đồng thời giúp Nhà nước thực hiện có hiệu
quả quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cũng như kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội
của địa phương, của đất nước nói chung.
1.1.1.3. Ý nghĩa của việc tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
- Đối với người dân thuộc đối tượng TĐC: Đối với mỗi người, không chỉ là
người dân Việt Nam mà tất cả con người trên thế giới, nhà ở đóng vai trò vô cùng
quan trọng. Để có được nhà ở, nhiều người đã phải phấn đấu lao động trong suốt cả
cuộc đời. Bởi vậy, việc Nhà nước thu hồi đất ở của người dân, làm cho họ không có
chỗ ở nào khác đồng nghĩa với việc gây ra cho họ những thiệt thòi nhất định. Và dù
ở địa bàn nào thành thị hay nông thôn thì việc phải di chuyển chỗ ở để đưa đến cho
người dân bị thu hồi đất những hệ lụy nhất định trong cuộc sống và công việc. Do
những ảnh hưởng như trên mà Nhà nước trong thời gian qua đã rất chú trọng đến
việc ban hành chính sách TĐC phù hợp để tạo điều kiện tốt nhất cho người dân bị
thu hồi phải di chuyển chỗ ở. Về cơ bản, chính sách TĐC hiện nay ở nước ta đã
quan tâm đến quyền lợi của người được TĐC. Cụ thể là đã xem xét đến phong tục,
tập quán sinh hoạt và nghề nghiệp của những người được TĐC để bố trí TĐC thích
hợp thực hiện theo nguyên tắc nơi ở TĐC phải bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ…Với
đường lối, chính sách như trên, Đảng đã vạch ra đường lối, phương hướng cơ bản
để Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho công tác TĐC được
13
tiến hành trên thực tế. Qua đó, quyền lợi của người được bố trí TĐC được pháp luật
thừa nhận và bảo vệ.
- Đối với nhà đầu tư: Trong quan hệ thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu
tư, nhà đầu tư tuy không phải là chủ thể trực tiếp thực hiện hành vi thu hồi đất, cũng
không phải là người có đất bị thu hồi, nhưng họ chính là chủ thể có quyền và lợi ích
liên quan. Trong môi trường kinh doanh, nơi mà thời gian đóng vai trò rất quan
trọng thì việc giải quyết vấn đề bồi thường, hỗ trợ, TĐC giữa Nhà nước và người bị
thu hồi đất có tác động không nhỏ đối với họ. Nếu như công tác bồi thường, hỗ trợ,
TĐC được tiến hành thuận lợi, nhà đầu tư sẽ sớm có mặt bằng để tiến hành dự án
đầu tư. Khi đó, công việc kinh doanh của họ bước đầu được thực hiện thuận lợi, góp
phần giúp họ ổn định sản xuất. Ngược lại, nếu những khâu này không được giải
quyết nhanh chóng, nhiều trường hợp còn có khiếu kiện kéo dài…dẫn đến việc nhà
đầu tư không được bàn giao mặt bằng đúng thời hạn, hoặc bị cản trở trong quá trình
thực hiện dự án làm hoạt động kinh doanh của họ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Bởi
vậy, chính sách về bồi thường thiệt hại nói chung và TĐC nói riêng có ý nghĩa
không nhỏ đối với các nhà đầu tư. Một chính sách bồi thường, hỗ trợ, TĐC tốt sẽ
đẩy nhanh tiến độ giải quyết các công việc này. Qua đó, góp phần thúc đẩy hoạt
động kinh doanh của họ được tiến hành theo đúng kế hoạch đề ra.
- Đối với Nhà nước: Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu thống nhất quản lý. Thẩm quyền tiến hành thu hồi đất
thuộc về Nhà nước. Thẩm quyền này một mặt là quyền hạn của Nhà nước trong
việc quản lý quỹ đất để tiến hành các hoạt động của mình, mặt khác cũng là trách
nhiệm nặng nề của Nhà nước khi mà việc thực hiện công tác thu hồi đất trên thực tế
rất khó khăn. Đối với những trường hợp thu hồi đất mà phải thực hiện TĐC thì công
việc càng khó khăn hơn vì chỉ khi việc bố trí TĐC được thu xếp ổn định thì mới có
thể thu hồi đất. Bởi vậy, chính sách TĐC hợp lý sẽ giúp cho công tác thu hồi đất
được thực hiện nhanh chóng hơn, nhờ đó giúp Nhà nước giảm được áp lực trong
công tác bồi thường, hỗ trợ, TĐC. Mặt khác, một chính sách TĐC tốt cũng giúp cho
Nhà nước nhận được sự đồng thuận của người dân trong công tác bồi thường, TĐC.
14
- Xem thêm -