Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển từ thực tiễn huyện đảo lý sơn, tỉnh...

Tài liệu Thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển từ thực tiễn huyện đảo lý sơn, tỉnh quảng ngãi

.PDF
89
596
70

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ HƢƠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐẢO LÝ SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI Chuyên ngành : Chính sách công Mã số : 60.34.04.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI, năm 2017 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CTr/HU : Chương trình Huyện ủy HTX : Hợp tác xã KTXH : Kinh tế xã hội NĐ/CP : Nghị định Chính phủ NQ/TW : Nghị quyết Trung ương QĐ/CP : Quyết định Chính phủ QĐ/UBND : Quyết định Ủy ban nhân dân QPAN : Quốc phòng an ninh UBND : Ủy ban nhân dân MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN ...................................................................6 1.1. Khái quát về chính sách phát triển kinh tế biển ...................................................6 1.2. Khái niệm, vai trò của thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển ....................7 1.3. Nội dung thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển.......................................14 1.4. Qui trình (các bước) thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển .....................17 1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển Việt Nam ...................................................................................................................23 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN TẠI HUYỆN ĐẢO LÝ SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI ..............34 2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển tại huyện đảo Lý Sơn, tính Quảng Ngãi .........................................................................34 2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển tại huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi....................................................................................39 2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển huyện Đảo Lý Sơn .......................................................................................................................54 CHƢƠNG 3. TĂNG CƢỜNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ..........................................................68 3.1. Mục tiêu, quan điểm tăng cường thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển ở nước ta ....................................................................................................................68 3.2. Phương hướng, giải pháp tăng cường thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển ở nước ta nói chung và huyện Lý Sơn nói riêng ...............................................69 KẾT LUẬN ..............................................................................................................79 DANH MỤC T I LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng bảng Trang 2.1. GTSX ngành ngư nghiệp và GTSX toàn ngành 55 2.2. GTSX dịch vụ -Du lịch và GTSX toàn ngành 56 2.3. GTSX nông nghiệp và GTSX toàn ngành 57 2.4. Giá trị sản xuất ngành CN-XD và giá trị sản xuất toàn ngành 58 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một quốc gia ven biển có bờ biển dài 3.260 km với diện tích 1 triệu Km2 rộng gấp ba lần lãnh thổ trên đất liền, vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của nước ta chứa đựng nhiều tài nguyên và tiềm năng phong phú để phát triển kinh tế - xã hội. Xuất phát từ lợi ích của biển mà các nước trong khu vực tiếp giáp Biển Đông với nước ta luôn có xu hướng cạnh tranh, tạo ra những mâu thuẫn bất đồng trong việc tranh giành quyền chủ quyền quốc gia trên biển. Nhận thức được vị trí, vai trò, tiềm năng của biển trong phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh nên từ năm 1993 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 03NQ/TW ngày 06/5/1993 Về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt, trong đó khẳng định rằng phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia; xây dựng quốc gia Việt Nam mạnh về biển và phát triển kinh tế biển thành một bộ phận mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân là một mục tiêu chiến lược, đồng thời là nhiệm vụ bức bách đang đặt ra cho dân tộc ta trước thách thức lớn trên Biển Đông. Ngày 09 tháng 02 năm 2007 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, trong đó xác định phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh. Nhằm cụ thể hóa quan điểm của Đảng về chiến lược biển, Tỉnh ủy Quảng Ngãi đã ban hành Chương trình hành động số 15CTr/TU ngày 29/6/2007, trong đó xác định mục tiêu tổng quát là “Phấn đấu đến năm 2020, đưa tỉnh ta trở thành một trong các tỉnh mạnh về biển, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển và đảo”. Phát huy tiềm năng lợi thế sẵn có, trên cơ sở chương trình hành động số 15 – CTr/ TU của tỉnh ủy Quảng Ngãi, huyện Lý Sơn đã xây dựng và triển khai kế hoạch để thực hiện chương trình hành động. Với mục tiêu kinh tế biển là ngành kinh tế mũi nhọn của địa phương trong thời gian đến. Huyện đảo Lý Sơn có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh, là 1 đảo tiền tiêu trong khu vực phòng thủ của tỉnh Quảng Ngãi. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà đặc biệt là từ khi có các Nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế biển và Chiến lược biển Việt Nam, kinh tế của huyện không ngừng phát triển theo hướng chuyển dịch từ nông nghiệp sang ngư nghiệp, sản lượng đánh bắt thủy sản ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP của huyện và chiếm gần 1/3 tổng sản lượng khai thác thủy sản của tỉnh Quảng Ngãi. Với những kết quả đạt được từ lĩnh vực thủy sản đã và đang góp phần quan trọng trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân huyện đảo Lý Sơn. Trên cơ sở đó, huyện Lý Sơn đã thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển và coi đây là chủ trương lớn thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương. Hiện nay, ngành kinh tế biển của Lý Sơn đã không ngững phát triển, trong đó lĩnh vực thủy sản của huyện có bước phát triển đáng kể, số lượng và công suất tàu thuyền tăng lên hàng năm, ngư trường đánh bắt được mở rộng, năng suất đánh bắt ngày càng tăng, đặc biệt là sự hiện diện của ngư dân trên các vùng biển (Hoàng Sa, Trường Sa) đã góp phần quan trọng trong công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Tuy nhiên, những kết quả đạt được chưa xứng tầm với lợi thế tiềm năng hiện có; công tác quy hoạch phát triển chưa đồng bộ, việc thực hiên các chính sách hổ trợ từ nguồn vốn nhà nước tuy có nhiều khả quan nhưng còn nhiều bất cập, đặc biệt là chủ trương hiện đại hóa đội tàu đánh bắt xa bờ theo NĐ 67 của Chính Phủ tuy được thực hiện nhưng chưa đáp ứng yêu cầu đề ra; lĩnh vực chế biến, nuôi trồng thủy sản, dịch vụ hậu cần nghề cá tuy được quan tâm đầu tư khai thác nhưng chưa phát huy hết tiềm năng sẵn có. Trước thực trạng trên, cấp ủy Đảng, chính quyền huyện đảo Lý Sơn đã ban hành nhiều đề án, dự án, kế hoạch về phát triển kinh tế trong đó xác định kinh tế biển là ngành kinh tế mũi nhọn của huyện, xong những chương trình, kế hoạch chỉ dừng lại ở tính định hướng chưa đi sâu nghiên cứu đánh giá, phân tích thực trạng và có những giải pháp mang tính khoa học để vận dụng vào thực tiễn, đồng thời đến nay vẫn chưa có đề tài khoa học nghiên cứu về kinh tế biển huyện đảo Lý Sơn. Chính vì vậy, đề tài “Thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển từ thực tiễn huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” nhằm đánh giá thực trạng và đưa ra những giải pháp có tính khoa học và khả thi để vận dụng vào quá trình quản lý, điều hành phát triển ngành kinh tế biển 2 huyện đảo Lý Sơn xứng tầm với tiềm năng hiện có. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trong những năm gần đây, có một số tác giả đã đề cập đến các khía cạnh mà đề tài nghiên cứu quan tâm. Trong số đó có: Giải pháp phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng của TS. Nguyễn Văn Cường, Phó Vụ trưởng Văn phòng Chính Phủ. Tiếp cận Chiến lược kinh tế biển của Việt Nam của PGS. TS. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam. Tác giả đánh giá Viêt Nam có hai lợi thế đó là: Tiềm năng tự nhiên và vị trị địa kinh tế và địa chiến lược và đi sâu phân tích về hiện trạng kinh tế biển và những định hình chiến lược kinh tế biển. Về Chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam trong hội nhâp quốc tế của tác giả Phạm Ngọc Anh, Đại học Sư phạm Hà Nội. Nhóm giải pháp phát triển kinh tế biển của TS. Hồ Văn Hoành, Phó Chủ tịch Hội khoa học phát triển nguồn nhân lực, nhân tài Việt Nam. Tổng cục Biển và Hải đảo với nhiệm vụ phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc của Nguyễn Đăng Đạo, Phó Tổng cục trưởng, Chỉ huy trưởng Ban CHQS Tổng cục. Bài viết của TS. Tạ Quang Ngọc - Nguyên Bộ trưởng Bộ thủy sản Việt Nam “ Để Việt nam sớm trở thành mốt quốc gia mạnh về biển và giàu lên từ biển” trong Tạp chí Cộng sản số 777, tháng 7/2007. Và còn nhiêu công trình nghiên cứu khác liên quan đến kinh tế biển, song trong pham vi nghiên cứu tác giả đã tiếp cận và tham khảo các công trình nghiên cứu nhưng chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu vấn đề thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển từ thực tiễn Huyện đảo Lý Sơn. Xuất phát từ lý do trên tôi chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ của mình, đề tài luân văn thực hiện có sự kế thừa, phát triển những kết quả thực hiện trước đó để đánh giá, phân tích, từ đó đề xuất ra các giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của địa phương trong những năm tới. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng về thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển và những yếu tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển kinh tế biển tù thực tiễn huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển ở nước ta hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển; Đánh giá, phân tích thực trạng thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển tại huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian qua; Đề xuất các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển trong thời gian đến. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển từ thực tiễn huyện Lý Sơn Quảng Ngãi dưới góc độ khoa học chính sách công. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi về không gian: Tập trung chủ yếu về thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển từ thực tiễn huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi Phạm vi về thời gian: Từ năm 2005 đến 2015 và giải pháp đến năm 2020. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã hội học và vận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công. Đó là cách tiếp cận quy phạm chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện, đánh giá chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách.Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác phát triển kinh tế biển. 4 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan, bao gồm các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị, Nghị định, Quyết định của Đảng, Nhà nước, các văn bản quy phạm pháp luật ở trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách phát triển kinh tế biển ở nước ta nói chung và thực tế ở Lý Sơn nói riêng. Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, chuyên gia, phương pháp dự báo các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, phương pháp phân tích chiến lược phát triển. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận Đề tài nghiên cứu thành công sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận và đóng góp vào sự hoàn thiện lý luận về thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Đề tài nghiên cứu thành công sẽ là cơ sở khoa học để áp dụng vào quá trình hoạch định chính sách và đề ra biện pháp phát triển kinh tế biển tại huyện Đảo Lý Sơn; đồng thời là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm đến vấn đề thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển Chương 2: Thực trạng thực hiện kinh tế biển tại huyện đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi Chương 3: Tăng cường thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển ở nước ta hiện nay 5 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN 1.1. Khái quát về chính sách phát triển kinh tế biển Thấy rõ tầm quan trọng của kinh tế biển đối với phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề cập đến vai trò của kinh tế biển và khẳng định mục tiêu khai thác tổng hợp kinh tế biển, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ sản, nhất là các loại có khả năng xuất khẩu, gắn liền với chiến lược khai thác và bảo vệ vùng biển của đất nước. Thực hiện chủ trương này ngày 06/5/1993 Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 03-NQ/TW về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt, trong đó khẳng định rằng phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia; Trên cơ sở nhận định mang tính khoa học trên, ngày 22/9/1997, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ những quan điểm cơ bản của chỉ thị này, cùng với việc tiếp tục nhấn mạnh chủ trương lớn xây dựng Việt Nam trở thành một nước mạnh về biển, phát triển kinh tế - xã hội vùng biển, hải đảo, ven biển phải gắn kết với yêu cầu bảo vệ đất nước. Để kinh tế biển phát triển một cách đồng bộ chúng ta cần đặt kinh tế biển trong tổng thể kinh tế cả nước, trong quan hệ tương tác với các vùng và trong xu thế hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Vì vậy, lợi ích kinh tế biển không chỉ xuất phát từ một địa phương, một ngành mà cần được liên kết một cách khoa học sự phát triển của các ngành trên toàn vùng, trên từng địa bàn cụ thể thành một chương trình phát triển thống nhất. Đặc biệt, phát triển kinh tế biển phải chú trọng ngay từ đầu sự tiến bộ xã hội của vùng biển. Ngày 9/2/2007, BCH Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết 09 – NQ/TW về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Đây là chủ trương tổng thể mang tính toàn diện để phát triển kinh tế biển Việt Nam trong thời gian tới. Do đó, để thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, trước hết cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh, hợp tác 6 quốc tế và bảo vệ môi trường.; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mở rộng không gian kinh tế biển và nhất thể hóa trên phạm vi vùng biển, ven biển và hải đảo gắn kết chặt chẽ với các vùng quy hoạch lâu nay trong đất liền. Sự phát triển các ngành kinh tế biển được gắn kết hữu cơ với nhau trên cơ sở phát huy cao nhất lợi thế của mỗi ngành. Qua gần 10 năm thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 9-2-2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, chúng ta có thể nhận thấy ngành kinh tế biển đã có những bước phát triển đáng kể góp phần quan trọng trong chiến lược phát triển của đất nước. Hiện nay, các ngành kinh tế biển và liên quan đến biển đóng góp khoảng 47 - 48% GDP cả nước. Trong đó, các ngành kinh tế biển như khai thác dầu khí, hải sản, vận tải biển và dịch vụ cảng biển, du lịch biển… đóng góp khoảng 20-22% GDP cả nước. Với tốc độ phát triển như hiện nay, dự báo đến năm 2020 kinh tế biển đóng góp khoảng 53 – 55% GDP, 55 – 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển. Để đảm bảo tính đồng bộ và bền vững trong phát triển kinh tế biển, Chính phủ đã ban hành và phê duyệt nhiều nghị quyết và quyết định như: Một số giải pháp cấp bách trong quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường biển; Đề án đẩy mạnh công tác tuyên truyền và quản lý bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo; Quy hoạch phát triển kinh tế đảo Việt Nam đến năm 2020; … và gần đây, ngày 06/9/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1570/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Nghị định 67/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 7/7/2014 về một số chính sách phát triển thủy sản và NĐ 89/NĐ-CP một số nội dung sửa đổi bổ sung NĐ 67/NĐ-CP và cơ chế, chính sách liên quan đến phát triển kinh tế biển. 1.2. Khái niệm, vai trò của thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển 1.2.1. Khái niệm về chính sách và chính sách công Khái niệm chính sách: Theo từ điển Tiếng Việt, Chính sách là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi 7 trong đời sống xã hội; chính sách là sách lược, kế hoạch cụ thể nhằm đạt được một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra chính sách. Theo tác giả Vũ Cao Đàm thì “chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội”. Khái niệm chính sách công: Chính sách công là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế - xã hội. Hiện nay có nhiều các khái niệm về chính sách công trên thế giới vì các hình thái nhà nước, hệ thống chính trị khác nhau. Ở nước ta, tồn tại cụm từ “chính sách của Đảng và Nhà nước” vì Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua việc vạch ra các cương lĩnh, chiến lược, các định hướng chính sách. Đây là các căn cứ chỉ đạo để nhà nước ban hành chính sách công. Như vậy, chính sách công là một trong những công cụ cơ bản được Nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước. Do đó, có thể định nghĩa chính sách công như sau: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu xác định của đảng chính trị cầm quyền” 1.2.2. Khái niệm kinh tế biển Kinh tế biển hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và các hoạt động kinh tế diễn ra trên đất liền nhưng trực tiếp liên quan đến khai thác biển. Cụ thể là: - Các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển, chủ yếu bao gồm: Kinh tế hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển); Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng hải sản); Khai thác dầu khí ngoài khơi; Du lịch biển; Làm muối; Dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; và Kinh tế đảo. - Các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển, tuy không phải diễn ra trên biển nhưng những hoạt động kinh tế này là nhờ vào yếu tố biển hoặc trực tiếp phục vụ các hoạt động kinh tế biển ở dải đất liền ven biển, bao gồm: Đóng và sửa 8 chữa tàu biển ( hoạt động này cũng được xếp chung vào lĩnh vực kinh tế hàng hải); Công nghiệp chế biến dầu, khí; Công nghiệp chế biến thuỷ, hải sản; Cung cấp dịch vụ biển; Thông tin liên lạc biển; Nghiên cứu khoa học - công nghệ biển; Đào tạo nhân lực phục vụ phát triển kinh tế biển; Điều tra cơ bản về tài nguyên - môi trường biển. Từ khái niệm trên cho chúng ta thấy rằng, kinh tế biển có những đặc trưng sau đây: - Kinh tế biển là một ngành kinh tế tổng hợp, là một bộ phận mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân. - Kinh tế biển luôn gắn liền với nguồn tài nguyên thiên nhiên trên biển như các hoạt động đánh bắt, khai thác thủy sản, khai thác dầu khí, du lịch, vận tải, … - Kinh tế biển phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, Việt Nam là quốc gia nhiệt đới nằm ở cực Đông Nam bán đảo Đông Dương nên trung bình hàng năm có khoảng 5 - 6 cơn bão và 2 - 3 ấp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến Việt Nam. Điều này đã tác động rất lớn đến hoạt động kinh tế biển. - Kinh tế biển là ngành kinh tế chủ yếu khai thác các nguồn tài nguyên từ biển nên có sự tác động đến môi trường sinh thái biển, như các hoạt động đánh bắt thủy sản, khai thác dầu khí… - Kinh tế biển luôn gắn kết với yếu tố bảo vệ chủ quyền vùng biển của Tổ quốc; các hoạt động đánh bắt thủy sản, thăm đò khai thác tài nguyên trên biển cũng đồng nghĩa với sự khẳng định chủ quyền quốc gia trên biển. Từ những nội dung trên cho thấy tầm quan trọng của kinh tế biển đối với phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Để thể hiện điều này, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chính sách phù hợp để thúc đẩy phát triển kinh tế biển trước mắt và trong tương lai. 1.2.3. Khái niệm về thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển Từ khái niệm chung về chính sách công có thể định nghĩa thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển như sau: Thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước với mục tiêu, giải pháp, công cụ cụ thể nhằm thực hiện chinh sách phát triển kinh tế biển phù hợp với thực tiến đáp 9 ứng yêu cầu xây dựng, phát triển kinh tế biển hiện nay. 1.2.4. Vai trò của việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển Phát triển kinh tế biển đồng bộ và bền vững góp phần thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế: Thời gian qua, việc triển khai thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển đã góp phần đẩy mạnh quan hệ và hội nhập quốc tế của nước ta, đến nay nước ta có mối quan hệ ngoại giao với 167 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó thiết lập quan hệ kinh tế thương mại với trên 100 đối tác. Việt Nam cũng là thành viên tích cực của các tổ chức như: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức thương mại thế giới (WTO), …Các sản phẩm thủy sản của Việt Nam đã có mặt trên nhiều thị trường lớn như: Trung Quốc, Nga, Mỹ, Nhật, EU, …Năm 2000 Việt Nam ký Hiệp định hợp tác nghề cá với Trung Quốc nhằm đảm bảo sự ổn định và khai thác nghề cá trên Vịnh Bắc Bộ và những cam kết với các Quốc gia có chung biển đông. Tuy nhiên, theo đánh giá ban đầu việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế biển chưa được quán triệt sâu rộng trong hệ thống chính trị, cộng đồng các doanh nghiệp và mọi tầng lớp nhân dân. Việc phát triển kinh tế biển trong thời gian qua chưa quan tâm đầy đủ đến vốn đầu tư, đào tạo nhân lực, . . .chưa lồng ghép các chương trình phòng ngừa, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền an ninh biển đảo. Nhiều địa phương, các ngành, các cấp, các doanh nghiệp, cư dân ven biển còn thờ ơ với tác động của biến đổi khí hậu đến sự phát triển kinh tế biển bền vững, chưa nhận thức đầy đủ về ngành kinh tế biển là ngành đầu tiên chịu sự thiệt hại nặng nề do biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Để phát triển kinh tế biển bền vững chúng ta cần phải tập trung nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về chiến lược phát triển kinh tế biển gắn với phòng ngừa, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển đảo, xem đây là ba mặt của một vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau. Xây dựng đề án tái cơ cấu ngành kinh tế biển, các cơ chế, chính sách nhằm phát huy quyền chủ động của các ngành, các cấp, các địa phương và vùng lãnh thổ, có sự quản lý tập trung của trung ương, tạo nên bước đột phá về tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại, theo chiều rộng 10 và chiều sâu. Bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch phát triển ngành theo nội dung mới gắn phát triển kinh tế biển với phòng ngừa thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển đảo trên tất cả các lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng tuyến đảo, hệ thống cảng biển, đô thị ven biển, các ngành dầu khí, đóng tàu, giao thông, du lịch, khai thác nuôi trồng thủy hải sản, …đồng thời thúc đẩy liên kết hợp tác giữa các ngành, các địa phương và vùng lãnh thổ, hiện đại hóa các doanh nghiệp, các hợp tác xã, xây dựng các thương hiệu biển quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài và đầu tư tư nhân vào phát triển kinh tế biển, ...Xây dựng chiến lược thích ứng cho sinh kế ven biển, bảo vệ môi trường sinh thái, xác định và tiếp cận cho từng lĩnh vực, như vận tải biển, đánh bắt cá, nuôi trồng thủy sản, trồng trọt, chăn nuôi, …có sự tham gia của đại diện các cơ quan ở địa phương, các chuyên gia kỹ thuật, các tổ chức quần chúng, các hộ gia đình, lập bản đồ về các mối hiểm nguy, kế hoạch lưu giữ nước ngọt, áp dụng cách tiếp cận vùng để quản lý tài nguyên thiên nhiên ven biển dựa trên cộng đồng. Huy động cộng đồng tham gia vào việc kiên cố hóa đê điều, khôi phục và phát triển rừng phòng hộ ven biển tạo hành lang bảo vệ đê biển, ngăn ngừa nước biển dâng và nước mặn lấn sâu vào đồng ruộng. Tổ chức các tổ đoàn kết, hợp tác xã vận tải trên biển, đánh bắt cá, nuôi trồng thủy hải sản, … để có điều kiện hỗ trợ nhau trong sản xuất ứng phó với bão tố, sóng thần, ...Tăng cường đầu tư xây dựng mới và củng cố hệ thống đê biển vững chắc, kiện toàn hệ thống thông tin truyền thông, hệ thống cảnh báo sớm sóng thần và dự báo thời tiết, phát triển hệ thống rừng và rừng ngập mặn, trước mắt triển khai sớm hệ thống đê biển ở vùng thấp và vùng ngập nước. Ưu tiên giải quyết di dời cơ sở hạ tầng, dân cư ở những vùng có nguy cơ ngập nước, bổ sung lực lượng lao động có chất lượng cho huyện đảo và quần đảo. Đổi mới cơ cấu nghề nghiệp, phát triển các nghề mới thích ứng với các vùng mặn hóa, hạn hán, ngập nước; áp dụng công nghệ mới hiện đại vào các lĩnh vực khai thác khoáng sản, dầu khí, đóng tàu và khai thác chế biến các sản phẩm của biển, …Tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trong các hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo và chuyển giao công nghệ, thu hút các nguồn vốn ODA, nguồn vốn đầu tư trực tiếp của các nước, ...Tổ chức đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nghiên cứu quản lý các ngành kinh tế biển và cộng đồng cư dân ven biển không những có trình độ chuyên môn mà còn có kỹ năng ứng phó với biến 11 đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển đảo. Với sự phát triển đồng bộ và bền vững, ngành kinh tế biển sẽ giữ vai trò chủ yếu không chỉ để đảm bảo cho nhu cầu đời sống của nhân dân, mà còn góp phần thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Phát triển kinh tế biển góp phần giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho vùng nông thôn ven biển: Việt Nam có 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là vùng ven biển và 12 huyện đảo. Các huyện đảo đồng thời là địa bàn chính trong xây dựng khu vực phòng thủ và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế biển Việt Nam. Hiện nay, nước ta có khoảng trên 20 triệu người dân ven biển và trên các hải đảo có sinh kế trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào nguồn lợi từ biển. Trong những năm qua, mà đặc biệt là từ khi thực hiện Chiến lược biển Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng cho các địa bàn ven biển và hải đảo. Một số đảo lớn như: Côn Đảo, Phú Quốc, Trường Sa, Phú Quý, Lý Sơn, Cồn Cỏ, Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Vân Đồn, …đã được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông, mạng lưới điện, thông tin liên lạc, cung cấp nước ngọt, trường học, bệnh xá, bố trí lại dân cư, tham gia vào phát triển kinh tế, nông nghiệp, du lịch, công nghiệp dầu khí có bước phát triển nhanh; bảo vệ môi trường biển đảo bước đầu được chú trọng, đã có 16 khu bảo tồn biển và các vườn quốc gia ven biển và hải đảo, …được công nhận và thiết lập; đồng thời đảm bảo tốt công tác quốc phòng, an ninh; hình thành hệ thống các khu công nghiệp, các cảng biển, cảng cá, khu du lịch từ Quảng Ninh cho đến Cà Mau, … Tính đến nay cả nước đã có 9 cảng biển và 15 khu kinh tế ven biển được thành lập với tổng diện tích mặt đất và mặt nước lên đến gần 700.000 ha, thu hút khoảng trên 700 dự án do nước ngoài và trong nước đầu tư, với tổng số vốn gần 40 tỷ USD và gần 350.000 tỷ đồng. Nhiều thị trấn, thị tứ, khu nghỉ dưỡng đã hình thành dọc theo chiều dài ven biển của đất nước. Bên cạnh đó, Nhà nước đầu tư hàng ngàn tỷ đồng để hiện đại hóa đội tàu đánh bắt xa bờ từng bước chuyển đổi ngư trường đánh bắt hải sản ven bờ sang ngư trường khơi xa với phương tiện kỹ thuật hiện đại để phát triển kinh tế thủy sản mà trước mắt là tăng thu nhập cho ngư dân. 12 Theo số liệu thống kê cho thấy, nếu năm 2005 mức thu nhập bình quân đầu người của khu vực ven biển là 310 USD thì đến năm 2015 mức thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên 2.300 USD, phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53% – 55% tổng GDP của cả nước. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống nhân dân vùng biển và ven biển. Phấn đấu thu nhập bình quân đầu người cao gấp hai lần so với thu nhập bình quân chung của cả nước, … Bên cạnh việc hiện đại hóa đội tàu đánh bắt xa bờ thì đầu tư phát triển các cơ sở chế biến thủy sản, các dịch vụ hậu cần tại chỗ là điều kiện làm tăng giá trị sản xuất và đồng thời giải quyết công ăn, việc làm cho nông, ngư dân ven biển, góp phần tăng thu nhập nhằm ổn định cuộc sống cho người dân. Phát triển kinh tế biển góp phần vào công tác bảo vệ chủ quyền vùng biển của tổ quốc: Phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền vùng biển là một yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Một nền kinh tế phát triển toàn diện là điều kiện xây dựng một nền quốc phòng mạnh, còn một nền quốc phòng mạnh sẽ tạo môi trường phát triển và bảo vệ tốt thành quả kinh tế. Kết hợp kinh tế biển với bảo vệ chủ quyền là hoạt động chủ động của một quốc gia trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật của hai lĩnh vực kinh tế và quân sự, nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước trong quá trình phát triển kinh tế, đồng thời ngăn chặn, hạn chế các tác động tiêu cực của chiến tranh, của phát triển quốc phòng đối với sự phát triển kinh tế. Ở nước ta, kết hợp phát triển kinh tế gắn với bảo vệ chủ quyền còn là sự tiếp nối truyền thống lịch sử dân tộc “dựng nước đi đôi với giữ nước”. Ðó cũng là một chiến lược xuyên suốt của Ðảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Sự kết hợp đó phải thể hiện trong xây dựng cơ cấu kinh tế biển hợp lý; có chiến lược kinh tế đối ngoại đúng đắn; xây dựng và hoàn thiện không ngừng hệ thống quan hệ sản xuất. Ngày nay, hoạt động kinh tế là trung tâm, hàng đầu nhằm huy động mọi nguồn lực từ con người đến của cải vật chất, tài nguyên thiên nhiên, để giải quyết những vấn đề bức xúc nhất về nâng cao đời sống nhân dân, tạo ra những điều kiện vật chất, kỹ thuật quan trọng để củng cố quốc phòng, đó là xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng 13 lực lượng sẵn sàng đủ sức bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững và củng cố hòa bình, an ninh, ổn định trên cả nước, thúc đẩy công cuộc xây dựng kinh tế, hiện đại hóa đất nước. Hiện nay, có 6 nước đều tuyên bố có chủ quyền trên khu vực 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei. Và đặc biệt, mới đây nhất Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt trái phép giàn khoan HD 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, đe dọa trực tiếp đến an ninh, an toàn hàng hải, làm ảnh đến hòa bình trong khu vực. Với quan điểm hoà bình hữu nghị, Việt Nam chủ trương giải quyết các tranh chấp thông qua thương lượng, đàm phán không dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực để giải quyết vấn đề tranh chấp trên Biển Đông, đến nay Việt Nam đã ký Hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ và vùng đánh cá chung với Trung Quốc, tích cực cùng các nước ASIAN xây dựng bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông COC. Trong quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về Chiến lược phát triển kinh tế biển phải gắn với bảo vệ chủ quyền quốc gia, vì thế kinh tế biển phát triển là điều kiện tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật cho khu vực ven biển, nâng cao đời sống nhân dân và góp phần củng cố cơ sở chính trị và xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; bên cạnh đó, sự hiện diện của ngư dân trên các vùng biển không chỉ là để khai thác đánh bắt hải sản mà gắn liền với đó là trách nhiệm bảo vệ chủ quyền quốc gia, là thể hiện tinh thần dân tộc nối bước đội quân hùng binh Hoàng Sa năm xưa để bảo vệ chủ quyền vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc và đó cũng chính là quan điểm xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân trong giai đoạn hiện nay. 1.3. Nội dung thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 9-2-2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 cho thấy: Kinh tế biển Việt Nam hiện đã có bước chuyển biến đáng kể. Ngoài các ngành nghề truyền thống, đã xuất hiện nhiều ngành kinh tế biển gắn với công nghệ - kỹ thuật hiện đại như khai thác dầu khí, đánh bắt xa bờ, vận tải biển, du lịch biển - đảo và tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, …Tuy nhiên, điểm mấu chốt trong chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam là hội nhập quốc tế. 14 Theo đó, mục tiêu và nội dung thực hiện chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 là phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển; làm giàu từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển gắn với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển đóng góp khoảng 53 - 55% GDP, 55 - 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển. Để xây dựng một nền khoa học kinh tế biển hiện đại, một quốc gia mạnh về biển với tầm nhìn dài hạn, Việt Nam cần phải triển khai hàng loạt các giải pháp nghiên cứu về biển, cả chiến lược, chính sách lẫn khoa học - công nghệ, bao gồm: Thứ nhất, phát triển mạnh giao thông vận tải biển để đáp ứng nhu cầu xuất, nhập khẩu hàng hoá. Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông vận tải biển. Hệ thống cảng của nước ta gồm cảng biển và cảng sông với khoảng trên 90 cảng lớn nhỏ và được phân bố tương đối đều dọc theo bờ biển từ Bắc vào Nam. Hệ thống cảng biển Việt Nam được chia thành 6 nhóm: 1) Nhóm cảng biển phía bắc; 2) Nhóm cảng biển Bắc Trung Bộ; 3) Nhóm cảng biển Trung Trung Bộ; 4) Nhóm cảng biển Nam Trung Bộ; 5) Nhóm cảng vùng Đông Nam Bộ; và 6) Nhóm cảng đồng bằng sông Cửu Long. Cùng với hệ thống cảng, kho bãi, biển Việt Nam thông với hai đại dương lớn là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Những điều kiện thuận lợi này là cơ sở quan trọng để phát triển giao thông vận tải biển. Vận chuyển hàng hoá bằng đường biển đã tăng hơn 6 lần trong giai đoạn (1995 - 2010). Thứ hai, tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo, huấn luyện thuyền viên. Việt Nam ước tính thiếu hụt khoảng 5.000 thuyền viên vào năm 2020. Để giảm thiểu sự thiếu hụt này, nhà nước cần xây dựng Trung tâm đào tạo huấn luyện thuyền viên dựa trên nguồn kinh phí tài trợ của nhà nước và của tư nhân, đồng thời hợp tác với nước ngoài để đào tạo nguồn nhân lực theo tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, cần phát triển dịch vụ hàng hải và hiện đại cơ sở vật chất kỹ thuật cho khâu quản lý điều hành nhằm bảo đảm an toàn hàng hải và dịch vụ hàng hải. Phát triển thương mại biển, đảo và vùng ven biển có trọng điểm để sớm hình thành một số trung tâm thương mại mạnh tại một số khu vực biển. Duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hải sản cao, ổn định và bền 15 vững, cải thiện cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng mặt hàng chế tạo, sản phẩm chế biến. Thứ ba, tập trung phát triển du lịch đảo và du lịch ven biển. Du lịch và giải trí biển là một lĩnh vực hoạt động kinh tế biển. Các hoạt động kinh tế biển đã đóng góp giải quyết đáng kể về thu nhập cũng như giảm thất nghiệp, xoá đói nghèo, bảo đảm an ninh quốc gia vùng biển. Du lịch biển có tiềm năng kinh doanh lớn. Vùng biển và ven biển tập trung tới ¾ khu du lịch tổng hợp và hơn ½ khu du lịch chuyên đề nhưng ngành du lịch biển vẫn chưa có những sản phẩm dịch vụ đặc sắc, có tính cạnh tranh cao so với khu vực và quốc tế, chưa có khu du lịch biển tổng hợp đạt qui mô và trình độ quốc tế. Những năm gần đây, du lịch, nghỉ dưỡng cũng như giải trí biển đã được mở rộng đáng kể. Việt Nam có nhiều trung tâm du lịch biển quan trọng, có vị trí địa lý thuận lợi, nằm trển tuyến du lịch quốc tế Đông Nam Á. Doanh thu du lịch biển tăng hơn 5 lần giai đoạn (2000 – 2010), Mục tiêu năm 2020 thu hút hoảng 8-10 triệu lượt khách quốc tế, 50 - 60 triệu lượt khách trong nước đến du lịch biển. Thứ tư, tăng cường khai thác năng lượng, khoáng sản, thuỷ sản biển. Đẩy mạnh sản xuất muối biển trên cơ sở thâm canh, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất các đồng muối hiện có. Mặc dù ngành khai thác dầu thô và khí thiên nhiên trên biển Việt Nam mới được bắt đầu từ năm 1986, nhưng hiện đang đứng ở vị trí thứ 4 ở Đông Nam Á và thứ 44 trong Cộng đồng các quốc gia khai thác dầu mỏ trên thế giới. Ngành dầu khí là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn có tiềm lực kỹ thuật, vật chất lớn và hiện đại nhất trong nhũng ngành khai thác biển, đồng thời cũng là một trong những ngành xuất khẩu thu được nhiều ngoại tệ nhất. Cần đẩy mạnh phát triển công nghiệp ven biển, trước hết là dầu mỏ, khí đốt, than, quặng kim loại, chuẩn bị điều kiện khai thác khoáng sản ở biển sâu sau năm 2010. Bên cạnh khai thác khoáng sản biển, thì thủy sản cũng đóng vai trò quan trọng vì thuỷ sản là nguồn tài nguyên tài tạo, phát triển dựa trên nền tảng của các hệ sinh thái. Kinh tế thuỷ sản bảo đảm và cải thiện kế sinh nhai cho dân cư sống ở vùng nông thôn ven biển và hải đảo. Tiếp tục phát triển nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản để đến năm 2015 đạt tổng sản lượng 4 -5 triệu tấn. Mở rộng thêm diện tích những nơi thuận lợi nhất cho nghề muối, đưa diện tích các đồng muối lên 35- 40 nghìn ha vào năm 2015. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan