Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hiện chính sách cải cách hành chính từ thực tiễn huyện bình giang, tỉnh hải...

Tài liệu Thực hiện chính sách cải cách hành chính từ thực tiễn huyện bình giang, tỉnh hải dương

.PDF
78
707
130

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN TUẤN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BÌNH GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG Chuyên ngành: Chính sách công Mã số : 60 34 04 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. NGUYỄN HỮU KHIỂN HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trình bầy trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng./. Tác giả luận văn Nguyễn Văn Tuấn MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH .................................................................................8 1.1. Một số khái niệm liên quan ..........................................................................8 1.2. Quan điểm, mục tiêu và yêu cầu cải cách hành chính ................................15 1.3. Tổ chức thực hiện chính sách CCHC .........................................................17 1.4. Trách nhiệm của các chủ thể trong thực hiện chính sách CCHC ...............22 1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách CCHC .....................24 Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH HUYỆN BÌNH GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG ...................................26 2.1. Kết quả thực hiện chương trình cải cách hành chính huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương giai đoạn 2011-2015 ................................................................26 2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách cải cách hành chính ...................41 2.3. Đánh giá chung về thực hiện chính sách CCHC từ thực tiễn huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương ......................................................................................48 Chương 3: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH..................................................................................................................53 3.1. Quan điểm và định hướng, mục tiêu và nhiệm vụ thực hiện chính sách cải cách hành chính giai đoạn 2016-2020 ...............................................................53 3.2. Giải pháp thực hiện chính sách cải cách hành chính ..................................60 3.3. Đề xuất, kiến nghị .......................................................................................66 KẾT LUẬN ..............................................................................................................69 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................71 DANH MỤC VIẾT TẮT CCHC Cải cách hành chính CB,CC Cán bộ, công chức CNTT Công nghệ thông tin HCNN Hành chính nhà nước HĐND Hội đồng nhân dân UBND Ủy ban nhân dân QĐ Quyết định NQ Nghị quyết TTg Thủ tướng CP Chính phủ TTHC Thủ tục hành chính GS.TS Giáo sư.Tiến sỹ NV Nhiệm vụ DANH MỤC BẢNG BIỂU Trang Biểu 2.1: Kết quả thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông Biểu 2.3: Bảng thống kê phân loại CBCC Biểu 2.3: Bảng thống kê mức độ ứng dụng CNTT Biểu 2.4: Chỉ số CCHC của huyện Bình Giang năm 2015 30-31 33 37-38 41 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay, việc thực hiện Chính sách cải cách hành chính được Đảng, Nhà nước và xã hội quan tâm. Việc nghiên cứu đề tài thực hiện chính sách cải cách hành chính từ thực tiễn được thể hiện qua một số lý do sau: Một là, cải cách hành chính là vấn đề mang tính toàn cầu hiện nay. Cả các nước đang phát triển và các nước phát triển đều xem cải cách hành chính như một động lực mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển dân chủ và các mặt khác của đời sống xã hội. Trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta, Đảng ta đã xác định đường lối và chủ trương về cải cách, trong đó luôn coi cải cách hành chính (CCHC) là một nội dung quan trọng nhằm phát triển đất nước. Thể chế hóa đường lối và chủ trương của Đảng, các cơ quan Nhà nước đã xây dựng và ban hành nhiều chương trình và kế hoạch để thực hiện CCHC, trong đó Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về Chương trình tổng thể CCHC giai đoạn 2001 – 2010 và chương trình tiếp tục đẩy mạnh CCHC nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 (Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2011). Tuy nhiên nền HCNN còn nhiều hạn chế yếu kém, hệ thống Thể chế, pháp luật, nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN vẫn còn bất cập. Chức năng nhiệm vụ của một số cơ quan trong hệ thống hành chính vẫn còn chưa rõ ràng, trùng lặp vẫn chưa bao quát hết các lĩnh vực quản lý nhà nước. Bộ máy còn cồng kềnh chưa phù hợp, chất lượng đội ngũ CBCC vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Một trong nội dung quan trọng của cải cách thể chế hành chính đó là cải cách TTHC, muốn CCHC thì TTHC phải được đơn giản hóa một cách tối đa, tránh rườm rà. Để đáp ứng yêu cầu đó Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003 về việc ban hành quy chế thực hiện cơ chế “Một 1 cửa” tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Đây được coi như là giải pháp mang tính đột phá trong việc cải cách TTHC. Hai là, từ thực tiễn công tác trong bộ máy nhà nước tại UBND huyện Bình Giang từ năm 2001 đến nay, tôi nhận thấy việc thực hiện chính sách CCHC ở huyện Bình Giang vẫn còn nhiều vấn đề cần quan tâm, giải quyết; theo báo cáo đánh giá chỉ số cải cách hành chính của tỉnh Hải Dương năm 2015, huyện Bình Giang là huyện xếp thứ 10/12 huyện thị xã, thành phố về cải cách hành chính. Do vậy, trong luận văn này tôi xin được đề cập đến các nội dung về thực hiện chính sách CCHC từ thực tiễn huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Bình Giang nằm ở phía Tây Nam cửa ngõ thành phố Hải Dương là một trong 12 huyện, thành phố, thị xã thuộc tỉnh Hải Dương, có vị trí địa lý chiến lược quan trọng của tỉnh Hải Dương và khu vực đồng bằng Bắc Bộ; có giao thông thuỷ, bộ khá thuận lợi. Bình Giang có nhiều tuyến Quốc lộ, đường tỉnh chạy qua như: Quốc lộ 5A, quốc lộ 38, đường ô tô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng; đường tỉnh 392, 394, 395. Tổng diện tích tự nhiên là 104,72km2 . Dân số là 106.230 (số liệu điều tra dân số 01/04/2009). Huyện Bình Giang và 06 xã: Thái Học, Tráng Liệt, Cổ Bì, Long Xuyên, Hùng Thắng, Bình Xuyên và 01 cá nhân đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng danh hiệu cao quý “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”; Huyện Bình Giang có 17 xã và 1 thị trấn. Thị trấn Kẻ Sặt được hình thành từ cuối thế kỷ XIX, là trung tâm thương mại - dịch vụ lớn trong tỉnh, có mối quan hệ giao lưu, buôn bán rộng khắp trong và ngoài nước. Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, sự quản lý, điều hành có hiệu quả của các cấp chính quyền, sự nỗ lực, cố gắng của các tầng lớp nhân dân, trong những năm qua huyện đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa xã hội đạt nhiều kết quả quan trọng. Nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đều hoàn thành tốt. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những thế mạnh, mặt tích cực thì huyện Bình Giang cũng còn có những khó khăn, hạn chế nhất định đó là: huyện có diện tích hành chính nhỏ nhất 2 trong tỉnh, kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, cơ sở vật chất còn thiếu thốn do được tái lập từ huyện Cẩm Bình (tháng 4/1997); chất lượng đội ngũ CB, CC cấp huyện, cấp xã chưa thật sự đảm bảo yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính.v.v. Ba là, từ thực tế trên cần thiết phải nghiên cứu một cách thấu đáo cả về lý luận và thực tiễn để tìm ra các giải pháp hữu hiệu. Song vấn đề là phải tiến hành những bước đi như thế nào để bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước từ huyện đến các xã, thị trấn thực hiện tốt chính sách cải cách thủ tục hành chính một cách khoa học nhất, là vấn đề bức thiết đang đặt ra đối với Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân huyện Bình Giang. Với ý nghĩa và tầm quan trọng đó học viên lựa chọn nội dung: "Thực hiện chính sách cải cách hành chính từ thực tiễn huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương" để làm đề tài luận văn thạc sĩ trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng thực hiện chính sách cải các hành chính của huyện Bình Giang từ đó tìm ra những nguyên nhân và đề xuất những giải pháp thực hiện chính sách cải cách hành chính theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 đã xác định cải cách hành chính là một trong 3 khâu đột phá chiến lược để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chủ đề cải cách hành chính đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau, có thể nêu ra một số công trình tiêu biểu như sau: - GS.TS Nguyễn Hữu Khiển “Tìm hiểu về hành chính nhà nước”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1999 và Nhà xuất bản lao động Hà Nội, 2003; - Phạm Văn Hùng – Nguyễn Hữu Khiển “Hành chính nhà nước”, Nhà xuất bản Đại học sư phạm TP HCM, 2006; - “Các giải pháp nhằm tăng cường khả năng tiếp cận và giải quyết công việc cho dân của các cơ quan nhà nước trong quá trình cải cách hành chính”, Chủ biên: PGS.TSKH Nguyễn Văn Thâm; 3 - Phạm Minh Hùng “Kết quả thực hiện chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011-2020 và phương hướng đẩy mạnh CCHC nhà nước trong thời gian tới”, Bộ Nội vụ 2015; - Vũ Viết Thịnh “Cải cách hành chính với sự phát triển bền vững”, Bộ Nội vụ năm 2014; - TS Hà Quang Trường “Cải cách nền hành chính nhà nước giai đoạn 20112015”, Tạp trí cộng sản năm 2015; - GS.TSKH Nguyễn Văn Thâm “Cải cách hành chính ở Việt Nam: Thành tựu và các rào cản hiện nay”; - PGS.TS Đỗ Phú Hải (2012) Đề tài cấp cơ sở: Quy trình Chính sách công tại Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn. - PGS.TS Đỗ Phú Hải (2014): “Khái niệm Chính sách công” tại Tạp chí lý luận chính trị (số 2). - PGS-TS Văn Tất Thu “Những vấn đề lý luận chung về xây dựng và thực hiện chính sách công”; - Luận văn thạc sỹ “Cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động của UBND quận 5, TP Hồ Chí Minh”, Vương Hoàng Tuấn, Học viện hành chính quốc gia, 2000; - Luận văn thạc sỹ “Hoàn thiện tổ chức và hoạt động chính quyền cơ sở qua thực tiễn ở tỉnh Vĩnh Long”, Trần Thị Khiêm, Học viện hành chính quốc gia, 2005; - Luận văn thạc sỹ “Cải cách hành chính trên địa bàn huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội giai đoạn 2011-2020”, Lê Thị Hồng Giang, Học viện Hành chính, 2012; - Luận văn thạc sỹ “Đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2011-2020”, Lê Thị Bình Minh, Học viện Hành chính, 2013; Các công trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên đã đề cập đến nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc cải cách hành chính. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay chưa có đề tài nghiên cứu khoa học nào đề cập đến thực hiện chính sách cải cách hành chính của huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Vì vậy học viên đã mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu việc thực hiện chính sách cải cách hành chính từ thực tiễn huyện Bình Giang 4 nhằm đáp ứng yêu cầu tiếp tục thực hiện tốt chính sách cải cách hành chính huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài “Thực hiện chính sách cải cách hành chính từ thực tiễn huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương” là nhằm khái quát lý luận về thực hiện chính sách cải cách hành chính nói chung và thực trạng thực hiện chính sách cải cách hành chính của huyện Bình Giang từ đó đưa ra những giải pháp nhằm thực hiện tốt chính sách cải cách hành chính ở huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương nói riêng và cả nước nói chung. Học viên lấy nghiên cứu này làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ chuyên ngành Chính sách công. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện các mục đích nghiên cứu đề tài xác định phải giải quyết các nhiệm vụ sau: - Một là, hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách cải cách hành chính. - Hai là, đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách cải cách hành chính tại các cơ quan hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2015 ở huyện Bình Giang. - Ba là, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp thực hiện chính sách cải cách hành chính ở huyện Bình Giang trong những năm tiếp theo. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc thực hiện chính sách cải cách hành chính từ thực tiễn huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, tại một số chủ thể như: UBND huyện, các cơ quan chuyên môn và UBND các xã, thị trấn. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. - Phạm vi thời gian: từ năm 2011-2015 5 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1 Phương pháp luận Luận văn vận dụng cách tiếp cận nghiên cứu chính sách công đa ngành, liên ngành khoa học xã hội và áp dụng các phương pháp nghiên cứu chính sách công từ lý luận đến thực tiễn. Các quy phạm chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách. Lý thuyết chính sách công được soi sáng qua thực tiễn của chính sách công giúp hình thành lý luận về chính sách chuyên ngành CCHC. 5.2 Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập thông tin, phương pháp phân tích và tổng hợp, thống kê và so sánh được sử dụng để thu thập, phân tích và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu. Bao gồm các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, các bộ ngành, các tài liệu, công trình nghiên cứu, các báo cáo thống kê của chính quyền liên quan đến vấn đề thực hiện chính sách CCHC tại nước ta nói chung và thực tế huyện Bình Giang nói riêng. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa của luận văn 6.1.Ý nghĩa lý luận - Đề tài vận dụng, bổ sung lý thuyết khoa học chính sách công để làm rõ vấn đề khoa học và thực tiễn của một chính sách cụ thể: Chính sách cải cách hành chính. - Cung cấp những nghiên cứu, tư liệu, khảo sát thực tế tại huyện Bình Giang từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng hiệu quả chính sách đã ban hành, góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận khoa học chính sách công. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Từ việc phân tích hệ thống chính sách công hiện nay và thực tiễn áp dụng của huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, đề tài góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hoàn thiện chính sách công liên quan đến cải cách hành chính huyện Bình Giang, đồng thời đề xuất những nội dung cụ thể giúp các cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương và địa phương trong việc nghiên cứu, hoạch định, hoàn thiện chính sách và giúp địa phương tổ chức thực hiện chính sách cải cách hành chính một cách có hiệu quả. 6 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục các bảng, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn được bố cục theo 3 chương như sau. Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách cải cách hành chính. Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách cải cách hành chính từ thực tiễn huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Chương 3: Quan điểm, giải pháp thực hiện chính sách cải cách hành chính. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH 1.1. Một số khái niệm liên quan 1.1.1. Khái niệm chính sách Hiện nay, thuật ngữ “chính sách” được sử dụng phổ biến trên sách báo, các phương tiện thông tin và đời sống xã hội. Mọi chủ thể kinh tế - xã hội đều có những chính sách của mình. Có chính sách của doanh nghiệp, chính sách của đảng chính trị, chính sách của một quốc gia, tổ chức, chính sách của một liên minh các nước hoặc tổ chức quốc tế…Cho đến nay, mặc dù đã có rất nhiều nghiên cứu về chính sách và có nhiều cách tiếp cận khác nhau về chính sách nhưng vẫn chưa có sự thống nhất về khái niệm chính sách. Trên thế giới, có thể kể đến một số khái niệm về chính sách như: “Chính sách là một quá trình hành động có mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm” (James Anderson) hay “Chính sách là quyết tâm và định hướng. Chính sách định hướng nhưng không bao gồm các chương trình và chi tiết hành động” (Glen Milne)…Tại Việt Nam, Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó”. Theo điểm 1, điều 2, Nghị định 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật: “Chính sách là định hướng, giải pháp của Nhà nước để giải quyết vấn đề của thực tiễn nhằm đạt được Mục tiêu nhất định”. Như vậy, có thể đưa ra cách hiểu Chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. Các tổ chức, các doanh nghiệp, các đoàn thể đều có thể đề ra những chính sách riêng biệt để áp dụng trong phạm vi một tổ chức, doanh nghiệp hay đoàn thể đó. Các chính sách này nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra cho mỗi 8 tổ chức, chúng chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ chức đó vì vậy chúng mang tính chất riêng biệt và được coi là những “chính sách tư”. Tuy nhiên, mặc dù được sử dụng rộng rãi (chính sách bán hàng, chính sách đào tạo nhân viên, chính sách cạnh tranh…), nhưng “chính sách tư” hầu như không được đề cập đến và được nghiên cứu với tư cách là một ngành khoa học. 1.1.2. Khái niệm chính sách công Trên thế giới và ở Việt Nam có rất nhiều quan niệm về chính sách công. Có thể nêu ra một số quan niệm sau: Chính sách công: là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin, 1978); “Chính sách công là tất cả những gì Nhà nước chọn làm hoặc không làm”; Như vậy, William Jenkin cho rằng chính sách công không phải là một quyết định đơn lẻ nào đó mà là một tập hợp các quyết định khác nhau có liên quan với nhau trong một khoảng thời gian dài, chủ thể ban hành chính sách công phải là các cơ quan nhà nước và chính sách công nhằm vào những mục tiêu nhất định theo mong muốn của nhà nước và bao gồm các giải pháp để đạt được mục tiêu đã chọn. Thomas R. Dye lại đưa ra một định nghĩa ngắn gọn hơn về chính sách công, song lại được nhiều học giả tán thành. Theo ông, “chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay không làm”. Định nghĩa này của Thomas R. Dye không bàn luận về “mục tiêu” hay “mục đích” của chính sách, đồng thời định nghĩa của Dye cũng thừa nhận rằng các chính sách phản ánh sự lựa chọn làm hay không làm. Việc quyết định không làm cũng có thể quan trọng như việc quyết định làm và chính sách là cái chính phủ làm hoặc không làm chứ không phải là cái mà họ muốn làm hoặc lập kế hoạch để làm. Theo Peter Aucoin “chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do chính phủ tiến hành”. Aucoin cho rằng, chính sách có thể vừa là hành động riêng biệt của chính phủ vừa là kết quả của hàng loạt quyết định đa dạng. B. Guy Peter đưa ra định nghĩa “chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân”. Định nghĩa này tiếp cận ở góc 9 độ tác động của chính sách công đến đời sống của người dân với tư cách là một cộng đồng. Theo (Kraft and Furlong, 2004) định nghĩa: Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của chính quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng như các quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những chương trình Ở nước ta cũng có một số tác giả nghiên cứu về chính sách công, đã đưa ra các định nghĩa chính sách công như: PGS.TS Lê Chi Mai (Học viện Hành chính Quốc gia) đưa ra khái niệm chính sách công với các nội hàm sau: + Chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước, chính sách do Nhà nước ban hành nên chính sách công có thể coi là chính sách của Nhà nước. + Chính sách công là những quyết định hành động, bao gồm cả những hành vi thực tiễn, chính sách công không chỉ thể hiện dự định của Nhà nước hoạch định chính sách về một vấn đề nào đó mà còn bao gồm những hành vi thực hiện dự định đó. Nếu không có việc thực thi chính sách để đạt được những kết quả nhất định thì những chủ trương đó chỉ là những khẩu hiệu mà thôi. + Chính sách công tập trung giải quyết một vấn đề trong đời sống kinh tế- xã hội theo những mục tiêu xác định. Trong giáo trình “Hoạch định và phân tích chính sách công” của Học viện Hành chính Quốc gia xuất bản năm 2013 cũng đưa ra định nghĩa chính sách công: “Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển”[T20] Theo tác giả Nguyễn Hữu Hải (2010 - HV Hành chính Quốc gia) định nghĩa “Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển”; 10 Nguyễn Thị Như Mai, (2010 – Văn phòng Chính phủ) định nghĩa: “Chính sách công là những sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và thực tế mà đề ra”. Trong sách “Những vấn đề cơ bản về quyền lực nhà nước, cải cách chế độ công vụ và đánh giá chính sách công” – dùng cho thi nâng ngạch chuyên viên chính lên chuyên viên cao cấp đưa ra khái niệm chính sách công: “Chính sách công là kết quả ý chí chính trị của nhà nước được thể hiện bằng tập hợp các quyết định có liên quan đến nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề công trong xã hội” [T127] PGS. TS Đỗ Phú Hải (Học viện Khoa học xã hội) đưa ra khái niệm chính sách công: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể và giải pháp thực hiện giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định” Các khái niệm định nghĩa nêu trên có sự khác nhau trong chừng mực nhất định, nhưng đều có chung các nội dung nội hàm sau: + Chính sách công là chính sách của Nhà nước. + Là một tập hợp các quyết định chính trị có mối liên hệ với nhau. + Với những mục tiêu và giải pháp cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề xã hội theo ý chí của đảng cầm quyền. 1.1.3. Khái niệm cải cách hành chính - Thuật ngữ “Hành chính” có gốc từ tiếng Latinh “administratio” là quản lý, lãnh đạo. Hiện nay có khá nhiều cách hiểu và giải thích khác nhau về thuật ngữ này, tuỳ theo góc độ tiếp cận của từng nhà nghiên cứu. Tuy có nhiều cách tiếp cận, nhưng đặc điểm cơ bản của hành chính xuất phát từ việc trong bất kỳ xã hội nào cũng cần có sự phân công lao động, cần tới sự xác lập những tỉ lệ giữa các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Như vậy, hành chính theo nghĩa chung là quản lý công việc, là quản lý xã hội; theo nghĩa riêng, hẹp hơn là công việc nhà nước và tổ chức quản lý nhà nước. Về cơ bản, hành chính là tổng thể những hoạt động (thao tác) nhất định do con người, chủ thể quản lý thực hiện đối với khách thể quản lý 11 nhằm cải tạo khách thể, bảo đảm cho nó vận động tới một mục tiêu đã định. Hành chính chính là hoạt động quản lý của con người để tạo ra sự vận hành mang tính hệ thống của xã hội. Tóm lại có thể hiểu: Hành chính là hoạt động chấp hành và điều hành trong quản lý một hệ thống theo những quy định trước nhằm đạt mục tiêu của hệ thống. + Thuật ngữ "cải cách" được sử dụng phổ biến trong ngôn ngữ phương Tây và phương Đông, được hiểu là một quá trình, một hoạt động có ý thức, có mục đích làm thay đổi, cải biến những cái cũ theo hướng tốt hơn hoặc thay thế cái cũ bằng cái mới. Cải cách có thể diễn ra ở những cấp độ, mức độ khác nhau. Có những hoạt động cải cách có tính chất cách mạng, có những cuộc cải cách chỉ là sự thay đổi ít nhiều so với ban đầu. Cải cách là thay đổi những bộ phận cũ không hợp lý cho thành mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình khách quan. Cải cách bao gồm tập hợp của nhiều cải tiến, sáng kiến, biến đổi. Cải cách còn được xem là một biện pháp giải quyết những đòi hỏi của thực tiễn với mục tiêu rõ ràng, chương trình cụ thể và yêu cầu phải hoàn tất trong một thời gian nhất định. Với ý nghĩa đó, cải cách hiện diện trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Căn cứ vào quan niệm về cải cách và hành chính đã làm rõ ở trên thì cải cách hành chính chính là hoạt động có ý thức và mục đích của con người nhằm hợp lý hóa, hay khắc phục các khiếm khuyết trong các chương trình điều hành, quản lý các hệ thống. Như vậy, CCHC là hoạt động cải tạo, nâng cấp, hoàn thiện công tác quản lý cho tất cả các hệ thống trong xã hội. Song do hành chính gắn chủ yếu với hoạt động của các cơ quan nhà nước, các thể chế chính trị nên khái niệm CCHC thường được coi là đồng nhất với khái niệm CCHC nhà nước. Có nhiều định nghĩa khác nhau về cải cách hành chính, nhưng tựu chung lại, cải cách hành chính không thuần tuý là sự cải biến mà là cuộc cách mạng có chủ thuyết chính trị và có kế hoạch, do Đảng cầm quyền khởi xướng và lãnh đạo nhằm “xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có 12 phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước”. Cái đích của cải cách hành chính là xây dựng một nền hành chính gần dân, vì dân, đáp ứng những đòi hỏi chính đáng của người lao động. Nền hành chính gần dân là nền hành chính không có mục đích tự thân, mà chỉ có mục đích phục vụ dân, giữ gìn trật tự, kỷ cương của xã hội, của chế độ. Thông qua đó, nền hành chính tác động tích cực đối với đời sống kinh tế và đời sống xã hội. 1.1.4. Khái niệm chính sách cải cách hành chính Qua các nghiên cứu, phân tích khái niệm có liên quan ở trên, tác giả luận văn cho rằng: “Chính sách cải cách hành chính là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể và giải pháp công cụ chính sách để giải quyết các vấn đề hành chính theo mục tiêu tổng thể đã được xác định của Đảng cộng sản Việt Nam”. 1.1.5. Nhận thức về thực hiện chính sách công PGS.TS Văn Tất Thu định nghĩa “Thực hiện chính sách công là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực, là bước đặc biệt quan trọng trong chu trình chính sách: hiện thực hóa chính sách, đưa chính sách vào cuộc sống”. Thực hiện chính sách là một khâu cấu thành chu trình chính sách, là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu nhất định. Tổ chức thực thi chính sách là trung tâm kết nối các khâu (các bước) trong chu trình chính sách thành một hệ thống. Hoạch định được chính sách đúng, có chất lượng là rất quan trọng, nhưng thực hiện đúng chính sách còn quan trọng hơn. Có chính sách đúng nếu không được thực hiện sẽ trở thành khẩu hiệu suông, không những không có ý nghĩa, mà còn ảnh hưởng đến uy tín của chủ thể hoạch định và ban hành chính sách (uy tín của nhà nước). Nếu chính sách không được thực hiện đúng sẽ dẫn đến sự thiếu tin tưởng và sự phản ứng của nhân dân đối với nhà nước. Điều này hoàn toàn bất lợi về mặt chính trị và xã hội, gây những khó khăn, bất ổn cho nhà nước trong công tác quản lý. Qua thực hiện mới biết được chính sách có đúng, phù hợp và đi vào cuộc sống hay không. Quá 13 trình thực hiện với những hoạt động thực tiễn sẽ góp phần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chính sách cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Đồng thời, việc phân tích, đánh giá một chính sách (mức độ tốt, xấu) chỉ có cơ sở đầy đủ, sức thuyết phục sau khi được thực hiện. Thực tiễn là chân lý, kết quả thực hiện chính sách là thước đo, là cơ sở đánh giá một cách chính xác, khách quan chất lượng và hiệu quả của chính sách. Việc đưa chính sách vào thực tiễn cuộc sống là một quá trình phức tạp đầy biến động, chịu sự tác động của nhiều yếu tố giúp các nhà hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách có kinh nghiệm để đề ra được các giải pháp hữu hiệu trong thực hiện chính sách. Tổ chức thực hiện chính sách có vị trí đặc biệt quan trọng, là bước hiện thực hóa chính sách vào đời sống xã hội. Chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách công phụ thuộc vào năng lực của đội ngũ CBCC tham gia thực hiện chính sách. Nói cách khác, năng lực thực hiện chính sách của đội ngũ CBCC tham gia thực hiện chính sách quyết định chất lượng, hiệu quả của việc thực hiện chính sách. Do đó, muốn nâng cao hiệu quả, chất lượng thực hiện chính sách công cần phải có các giải pháp đồng bộ nâng cao năng lực thực hiện chính sách của đội ngũ CBCC tham gia thực hiện chính sách. Năng lực, khả năng làm việc của CBCC được hội tụ bởi ba yếu tố là: kiến thức, kỹ năng và thái độ của CBCC trong thực thi công vụ. Kiến thức là sự hiểu biết, là những thông tin hữu ích công chức cần hiểu và ghi nhớ để phục vụ tốt cho công việc. Kỹ năng là khả năng chuyển kiến thức thành hành động để kết quả đạt được như mong muốn. Thái độ là ý thức, thái độ đối với công việc và trong các mối quan hệ với con người. Nói một cách ngắn gọn, năng lực là khả năng làm việc tốt nhờ phẩm chất và trình độ chuyên môn. Trong quá trình thực hiện chính sách sẽ có liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân vì thế kết quả tổ chức thực hiện chính sách cũng sẽ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đó có yếu tố chủ quan và khách quan. Trong đó, yếu tố chủ quan là quan trọng hơn cả vì nó quyết định sự thành bại của chính sách, vì trong yếu tố này nó có các nhân tố quan trọng như nhân sự và sự ủng hộ của người dân là hai nhân tố cần cho việc thực hiện chính sách công. 14 1.2. Quan điểm, mục tiêu và yêu cầu cải cách hành chính Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương về chính sách cải cách hành chính và luôn xác định cải cách hành chính là một khâu quan trọng để phát triển đất nước. Các cơ quan nhà nước đã xây dựng và tổ chức thực hiện nhiều chương trình, kế hoạch về cải cách hành chính theo các chủ trương, nghị quyết của Đảng, nhất là chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 với quan điểm, mục tiêu và yêu cầu cơ bản sau: 1.2.1. Quan điểm chính sách cải cách hành chính - Cải cách hành chính phải được tiến hành đồng bộ trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, cải cách bộ máy nhà nước nói chung. - Cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu hoàn thiện nhanh và đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tạo thuận lợi nhất cho cá nhân, tổ chức và góp phần tích cực chống quan liêu, phòng và chống tham nhũng. - Thông qua cải cách, tiếp tục làm rõ và phù hợp chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng cơ quan hành chính, thực hiện phân công, phân cấp rõ và phù hợp, phân định rõ trách nhiệm giữa các cấp chính quyền, giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn, giữa tập thể và người đứng đầu cơ quan hành chính. - Xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. - Cải cách phải hướng tới xây dựng một nền hành chính hiện đại, ứng dụng có hiệu quả thành tựu phát triển của khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin. 1.2.2. Mục tiêu cải cách hành chính a) Mục tiêu chung Đến năm 2020 xây dựng được một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phục vụ người dân, doanh nghiệp và xã hội. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan