Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hiện chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh...

Tài liệu Thực hiện chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh bến tre

.PDF
89
322
108

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THANH PHÚC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẾN TRE Chuyên ngành : Công tác xã hội Mã số : 60.90.01.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. BÙI ANH THỦY HÀ NỘI , 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Thực hiện chính sách Công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh Bến Tre” là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trình bày trong luận văn là trung thực, được nghiên cứu, đánh giá từ thực tiễn, trích từ các nguồn công khai, hợp pháp, không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả luận văn Lê Thanh Phúc MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG ................................ 8 1.1. Các khái niệm: Giảm nghèo bền vững, công tác xã hội đối với người nghèo, chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững ....................... 8 1.2. Vai trò của chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững ....... 18 1.3. Nội dung của chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững ... 21 Chương 2 THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TẠI TỈNH BẾN TRE ................................. 35 2.1. Tình hình kinh tế - xã hội, thực trạng và đặc điểm nghèo tại tỉnh Bến Tre .. 35 2.2. Tình hình thực hiện chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững tại tỉnh Bến Tre ...................................................................................... 39 2.3. Đánh giá việc thực hiện chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững tại tỉnh Bến Tre giai đoạn 2011-2016 .................................................... 54 Chương 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẾN TRE ................................................................................................................. 64 3.1. Quan điểm, mục tiêu hoàn thiện chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững ............................................................................................... 64 3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững .......................................................................................................... 65 3.3. Lộ trình thực hiện ..................................................................................... 74 3.4. Một số kiến nghị....................................................................................... 74 KẾT LUẬN .................................................................................................... 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Viết đầy đủ 1 CTXH Công tác xã hội 2 GNBV Giảm nghèo bền vững 3 CSXH Chính sách xã hội 4 DV Dịch vụ 5 CTGN Công tác giảm nghèo 6 BTXH Bảo trợ xã hội 7 TGXH Trợ giúp xã hội 8 KT-XH Kinh tế - xã hội 9 CBXH Công bằng xã hội 10 CSGN Chính sách giảm nghèo 11 NCN Nghề chuyên nghiệp DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Thực trạng hộ nghèo, hộ cận nghèo tỉnh Bến Tre năm 2016 ......... 36 Bảng 2.2. Thực trạng hộ nghèo thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản tỉnh Bến Tre năm 2016 .................................................................................................. 38 Bảng 2.3. Thực trạng về nguyên nhân nghèo của hộ nghèo tỉnh Bến Tre ...... 48 Bảng 2.4. Thực trạng về nguyện vọng của hộ nghèo tỉnh Bến Tre ................ 49 Bảng 2.5. Kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu của chương trình giảm nghèo bền vững tỉnh Bến Tre giai đoạn 2011-2015 ....................................... 49 Bảng 2.6. Tình hình số lượng về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, nhân viên công tác xã hội tỉnh Bến Tre năm 2016 ............................. 57 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghèo đói là vấn đề kinh tế, xã hội của nhân loại, các quốc gia đều đặt việc giải quyết nghèo đói là quốc sách. Tuy nhiên, cho đến nay vấn đề nghèo đói vẫn là vấn đề của toàn cầu, kể cả các nước phát triển. Việt Nam sau 20 năm thực hiện chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về giảm nghèo đã đạt được những thành tựu to lớn, được thế giới công nhận là quốc gia hoàn thành mục tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo. Tuy nhiên,“kết quả giảm nghèo chưa vững chắc, có quá nhiều chính sách giảm nghèo dẫn đến nguồn lực bị phân tán, hiệu quả tác động đến đối tượng thụ hưởng chưa cao, chưa rõ nét; chưa đủ mạnh để thúc đẩy hộ nghèo vươn lên thoát nghèo; nhiều chính sách hỗ trợ cho không đã làm tăng tính ỷ lại, không muốn thoát nghèo của người nghèo...” [40, tr. 7-8]. Trong giai đoạn 2016-2020 với phương pháp tiếp cận nghèo đa chiều, với mục tiêu không ngừng nâng cao mức sống người nghèo. Cùng với những chính sách, CTGN đổi mới phương pháp tiếp cận từ chủ yếu là thực hiện chính sách trợ cấp, bảo trợ cho người nghèo sang tiếp cận theo phương pháp CTXH với người nghèo, đó là phát huy thế mạnh, tính chủ động của người nghèo, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội để GNBV. Với Đề án phát triển nghề CTXH giai đoạn 2010 - 2020, theo đó người nghèo là đối tượng áp dụng CTXH [46, tr. 3]. Từ khi triển khai thực hiện đến nay, Bến Tre đã tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền, tập huấn, đào tạo, xây dựng các cơ sở cung cấp DV CTXH và triển khai mạng lưới cộng tác viên CTXH ở các xã, phường,… với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 đưa CTXH trở thành một NCN. Tuy nhiên, nghề CTXH ở tỉnh mới chỉ trong giai đoạn hình thành. Nhận thức về CTXH và DV CTXH ở cộng đồng còn hạn chế. Khung pháp lý về CTXH chưa hoàn chỉnh, còn nhiều khoảng trống. Chính sách CTXH đối với các lĩnh vực nói chung và chính sách CTXH trong GNBV nói riêng chưa được định hình đầy đủ và cụ thể. Sự đóng góp của ngành CTXH trong giảm nghèo chưa nhiều,... Công tác thực hiện chính sách CTXH trong GNBV đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần phải nghiên cứu nhằm rút ra bài học kinh nghiệm bổ sung vào lý luận vốn còn 1 rất mới mẻ và đề ra các giải pháp phù hợp, thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả GNBV. Từ những vấn đề đã nêu, trên cở sở lý thuyết, lý luận và những phương pháp, kỹ năng CTXH đã được trang bị trong Chương trình cao học CTXH kết hợp với phân tích thực tiễn, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Thực hiện chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh Bến Tre” làm đề tài Thạc sĩ công tác xã hội. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về CTXH với người nghèo nói chung, chính sách CTXH trong GNBV nói riêng là những vấn đề còn khá mới trong bối cảnh nghiên cứu hiện nay. Tuy vậy, trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học cũng đã có một số đề tài khoa học liên quan đến một vài khía cạnh của vấn đề nghiên cứu như: Nghiên cứu của Prof. Miu Chung Yan trong tác phẩm “Công tác xã hội và xóa đói giảm nghèo” tại Umuebu–Nigeria đã chỉ ra các quan điểm và tiếng nói của các nhân viên xã hội ít khi tìm thấy trong việc lập kế hoạch và thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo ở Nigeria. Nghiên cứu nhằm lấp đầy khoảng trống này bằng cách chứng minh các quan điểm và tiếng nói của các nhân viên xã hội có thể đóng góp cho các chương trình giảm nghèo thành công ở Nigeria. Xóa đói giảm nghèo là một trong những thách thức của Ngân hàng thế giới và một trong những mục tiêu của các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Nghiên cứu này là một nguồn kiến thức cho các nhà hoạch định chính sách ở Nigeria, Ngân hàng thế giới và cộng đồng quốc tế về những lợi ích của việc kết hợp các quan điểm và tiếng nói của các nhân viên xã hội trong việc lập kế hoạch và thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo. Nguyễn Đức Nhật và nhóm chuyên gia (2013) đã có công trình “Nghiên cứu mô hình giảm nghèo của các đối tác quốc tế ở Việt Nam“, Báo cáo trong khuôn khổ dự án “Hỗ trợ thực hiện Nghị quyết 80/NQ-CP về định hướng giảm nghèo bền vững (2011-2020) và Chương trình mục tiêu quốc gia về GNBV (2012-2015)”, do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổ chức UNDP, Tổ chức Iris Aid đã tài trợ. Kết quả nghiên cứu đã khẳng định: tình trạng đói nghèo ở mỗi vùng miền có đặc tính 2 khác nhau và cần các phương pháp tiếp cận khác nhau; trong thực thi cần chú trọng tính tự chủ của địa phương, sự tham gia của người dân và lựa chọn đối tác triển khai phù hợp. Quá trình phân tích chỉ ra rằng, mô hình của các tổ chức quốc tế thành công hơn bởi họ tuân thủ các nguyên tắc của lý thuyết kinh tế, xây dựng động lực tham gia của các bên và trao quyền tự quyết cho người dân. Các mô hình quốc tế cũng triển khai theo hướng nhỏ, chậm chắc và chú trọng về nâng cao năng lực so với các chương trình đại trà nhanh và thiếu kiểm tra đánh giá của nhà nước. Chương trình Chia Sẻ - SIDA (2009), báo cáo “Các nhân tố hỗ trợ và cản trở hộ nghèo tiếp cận các nguồn vốn sinh kế để giảm nghèo bền vững” trong khuôn khổ thực hiện các dự án nâng cao năng lực phát triển cộng đồng đã xác định những nhân tố thuận lợi và cản trở hộ nghèo tiếp cận các nguồn lực để GNBV. Theo đó, 5 nguồn vốn sinh kế đã được phân tích bao gồm: nguồn vốn con người; nguồn vốn vật chất; nguồn vốn tài chính; nguồn vốn xã hội; nguồn vốn tự nhiên. Nghiên cứu cũng chỉ rõ: sự đóng góp các nguồn vốn sinh kế vào trong quá trình giảm nghèo đối với các nguồn vốn có sự khác nhau. Vì vậy, cần có cách điều chỉnh khác nhau trong việc tác động các nguồn vốn sinh kế vào mục tiêu giảm nghèo. Xét trong ngắn hạn, nguồn vốn tài chính và một phần nguồn vốn con người có tác động tích cực trong quá trình giảm nghèo. Việc hỗ trợ gia tăng nguồn vốn tài chính từ các kênh khác nhau sẽ làm tăng nguồn vốn sản xuất kinh doanh của hộ. Và điều này mang lại kết quả giảm nghèo trong ngắn hạn. Bên cạnh đó, việc hỗ trợ gia tăng nguồn vốn con người từ việc đào tạo tập huấn ngắn hạn cũng có tác động nhanh chóng. Xét về trung hạn, sự gia tăng nguồn vốn con người trên khía cạnh giáo dục, cơ sở hạ tầng sẽ mang lại kết quả giảm nghèo về trung hạn, ít nhất là trong thời hạn từ 3 - 5 năm. Ví dụ, việc xây dựng đường giao thông hay cầu cống chỉ mang lại hiệu quả tốt cho giảm nghèo khi mà sản xuất của họ đã phát triển đến mức có thể tiếp cận với thị trường để gia tăng thu nhập. Hoặc là việc đào tạo chỉ có tác dụng tốt khi người dân được đào tạo đã có quá trình tích lũy kiến thức để có thể phát huy trong đời sống và sản xuất. Trong sách chuyên khảo “Chính sách xóa đói giảm nghèo - Thực trạng và 3 giải pháp” của PGS.TS. Lê Quốc Lý chủ biên, xuất bản năm 2012: Đã nêu một số lý luận về xóa đói, giảm nghèo; những chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về xóa đói, giảm nghèo; thực trạng đói nghèo ở Việt Nam; chính sách xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010; một số chương trình xóa đói giảm nghèo điển hình của Việt Nam thời gian qua; đánh giá tổng quát thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam giai đoạn 2001-2010; định hướng và mục tiêu xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam trong thời gian tới; một số cơ chế nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam; giải pháp xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam thời gian tới. Đây là cuốn sách bổ sung luận cứ cho công tác hoạch định chính sách xóa đói, giảm nghèo, bổ sung tư liệu cho công tác đào tào, nghiên cứu về chính sách xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam. Viện Khoa học xã hội Việt Nam - VASS: “Giảm nghèo tại Việt Nam: Thành tựu và Thách thức”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội - 2011. Báo cáo đã chỉ ra những thành tựu trong giảm nghèo của Việt Nam trong giai đoạn qua là rất tốt, nhưng không đồng đều và chưa bền vững; CTGN trong bối cảnh kinh tế mới trong giai đoạn sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và những thách thức đi kèm trong giai đoạn tới. Báo cáo cũng đã bước đầu chỉ ra phương pháp đo lường nghèo ở Việt nam trong giai đoạn tới cần có sự thay đổi theo hướng người nghèo cần tiếp cận được với các dịch vụ xã hội cơ bản. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2015), “Đề án tổng thể chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều dựa và thu nhập sang đa chiều áp dụng trong giai đoạn 2016 - 2020”. Đề án đã chỉ ra rằng, nghèo đói thường được xác định bằng thu nhập hoặc chi tiêu và chuẩn nghèo được xác định bằng tiền. Cách xác định này đã bộc lộ những hạn chế như: một số nhu cầu cơ bản của con người không thể quy ra tiền (như tham gia xã hội, an ninh, vị thế xã hội, v.v...) hoặc không thể mua được bằng tiền (tiếp cận giao thông, thị trường và các loại cơ sở hạ tầng khác, an ninh, môi trường, một số dịch vụ y tế, giáo dục, v.v...); có những trường hợp hộ gia đình có tiền nhưng không chi tiêu vào việc đáp ứng những nhu cầu tối thiểu. Điều này cho thấy việc áp dụng duy nhất tiêu chí thu nhập để xác định hộ 4 nghèo đã dẫn đến sự phân loại đối tượng, đánh giá mức độ và nguyên nhân nghèo chưa chính xác vì chưa phản ánh đầy đủ nhu cầu cơ bản, cũng như mức độ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. CSGN được xây dựng dựa trên cơ sở sự thiếu hụt thu nhập của hộ để chi trả dịch vụ. Như vậy, chưa tính đến các yếu tố không tiếp cận được là do dịch vụ không có sẵn hoặc không phù hợp hoặc do chính người dân từ chối sử dụng. Từ đó chỉ ra cần thay đổi và áp dụng phương pháp xác định nghèo đa chiều. Đề tài luận văn thạc sỹ “Quản lý công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh Bến Tre” của tác giả Nguyễn Minh Lập (2016): Đã nghiên cứu một số lý luận và thực tiễn về CTXH, quản lý CTXH trong giảm nghèo bền vững; đánh giá về pháp luật, cơ chế chính sách về CTXH, thực trạng về quản lý CTXH đối với người nghèo. Trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp và nâng cao hiệu quả công tác quản lý CTXH với người nghèo từ thực tiễn tỉnh Bến Tre. Các công trình, đề tài nghiên cứu nêu trên chỉ dừng lại ở một khía cạnh như: CSGN, hoặc là CTXH, chưa thấy có công trình nào nghiên cứu đầy đủ: Chính sách CTXH trong GNBV. Tuy nhiên, đó là những nghiên cứu rất hữu ích mà tác giả tham khảo trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, nhằm đưa ra kiến nghị về các biện pháp tổng thể hoàn thiện chính sách CTXH trong giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Bến Tre. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nhằm vận dụng lý luận chính sách CTXH trong GNBV ở Việt Nam để soi rọi giữa lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách CTXH trong GNBV ở tỉnh Bến Tre, tìm ra những bất cập của chính sách CTXH trong GNBV hiện nay, từ đó đề xuất giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện chính sách CTXH trong GNBV hướng đến mục tiêu chuyên nghiệp hóa CTXH đối với người nghèo, góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp của nghề CTXH, thực hiện có hiệu quả mục tiêu GNBV. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách CTXH trong GNBV và chính sách CTXH trong GNBV ở Việt Nam. 5 Thứ hai, nghiên cứu thực trạng thực hiện các chính sách CTXH trong GNBV từ thực tiễn tại tỉnh Bến Tre. Thứ ba, trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện chính sách CTXH trong GNBV tại tỉnh Bến Tre hiện nay, đề ra quan điểm, xác định mục tiêu, giải pháp và lộ trình hoàn thiện chính sách CTXH trong GNBV trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Chính sách CTXH trong GNBV. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Nội dung nghiên cứu: Tình hình thực hiện chính sách CTXH trong GNBV. - Về thời gian nghiên cứu: Từ năm 2011 đến năm 2016. - Về địa bàn nghiên cứu: Tại tỉnh Bến Tre. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài vận dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp để thu thập, phân tích và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước, bộ ngành ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách CTXH trong GNBV ở nước ta nói chung và tỉnh Bến Tre nói riêng. Đồng thời, thu thập các tài liệu của các tổ chức và học giả trong và ngoài nước liên quan đến đề tài trong thời gian qua. Các phương pháp luôn được phối hợp với nhau một cách chặt chẽ, linh hoạt tạo nên hệ thống các vấn đề được trình bày theo một trình tự lô gíc trong quá trình phân tích, đánh giá chính sách CTXH trong GNBV. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Đề tài này có ý nghĩa về mặt lý luận, người học nghiên cứu, bổ sung kiến thức lý thuyết về chính sách CTXH trong GNBV ở Việt Nam; đồng thời biết vận dụng các lý thuyết về CSXH, lý thuyết về CTXH nói chung và CTXH đối với người nghèo nói riêng, đánh giá chính sách CTXH trong GNBV, đánh giá thực tiễn thực hiện chính sách CTXH trong GNBV ở địa phương. 6 - Kết quả nghiên cứu đề tài minh chứng cho việc vận dụng các lý thuyết về CSXH, lý thuyết về CTXH nói chung và CTXH đối với người nghèo nói riêng là cần thiết trong quá trình nghiên cứu thực tiễn thực hiện chính sách CTXH trong GNBV, từ đó góp phần hoàn thiện chính sách CTXH trong GNBV ở nước ta nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của chính sách CTXH trong GNBV trong việc xây dựng cũng như tổ chức thực hiện. - Kết quả nghiên cứu của đề tài, trước hết là góp phần nâng cao nhận thức đối với các cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể các cấp từ tỉnh, huyện đến cơ sở hiểu rõ hơn về lý luận chính sách CTXH trong GNBV ở Việt Nam, xem xét giữa lý luận và thực tiễn từ kết quả thực hiện chính sách CTXH trong GNBV tại tỉnh Bến Tre, từ đó định hướng góp phần hoàn thiện chính sách CTXH trong GNBV, nâng cao hiệu quả chất lượng của chính sách CTXH trong GNBV ở Việt Nam trong quá trình xây dựng và phát triển CTXH thành một NCN. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày theo 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững. Chương 2: Thực hiện chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững tại tỉnh Bến Tre. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Bến Tre. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG 1.1. Các khái niệm: Giảm nghèo bền vững, công tác xã hội đối với người nghèo, chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững 1.1.1. Giảm nghèo và giảm nghèo bền vững 1.1.1.1. Giảm nghèo Trên thế giới, khái niệm về nghèo được thể hiện qua rất nhiều quan niệm khác nhau, chúng ta có thể hiểu: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển KT-XH và phong tục tập quán của địa phương” (Hội nghị chống đói nghèo khu vực châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc - Thái Lan tháng 9/1993). Quan niệm này, nghèo đói bao gồm nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán của địa phương. Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng. Theo khía cạnh kinh tế: Nghèo là do sự thiếu lựa chọn dẫn đến cùng cực và thiếu năng lực tham gia vào đời sống KTXH của quốc gia, chủ yếu là trong lĩnh vực kinh tế. Theo khía cạnh khác: Nghèo là sự phản ánh trình độ phát triển KT-XH trong từng giai đoạn lịch sử, trong phạm vi một quốc gia, một khu vực, một vùng. Ở Việt Nam trước đây có hai khái niệm: đói và nghèo. Tuy nhiên, đến năm 2000, Chính phủ công bố Việt Nam không còn tình trạng đói nên không còn sử dụng khái niệm này. Còn nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thỏa mãn một phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện. Biểu hiện của sự nghèo khổ là thiếu ăn, thiếu mặc, nhà ở dột nát, nước uống không hợp vệ sinh, thiếu vốn, thiếu đất, thiếu phương tiện sản xuất, thiếu kiến thức, con cái thất 8 học, phong tục tập quán lạc hậu, thiếu việc làm hoặc việc làm không hiệu quả ... Nước ta, tình trạng nghèo xuất phát từ nguyên nhân khách quan như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt (hạn hán, bão lũ, thiên tai, đất khô cằn, địa hình phức tạp), kinh tế chậm phát triển, hậu quả của chiến tranh. Song về chủ quan, đối với phía Nhà nước là do thiếu, không đồng bộ về cơ chế, chính sách hoặc cơ chế chính sách thiếu tính khả thi, thực hiện kém hiệu quả; nguyên nhân về phía người nghèo là do thiếu vốn, thiếu kiến thức, thiếu thông tin, thiếu tư liệu và phương tiện sản xuất, ốm đau, bệnh tật, đông con, không tìm được việc làm, lười lao động, rủi ro,... Mặt khác, một trong những mặt trái của nền kinh tế thị trường là sự phân hóa giàu nghèo, đồng thời với một bộ phận giàu lên, còn có một bộ phận vì nhiều nguyên nhân khác nhau sẽ bị rơi xuống nghèo khổ cũng là một nguyên nhân dẫn đến nghèo. Để xác định người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo, Chính phủ ban hành chuẩn hộ nghèo phù hợp với điều kiện và tình hình phát triển KT-XH của từng thời kỳ. Người nghèo là người thuộc thành viên của hộ được xác định là hộ nghèo. Hộ nghèo là hộ được xác định trên cơ sở đảm bảo các điều kiện theo quy định của chuẩn hộ nghèo. Huyện nghèo, xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn là huyện, xã thỏa mãn các tiêu chí về vị trí địa lý, điều kiện KT-XH và tỷ lệ hộ nghèo theo quy định của Chính phủ. Từ năm 1992 đến nay, Việt Nam có 7 lần thay đổi chuẩn hộ nghèo, sau mỗi lần thay đổi đều có xu hướng ngày càng nâng lên mức sống theo sự phát triển của nền KTXH, khả năng cân đối ngân sách và phương pháp tiếp cận gần dần với chuẩn nghèo của thế giới, với định hướng nhằm đảm bảo GNBV. Chuẩn nghèo giai đoạn hiện nay (2016-2020), lần đầu tiên Chính phủ ban hành chuẩn nghèo theo hướng tiếp cận đa chiều. Theo đó, có hai tiêu chí tiếp cận đo lường nghèo đa chiều là tiêu chí về thu nhập và mức độ thiếu hụt tiếp cận DV xã hội cơ bản. Phương pháp đo lường nghèo đa chiều được nghiên cứu, áp dụng sẽ khắc phục những hạn chế của phương pháp đo lường nghèo bằng thu nhập [7, tr. 4-10]. Đặc biệt bối cảnh cơ cấu kinh tế - xã hội thay đổi, đô thị hóa và di cư tăng nhanh hiện nay đang tạo ra một bộ phận lớn người dân thuộc nhóm cận nghèo chưa có điều kiện tăng thu nhập hoặc chưa được tiếp cận đầy đủ với các DVXH cơ bản, đang đối mặt với nhiều rủi ro khiến họ có thể rơi vào tình trạng nghèo. Với mục đích tác động tốt hơn, toàn diện hơn đến người nghèo, việc chuyển đổi đánh giá 9 nghèo từ đơn chiều sang đa chiều nhằm hạn chế việc bỏ sót những đối tượng tuy không nghèo về thu nhập, nhưng lại nghèo về các chiều khác. Đây là phương pháp khắc phục những bất cập và hạn chế của chính sách hiện tại. Phương pháp này giúp bảo đảm mức sống tối thiểu, đồng thời đáp ứng các DVXH cơ bản, từng bước GNBV. Trên cơ sở đó, tại Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 không những chỉ ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo mà cả hộ có mức sống trung bình để làm cơ sở để định hướng các chính sách phát triển kinh tế vùng, lĩnh vực, CSGN và an sinh xã hội. Cụ thể: * Hộ nghèo: - Khu vực nông thôn: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: + Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống; + Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các DV xã hội cơ bản trở lên. - Khu vực thành thị: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: + Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống; + Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các DV xã hội cơ bản trở lên. * Hộ cận nghèo: - Khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các DV xã hội cơ bản. - Khu vực thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các DV xã hội cơ bản. * Hộ có mức sống trung bình - Khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 10 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng. - Khu vực thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 1.300.000 đồng đến 1.950.000 đồng. Có thể nói, với việc tiếp cận nghèo đa chiều để ban hành chuẩn hộ nghèo nêu trên, Việt Nam đã dần dần tiếp cận với thế giới trong việc xác định hộ nghèo, làm cơ sở tiền đề để ban hành và thực hiện chính sách GNBV. Việc tìm hiểu kỹ khái niệm nghèo là cơ sở và bao giờ cũng đặt trong mối liên hệ tương quan với khái niệm giảm nghèo. Giảm nghèo, xét theo nghĩa đơn thuần số học, giảm có nghĩa là bớt đi, làm ít lại một hoặc một số đối tượng thực thể nào đó. Theo nghĩa này, giảm nghèo là giảm bớt số người nghèo, hộ nghèo trên địa bàn; giảm số xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn, giảm số huyện nghèo trong địa bàn một tỉnh, một vùng hay quốc gia. Giảm bớt tính chất gay gắt của đói nghèo, thu hẹp khoảng cách về thu nhập giữa các nhóm dân cư, thu hẹp khoảng cách về chênh lệch mức sống giữa các vùng miền trên một địa phương, khu vực hoặc quốc gia. Giảm nghèo, hiểu theo nghĩa hẹp là các giải pháp, chính sách, hoạt động của Nhà nước, xã hội hoặc của chính bản thân người nghèo, hộ nghèo, cộng đồng nghèo nhằm mục tiêu tạo điều kiện cho các hộ nghèo tăng thu nhập, giúp họ thoát khỏi tình trạng thu nhập không đáp ứng được các nhu cầu tối thiểu dựa trên cơ sở chuẩn nghèo được quy định của từng địa phương, khu vực hoặc quốc gia. Hiểu theo nghĩa rộng, xét trên phương pháp tiếp cận nghèo đa chiều, giảm nghèo là tập hợp các giải pháp, chính sách, hoạt động của Nhà nước, xã hội và của chính bản thân người nghèo, hộ nghèo, cộng đồng nghèo nhằm mục tiêu tạo điều kiện cho hộ nghèo vượt lên khỏi tình trạng nghèo khổ, đáp ứng được các nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, hạn chế các nguy cơ dễ bị tổn thương, rủi ro và tăng cường vị trí, tiếng nói của người nghèo đối với các quyết định của cộng đồng xã hội. 1.1.1.2. Giảm nghèo bền vững: Khái niệm và đặc điểm Lâu nay, nói đến giảm nghèo không bền vững là muốn nói đến tình trạng tái nghèo. Tuy nhiên, nếu chỉ xét đơn thuần ở khía cạnh tái nghèo thì chưa phản ánh 11 đầy đủ sự không bền vững của quá trình giảm nghèo. Xét theo góc độ kinh tế, theo từ điển Bách khoa, phát triển bền vững là sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn đảm bảo sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Sự không bền vững của giảm nghèo có thể được biểu hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau gồm: (i). Tình trạng tái nghèo (đối với hộ đã thoát chuẩn nghèo) hoặc rơi xuống nghèo (đối với hộ cận nghèo); (ii). Tình trạng vẫn còn dễ bị tổn thương và dễ gặp rủi ro; (iii). Tình trạng chưa có sự chuyển biến rõ nét về năng lực và nhận thức; (iv). Tình trạng chưa hoàn toàn hội nhập và tiếp cận với thị trường, nhất là thị trường lao động và thị trường hàng hóa. Như vậy, có thể cho rằng GNBV là khái niệm chỉ tập hợp các giải pháp, chính sách, hoạt động của Nhà nước, xã hội và chính bản thân người nghèo, hộ nghèo, cộng đồng nghèo nhằm tạo điều kiện cho hộ nghèo thoát ra khỏi nghèo khổ trong hiện tại và đảm bảo cho họ vẫn tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Đồng thời, GNBV còn là các giải pháp, chính sách, hoạt động nhằm ngăn ngừa tình trạng phát sinh nghèo mới trong cộng đồng, hay nói cách khác là tạo điều kiện cho các cộng đồng nghèo phát triển bền vững. Từ khái niệm trên, ta thấy GNBV có một số đặc điểm chính sau đây: - Các giải pháp, chính sách, các hoạt động của Nhà nước, xã hội và của chính bản thân người nghèo, hộ nghèo, cộng đồng nghèo để GNBV phải đặt trong chương trình, định hướng và trong sự tương quan với phát triển KT-XH của một địa phương, vùng và quốc gia, được chính quyền Nhà nước các cấp xác định đó là một nhiệm vụ trọng tâm của phát triển KT-XH. - Các giải pháp, chính sách, các hoạt động của Nhà nước, xã hội và của chính bản thân người nghèo, hộ nghèo, cộng đồng nghèo giúp cho người nghèo có sinh kế mang lại thu nhập ổn định không những vượt mức chuẩn nghèo mà còn ở mức sống trung bình trở lên từ thực lực của chính bản thân người nghèo, hộ nghèo. - Các giải pháp, chính sách, các hoạt động của Nhà nước, xã hội định hướng và tạo điều kiện cho người nghèo, cộng đồng nghèo nâng cao năng lực, nhận thức, tự lực vươn lên không trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, cộng đồng. 12 - Các giải pháp, chính sách, các hoạt động của Nhà nước, xã hội và của chính bản thân người nghèo, hộ nghèo, cộng đồng nghèo giúp cho điều kiện sống của người nghèo được cải thiện rõ rệt, trước hết là về y tế, giáo dục, văn hóa, nước sinh hoạt, nhà ở, thông tin; người nghèo tiếp cận thuận lợi và đầy đủ các DV xã hội cơ bản. - Các giải pháp, chính sách, các hoạt động của Nhà nước, xã hội và của chính bản thân người nghèo, hộ nghèo, cộng đồng nghèo để GNBV còn đặc biệt chú trọng tình trạng phát sinh nghèo mới trong cộng đồng, hay nói cách khác là tạo điều kiện cho các cộng đồng nghèo phát triển bền vững. 1.1.2. Công tác xã hội đối với người nghèo - Công tác xã hội: CTXH là hoạt động để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng tăng cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo những điều kiện thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu nào đó. CTXH thúc đẩy sự thay đổi xã hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ con người, tăng năng lực cá nhân, cộng đồng và xã hội, trên cơ sở vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, CTXH tương tác vào những điểm giữa con người với môi trường của họ. CTXH như là một tiến trình giải quyết vấn đề, đáp ứng các nhu cầu, kết nối nguồn lực xã hội và thúc đẩy khả năng tự quyết của thân chủ, nâng cao chất lượng cuộc sống của thân chủ, hướng tới một xã hội lành mạnh, công bằng, hạnh phúc cho người dân và xây dựng hệ thống an sinh xã hội tiên tiến. - Công tác xã hội đối với người nghèo là tiến trình tác động tới người nghèo bằng phương pháp CTXH nhằm giúp cho người nghèo khai thác tiềm năng, thế mạnh, khắc phục hạn chế mà trước hết là nâng cao năng lực của bản thân người nghèo để cải thiện sinh kế, tăng thu nhập kết nối nguồn lực. Tạo điều kiện cải thiện chất lượng cuộc sống cho người nghèo thông qua các CSXH, tiếp cận thông tin, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm kết nối người nghèo với cộng đồng và xã hội. Tiếp cận, can thiệp bằng phương pháp CTXH cá nhân, nhóm, cộng đồng thực hiện chức năng phòng ngừa, chữa trị, phục hồi, phát triển. Thông qua CTXH đối với người nghèo thúc đẩy không chỉ cho người nghèo mà qua đó sẽ giải quyết hài hòa mối quan hệ xã hội, xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội văn minh. Mục 13 tiêu cuối cùng của CTXH với người nghèo là giúp thành viên học cách thực hiện chức năng của mình để đáp ứng các nhu cầu về phát triển cả về mặt tâm lý, tình cảm và xã hội cho tất cả các thành viên trong gia đình (Colins, Jordan và Coleman, 2007). Các mục tiêu cụ thể: (i) Tăng cường sức mạnh của cá nhân và gia đình để mọi người sẵn sàng cho những thay đổi tốt hơn; (ii) Cung cấp thêm những dịch vụ can thiệp cá nhân và gia đình để duy trì thực hiện chức năng một cách hiệu quả; (iii) Tạo ra những thay đổi cụ thể trong việc thực hiện chức năng của gia đình nhằm duy trì hoạt động để đảm bảo tốt cuộc sống hàng ngày của mọi thành viên trong gia đình. 1.1.3. Chính sách, chính sách xã hội và chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững 1.1.3.1. Chính sách Chính sách là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống KT-XH. Tuy nhiên, qua tìm hiểu các tài liệu, các nghiên cứu cho thấy khái niệm chính sách được thể hiện khác nhau như: Chính sách là những sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra; hoặc chính sách là các chủ trương và các biện pháp của một đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội. Có rất nhiều loại chính sách, trong đó có loại chính sách chung như: Chính sách đối ngoại của Nhà nước, chính sách kinh tế… Trong các loại chính sách chung lại có các chính sách đối với từng lĩnh vực. Tóm lại, có nhiều loại chính sách khác nhau, có chính sách chung, chính sách cụ thể tuỳ thuộc vào nội dung và lĩnh vực KT-XH. Chính sách được thực thi khi được thể chế hoá bằng pháp luật. Nói một cách khác, pháp luật là kết quả thể chế hoá đường lối, chính sách, là công cụ để thực thi chính sách. Trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài này, Chính sách của Nhà nước được hiểu là tập hợp văn bản mà Chính phủ xây dựng, ban hành với mục đích rõ ràng, tác động đến nhóm người hoặc toàn bộ người dân trong xã hội. Ở nghĩa rộng hơn, chính sách là tổng thể các quan điểm, giải pháp và công cụ mà chủ thể quản lý (Nhà 14 nước) sử dụng để tác động lên các đối tượng và khách thể quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định trong một giai đoạn, thời kỳ lịch sử cụ thể. 1.1.3.2. Chính sách xã hội Xét về nội hàm, CSXH thường hướng vào phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ. Các CSXH thể hiện tính trách nhiệm, mang hàm nghĩa văn hóa – văn minh, phản ánh tính chất tiến bộ, đảm bảo công bằng của xã hội. CSXH lấy con người làm trung tâm, làm đối tượng tác động trực tiếp và do vậy, tất cả nội dung, mục tiêu của chính sách đều hướng tới con người. CSXH mang tính nhân văn, nhân bản sâu sắc, nó thể hiện truyền thống nhân đạo tốt đẹp của một dân tộc. Xét theo chức năng, (i). CSXH định hướng cho sự vận động của xã hội. Nó xuất phát từ thực tiễn các vấn đề xã hội của đất nước. Đồng thời CSXH cũng là công cụ quản lý xã hội, thể hiện ý chí của Đảng, Nhà nước. Chính vì vậy nó là một phương tiện quan trọng định hướng mọi hoạt động và hành vi của các chủ thể tham gia hoạt động trong lĩnh vực xã hội theo những mục tiêu, phương hướng đã định trước của Nhà nước. (ii). CSXH điều chỉnh các vấn đề xã hội, chức năng này thể hiện ở chỗ, để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường, Nhà nước sử dụng công cụ chính sách để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, tác động vào quá trình phân phối thu nhập, tạo cơ hội phát triển cho các đối tượng yếu thế, bị ảnh hưởng. (iii). CSXH là loại chính sách liên quan đến con người và bao trùm mọi mặt cuộc sống của con người. Vì vậy, đặc trưng bao trùm nhất của CSXH là lấy con người, các nhóm người trong cộng đồng làm đối tượng tác động để hoàn thiện và phát triển toàn diện con người; lấy con người làm trung tâm, coi trọng yếu tố con người. (iv). CSXH còn có chức năng thúc đẩy sự phát triển. Từ cách tiếp cận trên, khái niệm CSXH có thể hiểu là sự thể chế hóa, cụ thể hóa các giải pháp của Nhà nước trong việc giải quyết vấn đề xã hội liên quan đến từng nhóm người hay toàn bộ dân cư, trên cơ sở phù hợp với quan điểm, đường lối của Đảng, nhằm hướng tới công bằng, tiến bộ xã hội và phát triển toàn diện con người. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan