Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở việt nam hiện...

Tài liệu Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở việt nam hiện nay. ths. luật

.PDF
102
370
93

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THẾ CƯỜNG THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Nguyên Khánh HÀ NỘI - 2012 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THOẢ THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH XĂNG DẦU ...............................9 1.1. Bản chất pháp lý của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ............ 9 1.1.1. Nguồn gốc của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ........................... 9 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh............13 1.2. Nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ................................................. 20 1.2.1. Điều kiện gia nhập thị trường kinh doanh xăng dầu ......................... 20 12.2. Thị trường liên quan trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ................ 23 1.2.3. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong kinh doanh xăng dầu - Nhận dạng và các hình thức thể hiện .................................................................................... 28 1.2.4. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực xăng dầu ..................................................................................... 32 1.3. Nguyên tắc và nội dung cơ bản của pháp luật về các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực xăng dầu ................................................................ 36 1.3.1. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật......................................................... 36 1.3.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực xăng dầu ............................................................................................... 37 1.4. Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật quốc tế đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực xăng dầu........................................................ 39 1.4.1. Pháp luật Mỹ......................................................................................... 39 1.4.2. Pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức.................................................... 41 1.4.3. Pháp luật Cộng hòa Pháp..................................................................... 42 1.4.4. Pháp luật Nhật Bản .............................................................................. 43 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ........................................................................................... 45 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH XĂNG DẦU VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY................................. 47 2.1. Thực trạng pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ......................................................................................... 47 2.1.1. Các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm ........................... 47 2.1.2. Hậu quả pháp lý đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm...................51 2.1.3. Tố tụng cạnh tranh ............................................................................... 55 2.1.4. Quy định về phân phối xăng dầu ........................................................ 61 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt nam hiện nay.................................................... 62 2.2.1. Trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước ..................................... 62 2.2.2. Tính độc lập và chuyên nghiệp của cơ quan quản lý cạnh tranh ..... 63 2.2.3. Cơ chế điều hành giá xăng dầu ảnh hưởng tiêu cực đến cạnh tranh trong kinh doanh xăng dầu .......................................................................................... 65 2.2.4. Tính minh bạch và nhất quán của chính sách .................................... 69 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ........................................................................................... 70 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THOẢ THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH XĂNG DẦU Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ............................................. 72 3.1. Phương hướng hoàn thiện......................................................................... 72 3.1.1. Hiệu lực thấp của văn bản về kinh doanh xăng dầu ......................... 72 3.1.2. Thiếu công khai, minh bạch trong hoạt động kinh doanh ................ 75 3.1.3. Tổ chức hệ thống kinh doanh xăng dầu ............................................. 76 3.1.4. Cơ chế điều hành, quản lý nhà nước .................................................. 78 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở nước ta hiện nay ........................ 81 3.2.1. Hoàn thiện văn bản pháp luật về kinh doanh xăng dầu .................... 81 3.2.2. Xây dựng cơ chế kiểm soát giá xăng dầu .......................................... 84 3.2.3. Tăng cường kiểm tra, giám sát............................................................ 87 3.2.4. Biện pháp ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng ..... 87 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ........................................................................................... 88 KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 93 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của Đề tài Từ khi Đảng và Nhà nước ta khởi xướng, lãnh đạo thực hiện việc chuyển đổi và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, khi chuyển đổi nền kinh tế sang vận hành theo cơ chế thị trường, Việt Nam phải thừa nhận những quy luật, thuộc tính vốn có và nguyên tắc hoạt động của nó. Trong đó, cạnh tranh là một quy luật, là thuộc tính của kinh tế thị trường. Xét ở mặt tích cực, cạnh tranh là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Song ở phương diện khác, chính bản thân tự do cạnh tranh cũng là yếu tố đưa đến những hậu quả tiêu cực về kinh tế, đặc biệt là khi cơ chế pháp luật để điều tiết sự tự do đó còn chưa được chặt chẽ thì tất yếu sẽ dẫn tới các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh xuất hiện. Các hành vi này nảy sinh do các chủ thể cạnh tranh nhận thấy có thể đem lại lợi nhuận lớn trong kinh doanh, thậm chí là siêu lợi nhuận do có thể khống chế, loại bỏ đối thủ, vi phạm quyền lợi của khách hàng... Do vậy, các hành vi đó vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển. Cũng giống với các hiện tượng hạn chế cạnh tranh khác, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là hiện tượng tất yếu trong đời sống kinh tế thị trường ở nước ta. Trên phương diện kinh tế, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là bước đầu tiên của giới doanh nhân trong quá trình tích lũy và tập trung tư bản - yêu cầu tập trung hóa và thống nhất hành động trên thương trường. Từ yêu cầu phát triển thị trường, quy trình này mang tính tất yếu và cần được khuyến khích trong những điều kiện nhất định. Những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nhằm thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ, áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm, thống nhất các điều kiện kinh 1 doanh, giao hàng, thanh toán… về nguyên tắc cần phải được khuyến khích và ủng hộ vì nó đem lại lợi ích chung cho toàn xã hội. Tuy nhiên, nếu không được giám sát, cảnh báo kịp thời từ phía Nhà nước, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sẽ có xu hướng bóp méo hoặc thủ tiêu cạnh tranh và qua đó đã làm phương hại đến lợi ích chung của toàn xã hội. Xăng, dầu là mặt hàng có tầm ảnh hưởng quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế quốc dân. Giá cả của nó ảnh hưởng đến nhiều mặt kinh tế xã hội. Việc kinh doanh xăng dầu hiện nay ở Việt Nam được quy định tại Nghị định số 84/2009/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu. Nghị định số 84/2009/NĐ-CP chính là căn cứ pháp lý để quản lý kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam, Nghị định thể hiện một bước tiến mới khi khẳng định rõ kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam chuyển hoàn toàn sang cơ chế thị trường nhưng vẫn có sự quản lý của nhà nước, đồng thời công khai công thức tính toán giá cơ sở để hình thành giá bán lẻ xăng dầu trong nước. Nghị định số 84/2009/NĐ-CP quy định thương nhân đầu mối được quyền quyết định giá bán lẻ xăng dầu tại các cửa hàng xăng dầu thuộc hệ thống phân phối của thương nhân, theo những nguyên tắc và trình tự được xác định tại Nghị định; thương nhân cũng có trách nhiệm tham gia bình ổn giá theo quy định của pháp luật và được bù đắp những chi phí hợp lý khi tham gia bình ổn giá. Về thực hiện cơ chế thị trường, Nghị định số 84/2009/NĐ-CP cho phép doanh nghiệp các thành phần được tham gia kinh doanh xuất nhập xăng dầu (thay vì chỉ có doanh nghiệp nhà nước như trước đây), kinh doanh nhiêu liệu bay nhằm tạo tiền đề cho môi trường kinh doanh xăng dầu ngày càng mang tính cạnh tranh hơn; mở rộng quyền kinh doanh cho doanh nghiệp trong các hoạt động xuất nhập khẩu xăng dầu (xuất khẩu sản phẩm, nguyên liệu xăng dầu nhập khẩu và sản xuất trong nước; tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, gia công xuất khẩu xăng dầu); cho phép áp dụng các công cụ phòng vệ giá phù 2 hợp với thông lệ quốc tế để mua bán xăng dầu với các đối tác nước ngoài; quy định về sử dụng biển hiệu, lô gô trong hệ thống phân phối phù hợp với pháp luật về Sở hữu trí tuệ... và đặc biệt là làm rõ nguyên tắc, căn cứ, điều kiện, quy trình, biên độ điều chỉnh làm cơ sở như đã nêu ở trên để doanh nghiệp tự quyết định giá bán xăng dầu trong nước. Về quản lý Nhà nước, Nghị định số 84/2009/NĐ-CP đã làm rõ ở các nội dung và phân cấp quản lý về quy hoạch phát triển hệ thống kinh doanh xăng dầu, trong đó có quy hoạch cửa hàng xăng dầu gắn với công tác đấu tranh chống buôn lậu xăng dầu qua biên giới; quy định về nhập khẩu và sản xuất xăng dầu phục vụ cho nhu cầu sử dụng của nền kinh tế; về tổ chức hệ thống phân phối; về dự trữ lưu thông... và đặc biệt là công khai minh bạch công thức tính giá, phương thức điều hành, quản lý quá trình thực hiện điều chỉnh giá bán xăng dầu của doanh nghiệp, góp phần thực hiện chức năng giám sát của xã hội. Tuy nhiên, sau 3 năm thực hiện Nghị định số 84/2009/NĐ-CP, việc điều hành giá bán các mặt hàng xăng vẫn do Nhà nước quy định trên cơ sở đề nghị của các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng này; hệ lụy của quy định đăng ký, giá bán trong nước thường không bắt kịp giá thị trường; gây bất ổn thị trường do đầu cơ trước thông tin tăng giá. Theo “Báo cáo kết quả cạnh tranh trong 10 lĩnh vực của nền kinh tế” do Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương công bố, xăng dầu là một trong những lĩnh vực có hiện tượng thỏa thuận ngầm nhằm hạn chế cạnh tranh, đầu cơ, nâng giá, lũng đoạn thị trường. Việc kinh doanh xăng dầu chưa hoạt động theo cơ chế thị trường, có hiện tượng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh để ấn định giá bán làm dư luận bức xúc, ảnh hưởng đến nền kinh tế và tình hình sản xuất, kinh doanh. Việc áp dụng Luật Cạnh tranh và kiểm soát các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở nước ta chưa hiệu quả. 3 Xuất phát từ những vấn đề mang tính chất cấp thiết nêu trên, Học viên đã lựa chọn đề tài "Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam hiện nay" để làm luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến Đề tài Ở Việt Nam, trong lĩnh vực pháp luật cạnh tranh đã có một số công trình bước đầu nghiên cứu về cạnh tranh, về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, về độc quyền và kiểm soát độc quyền như: “Chuyên đề về cạnh tranh, chống cạnh tranh bất hợp pháp và kiểm soát độc quyền” của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp năm 1996; “Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam” của PGS.TS. Nguyễn Như Phát - ThS. Bùi Nguyên Khánh, Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2001; “Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay” sách tham khảo của PGS.TS. Nguyễn Như Phát và PGS.TS.Trần Đình Hảo năm 2001; “Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh” của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) năm 2002; “Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam” sách tham khảo của TS. Đặng Vũ Huân năm 2004; “Tìm hiểu về Luật Cạnh tranh” của Trần Minh Sơn năm 2005; “Bình luận khoa học Luật Cạnh tranh” của TS. Lê Hoàng Oanh năm 2005; “Phân tích và luận giải các quy định của Luật Cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh” của PGS.TS. Nguyễn Như Phát và ThS. Nguyễn Ngọc Sơn,… Các công trình này cũng chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các quy định của pháp luật cạnh tranh nói chung, về cạnh tranh không lành mạnh và chống hạn chế cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam nói riêng. Sau khi Luật Cạnh tranh ra đời, một số công trình nghiên cứu đã đề cập đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, theo đó những ví dụ, kinh nghiệm điều tra xử lý các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của một số nước trên thế giới cũng được đề cập. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như “Hành vi hạn chế cạnh tranh - 4 Một số vụ việc điển hình của Châu Âu” - tài liệu tham khảo thuộc khuôn khổ Dự án hỗ trợ thương mại đa biên (MULTRAP) và Bộ Công Thương Việt Nam phối hợp thực hiện. Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương đã chủ trì xây dựng Báo cáo đánh giá cạnh tranh trong 10 lĩnh vực, trong đó có kinh doanh xăng dầu. Một số chuyên gia, báo chí cũng có bài viết nghiên cứu đề cập đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh xăng dầu ở một số góc độ nhất định nhưng chưa có công trình nào đề cập một cách toàn diện và chi tiết về vấn đề này. Cho đến nay, đây là đề tài thạc sĩ đầu tiên nghiên cứu về vấn đề thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn * Mục đích của Luận văn này là làm sáng tỏ những vấn đề chung về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu và thực tiễn áp dụng pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam trong thời gian tới. * Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu. Để thực hiện được nhiệm vụ này, luận văn đã nghiên cứu bản chất pháp lý của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, trong đó tìm hiểu nguồn gốc của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, khái niệm và các đặc điểm pháp lý của các thỏa 5 thuận hạn chế cạnh tranh; tìm hiểu nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu; nguyên tắc và nội dung cơ bản của pháp luật về các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực xăng dầu; nghiên cứu kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật quốc tế đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực xăng dầu. - Nghiên cứu thực trạng pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu và thực tiễn áp dụng pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam hiện nay. Để thực hiện nhiệm vụ này, Luận văn đã phân tích thực trạng của pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nói chung để từ đó rút ra những ra những bất cập trong việc thực hiện quy định pháp luật liên quan trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu. - Đưa ra một số phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở nước ta hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn Hoạt động kinh doanh xăng dầu bao gồm các hoạt động: xuất khẩu (xăng dầu, nguyên liệu sản xuất trong nước và xăng dầu, nguyên liệu có nguồn gốc nhập khẩu), nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, gia công xuất khẩu xăng dầu, nguyên liệu; sản xuất và pha chế xăng dầu; phân phối xăng dầu tại thị trường trong nước; dịch vụ cho thuê kho, cảng, tiếp nhận, bảo quản và vận chuyển xăng dầu. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở nước ta chủ yếu xảy ra ở lĩnh vực phân phối xăng dầu tại thị trường trong nước. Đây cũng chính là lý do Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động kinh doanh xăng dầu trong giai đoạn phân phối. 5. Phương pháp nghiên cứu của Luận văn Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng những quan điểm của chủ 6 nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật, đường lối, quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập. Bên cạnh đó, Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu như thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích,… nhằm phục vụ cho nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu của đề tài. 6. Những đóng góp mới về khoa học của Luận văn Kết quả của việc nghiên cứu đề tài: "Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam hiện nay" có thể đem lại những điểm mới sau đây: Thứ nhất: Luận văn tập trung phân tích và xác định nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu. Thứ hai: Luận văn nhận dạng và đánh giá các hình thức thể hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở nước ta hiện nay. Thứ ba: Luận văn nghiên cứu và chỉ ra thị trường liên quan trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu để làm cơ sở xác định hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu. Thứ tư: Luận văn đánh giá thực trạng pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh để từ đó rút ra những bất cập trong thực hiện pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu. Thứ năm: Luận văn mạnh dạn đề xuất một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở nước ta hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn Kết quả đạt được của Luận văn góp phần làm sáng tỏ phương diện lý luận trong khoa học pháp lý của các thoả thuận hạn chế cạnh tranh áp dụng trong 7 lĩnh vực kinh doanh xăng dầu. Những nhận định về thực trạng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh xăng dầu và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật có thể để các cơ quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu. Bên cạnh đó, Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích không chỉ với cán bộ giảng dạy, sinh viên mà còn đối với các cán bộ đang làm công tác hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam. 8. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu bởi 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về thoả thuận hạn chế cạnh tranh và pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu. Chương 2: Thực trạng pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu và thực tiễn áp dụng pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt nam hiện nay. Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở nước ta hiện nay. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THOẢ THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH XĂNG DẦU 1.1. Bản chất pháp lý của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 1.1.1. Nguồn gốc của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (cartel) là một trong những hình thức biểu hiện của hạn chế cạnh tranh, có thể gây nguy hại đến động lực phát triển kinh tế của xã hội và vi phạm tới lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. Do đó, pháp luật của các quốc gia có nền kinh tế thị trường đều trừng phạt nghiêm khắc các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Những tiền đề để xuất hiện cạnh tranh cũng là những tiền đề để những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tồn tại. Trước đây, trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, sự can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động kinh tế là một trong những lý do không cho cạnh tranh tồn tại, điều đó cũng đồng nghĩa với việc không cần có thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Nền kinh tế thị trường là môi trường của cạnh tranh, với sự ghi nhận quyền tự do kinh doanh, nguyên tắc tự do thương mại là điểm tựa, là môi trường của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Không thể phủ nhận rằng cạnh tranh với các hiệu ứng tích cực của nó đối với nền kinh tế, khiến các quốc gia đã và đang phát triển luôn luôn khuyến khích cạnh tranh. Trong quan hệ cạnh tranh thì việc thành công hay thất bại luôn luôn là kết quả mà các đối thủ tham gia đều nhận thấy, mặc dù trước khi tham gia họ không chắc chắn. Chính từ yếu tố không muốn phải chịu rủi ro về phía mình, các đối thủ trong quan hệ cạnh tranh có thể có sự thoả thuận, hay nói cách khác đây chính là nguồn gốc của sự tự do khế ước và sự thoả thuận về điều kiện kinh doanh của các đối thủ cạnh tranh, để mục tiêu đều là những người thắng cuộc. Để đạt 9 được điều này đòi hỏi họ phải có sự hợp tác, phải có sự thoả thuận. Mọi vấn đề trong xã hội, từ lớn đến nhỏ đều dựa trên nền tảng khế ước, Nhà nước chỉ can thiệp vào sự thoả thuận, sự tự do khế ước chừng nào sự tự do đó xâm phạm các lợi ích công cộng hoặc xâm phạm tới các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Xét cho cùng, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được thực hiện giữa các doanh nghiệp nên nó phải được hình thành trên nền tảng của nguyên tắc tự do khế ước. Các doanh nghiệp có quyền tự do thể hiện ý chí của mình trong việc lựa chọn đối tác để thiết lập quan hệ, liên kết, hợp tác và đồng thời các doanh nghiệp cũng có quyền tự do lựa chọn nội dung thỏa thuận. Tuy nhiên sự “tự do” của các doanh nghiệp chỉ được coi là hợp pháp khi sự thể hiện ý chí đó phù hợp với ý chí của Nhà nước, phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng. Mặc dù khái niệm “cạnh tranh” và “khế ước” (thoả thuận) có những nội dung khác biệt song chúng có liên quan mật thiết khi được sử dụng để đánh giá về cạnh trạnh. Trước sức ép của cạnh tranh, các doanh nghiệp buộc phải tiến lên bằng sự nỗ lực cố gắng của bản thân, thậm chí có trường hợp còn vận dụng cả các biện pháp cạnh tranh bất hợp pháp để loại bỏ đối thủ hoặc chí ít cũng là để chiếm ưu thế trước đối thủ trên một phương diện nào đó. Khi loại bỏ được cạnh tranh thông qua thỏa thuận, các doanh nghiệp tham gia có thể thu được lợi nhuận lớn mà không cần phải cải thiện năng lực cung ứng hàng hóa, dịch vụ của mình. Mặc dù nguyên tắc tự do khế ước được pháp luật thừa nhận là một nguyên tắc cơ bản trong việc xác lập các quyền, nghĩa vụ giữa các chủ thể bằng hợp đồng, nhưng sự tự do đó luôn luôn phải trong một khuôn khổ, một giới hạn. Do đó, những thoả thuận giữa các doanh nghiệp với mục đích là những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thì có thể sẽ bị vô hiệu theo quy định của pháp luật. 10 Do sự tác động của các quy luật kinh tế cũng như nhu cầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà sự liên kết giữa các doanh nghiệp theo các tiêu chí về ngành nghề, theo khu vực, theo chu trình phân phối… là một tất yếu. Chính từ nhu cầu liên kết này giữa các doanh nghiệp mà xuất hiện các thỏa thuận giữa các doanh nghiệp theo các tiêu chí kể trên, thậm chí cả những liên kết giữa các doanh nghiệp không cùng chung lĩnh vực, địa bàn hoạt động. Như vậy, quyền tự do lập hội cũng là một trong những tiền đề để ra đời và ảnh hưởng tới thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, hiệp hội. Việc các doanh nghiệp cùng ngành nghề liên kết lại với nhau dưới hình thức Hội là hoàn toàn phù hợp với quy định của Hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, hoạt động của bất kỳ một hiệp hội nào cũng phải được tiến hành trong khuôn khổ của Hiến pháp, pháp luật và đặc biệt là không được ảnh hưởng tới lợi ích của những hội khác, những người khác. Trong trường hợp này, nếu các doanh nghiệp liên kết với nhau nhằm thiết lập các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thì sự liên kết đó là những liên kết bất hợp pháp. Về nguyên tắc, với mục tiêu nhằm loại bỏ, thủ tiêu sức ép cạnh tranh nên các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sẽ bị coi là vô hiệu và chủ thể thực hiện hành vi nói trên sẽ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi nhất định. Tuy nhiên, trước các mục tiêu của chính sách cạnh tranh, việc áp dụng pháp luật đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cần phải thực hiện một cách thận trọng, đặc biệt khi lợi ích của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh lớn hơn so với hậu quả của nó mang lại cho thị trường. Theo đó, các tiêu chí thuộc “lợi ích công” sau đây có thể được vận dụng để thực hiện miễn trừ việc áp dụng pháp luật đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh: - Lợi ích của thị trường như: tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước 11 trên thị trường quốc tế. - Lợi ích của chính doanh nghiệp đó như: hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh. - Lợi ích của người tiêu dùng như: việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm; thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá. Qua đó, cho thấy lợi ích công chính là tiêu chuẩn xác định tính hợp pháp của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Một số quốc gia đưa ra tiêu chuẩn để xác định những giới hạn đối với phạm vi áp dụng quy định cấm thoả thuận phản cạnh tranh, theo đó “giới hạn” được thừa nhận ở một số quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu, Cộng hoà Pháp thừa nhận: có thể coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được chấp nhận nếu sự thoả thuận đó không gây ra hoặc có thể xâm hại đến cạnh tranh nhưng ở dưới ngưỡng cho phép. Qua những phân tích về mối quan hệ giữa quyền tự do kinh doanh và thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể nhận định rằng: các chủ thể, các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường có quyền tự do lựa chọn các doanh nghiệp khác để hợp tác, liên kết thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên nội dung liên kết, hợp tác đó phải đảm bảo không ảnh hưởng tới lợi ích công cộng, lợi ích của các doanh nghiệp khác và lợi ích của người tiêu dùng. Do đó, khi các thỏa thuận liên kết xâm hại đến các lợi ích kể trên thì sẽ bị coi là hành vi trái pháp luật và thỏa thuận đó sẽ bị xem là vô hiệu. Qua các phân tích trên cho thấy, nếu như cạnh tranh là cần thiết cho hoạt động của thị trường thì các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là công cụ của các doanh nghiệp nhằm thủ tiêu cạnh tranh trên thị trường. Thông thường hệ quả của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là tạo ra những nhóm độc quyền hoặc gần như độc quyền nhằm nâng giá hàng hóa, giảm sản lượng sản phẩm...để 12 thu lợi nhuận độc quyền. Qua đó, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đã bóp méo sự công bằng trong phân bổ nguồn lực của nền kinh tế, làm giảm phúc lợi xã hội, làm giảm năng suất lao động, trì hoãn tốc độ cải thiện công nghệ… Mặt khác, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh còn loại bỏ trực tiếp cơ hội tham gia cạnh tranh của các doanh nghiệp tiềm năng, các doanh nghiệp đứng ngoài sự thoả thuận. Về bản chất, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được coi là một loại hợp đồng với những hình thức thể hiện đa dạng: thỏa thuận khung, nghị quyết, biên bản ghi nhớ,... hoặc ngầm định thông qua việc thống nhất hành động. Tuy nhiên, loại hợp đồng này có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật do đi ngược lại lợi ích của cạnh tranh - yếu tố mà pháp luật khuyến khích. Vì vậy, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cần phải được kiểm soát, chế ước bởi pháp luật thông qua một hệ thống các chế tài đa dạng và linh hoạt. 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 1.1.2.1. Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Trong kinh tế học, hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được nhìn nhận là sự thống nhất hành động của nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ sức ép của cạnh tranh hoặc hạn chế khả năng hành động một cách độc lập giữa các đối thủ cạnh tranh. Từ điển Chính sách thương mại quốc tế định nghĩa “Cartel” là một thỏa thuận chính thức hoặc không chính thức để đạt được kết quả có lợi cho các mặt hàng có liên quan nhưng có thể có hại cho các bên khác. Khoản 1 Điều 81 Hiệp ước Rome nghiêm cấm mọi thỏa thuận giữa các doanh nghiệp, mọi quyết định của hiệp hội doanh nghiệp và mọi hành động phối hợp có khả năng ảnh hưởng đến trao đổi thương mại giữa các quốc gia 13 thành viên và có mục đích hoặc hệ quả phản cạnh tranh. Luật Cạnh tranh Việt Nam không đưa ra khái niệm mà sử dụng phương pháp liệt kê các thỏa thuận bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, bao gồm: thỏa thuận ấn định hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ; thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất mua bán, hàng hóa, dịch vụ; thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; thỏa thuận áp đặt cho các doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp thuận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng; thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh; thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận; thông đồng để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Tuy nhiên, theo cách tiếp cận của khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh tranh, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được hiểu là thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều doanh nghiệp nhằm mục đích làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường [32]. Việc không đưa ra khái niệm mà chỉ liệt kê các thỏa thuận cụ thể đã không gây nên những tranh luận cần thiết về hình thức và bản chất pháp lý của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Theo đó, chỉ những thỏa thuận được liệt kê tại Điều 8 Luật Cạnh tranh mới bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Trên thực tế, thỏa thuận giữa các doanh nghiệp diễn ra ở nhiều công đoạn khác nhau của quá trình sản xuất, phân phối. Do đó, có nhiều dạng biểu hiện khác nhau của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh: thỏa thuận giữa người bán với nhau (ví dụ: thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận phân chia thị trường); thỏa thuận giữa những người mua; thỏa thuận trong đấu thầu. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể diễn ra giữa các doanh nghiệp 14 thuộc những khâu khác nhau của quá trình kinh doanh, bao gồm: - Thỏa thuận theo chiều ngang: là những thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh trong cùng ngành hàng và cùng khâu của quá trình kinh doanh (ví dụ: giữa những người bán buôn với nhau, giữa những người bán lẻ với nhau) để khống chế giá, phân chia thị trường,… hoặc sự thoả thuận phối hợp hành động nào đó trong một thời gian nhất định để cản trở cạnh tranh từ doanh nghiệp khác. - Thỏa thuận theo chiều dọc: là thỏa thuận giữa những doanh nghiệp ở các công đoạn sản xuất khác nhau. Thoả thuận có thể được thực hiện ở 3 hình thức như định giá, thương lượng giá và các thoả thuận license. Tuỳ theo từng mục tiêu, mức độ, các thoả thuận này có tác động khác nhau, thậm chí một số thoả thuận hoàn toàn có ý nghĩa tích cực cho nền kinh tế và cho xã hội [60]. 1.1.2.2. Đặc điểm pháp lý của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Trong thực tiễn phát triển của thị trường, nội dung các hành vi thỏa thuận cũng rất đa dạng, không thể dự liệu một cách tuyệt đối, đều mang tính tương đối và luôn được bổ sung cùng với sự sáng tạo của người kinh doanh. Các thỏa thuận có thể hướng đến sự thống nhất về giá cả hàng hóa, dịch vụ; có thể là sự thống nhất trong việc phân chia thị trường, phân chia khách hàng, trong chiến lược marketing; thống nhất trong hành động để tiêu diệt đối thủ hoặc phát triển khoa học kỹ thuật,... Như vậy, dựa vào khái niệm mà kinh tế học đưa ra và những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được quy định trong Luật Cạnh tranh, có thể nhìn nhận và phân tích chúng có 3 đặc trưng sau đây: Thứ nhất: về chủ thể - thỏa thuận hạn chế cạnh tranh diễn ra giữa các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh của nhau. Để xác định dấu hiệu này phải chứng minh được những điểm sau: - Các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận cùng trên thị trường liên quan. 15 - Các doanh nghiệp phải hoạt động độc lập với nhau, không phải là những người liên quan của nhau theo pháp luật doanh nghiệp, không cùng trong một tập đoàn kinh doanh, không cùng là thành viên của tổng công ty. Những hành động thống nhất của tổng công ty, của một tập đoàn kinh tế hoặc của các công ty mẹ, con không được pháp luật cạnh tranh coi là thỏa thuận bởi thực chất các tập đoàn kinh tế nói trên cho dù bao gồm nhiều thành viên cũng chỉ là một chủ thể thống nhất [46]. Thứ hai: về hình thức - thỏa thuận thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp có thể công khai hoặc không công khai. Để xác định các hành động của một nhóm doanh nghiệp độc lập là thỏa thuận, cơ quan có thẩm quyền phải có đủ bằng chứng kết luận rằng giữa họ đã tồn tại một hợp đồng, bản ghi nhớ, các cuộc gặp mặt cho thấy đã có thỏa thuận công khai hoặc ngầm đồng ý về giá, về hạn chế sản lượng, phân chia thị trường. Một khi chưa có sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp tham gia thì chưa thể kết luận có sự tồn tại của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phải được hình thành từ sự thống nhất ý chí của các doanh nghiệp tham gia về việc thực hiện một hành vi hạn chế cạnh tranh. Hình thức pháp lý của sự thống nhất ý chí không ảnh hưởng đến việc định danh thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Do đó, chỉ cần hội đủ hai điều kiện là có sự thống nhất ý chí và các doanh nghiệp đã cùng thống nhất thực hiện một hành vi hạn chế cạnh tranh là có thể kết luận đã có thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cho dù thỏa thuận đó bằng văn bản hay lời nói, thỏa thuận công khai hay thỏa thuận ngầm định thông qua việc thống nhất hành động can thiệp cùng một hướng vào thị trường. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm cả các quyết định tập thể của các doanh nghiệp nên các quyết định của Hiệp hội ngành nghề, của các tổ chức nghề nghiệp để các tổ chức, cá nhân kinh doanh là thành viên thực hiện 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan