Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hiện chính sách phát triển viên chức từ thực tiễn quận hai bà trưng, thành ...

Tài liệu Thực hiện chính sách phát triển viên chức từ thực tiễn quận hai bà trưng, thành phố hà nội

.PDF
73
610
110

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN ANH TUẤN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VIÊN CHỨC TỪ THỰC TIỄN QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành : Chính sách công Mã số : 60 34 04 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VĂN TẤT THU Hà Nội, 2016 LỜI CAM ĐOAN Đề tài nghiên cứu “Thực hiện chính sách phát triển viên chức từ thực tiễn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội” của luận văn này là kết quả của sự nỗ lực cố gắng, tìm tòi và sáng tạo của riêng bản thân tôi cùng với sự hướng dẫn tận tình của người hướng dẫn khoa học PGS.TS Văn Tất Thu. Tôi xin cam đoan, kết quả nghiên cứu của công trình hoàn toàn là kết quả của cuộc điều tra xã hội học mà tôi đã tiến hành nghiên cứu tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Thành phố Hà Nội. Các thông tin có nguồn gốc rõ ràng, tuân thủ đúng nguyên tắc trích dẫn tài liệu. Nghiên cứu hoàn toàn trung thực và chưa được công bố ở công trình, đề tài nào. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình./. Hai Bà Trưng, tháng 7 năm 2016 Học Viên Trần Anh Tuấn MỤC LỤC Nội dung Trang MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH 7 SÁCH PHÁT TRIỂN VIÊN CHỨC 1.1. Một số khái niệm cơ bản 7 1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với phát triển 12 viên chức 1.3. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách phát triển 18 viên chức 1.4. Nội dung các bước thực hiện chính sách phát triển viên chức 21 1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện chính sách phát triển 27 viên chức 1.6. Những yêu cầu cơ bản đối với tổ chức thực hiện chính sách phát triển 31 viên chức 1.7. Các phương pháp tổ chức thực hiện chính sách phát triển viên chức 33 1.8. Chủ thể tham gia thực hiện chính sách phát triển viên chức 35 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VIÊN CHỨC TẠI QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ 39 HÀ NỘI 2.1. Các yếu tố của quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội ảnh hưởng 39 đến tổ chức thực hiện chính sách phát triển viên chức 2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách phát triển viên chức tại 40 quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội 2.3. Thực trạng các chủ thể tham gia thực hiện chính sách phát triển 46 viên chức tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội 2.4. Kết quả thực hiện chính sách phát triển viên chức tại quận Hai Bà 47 Trưng, thành phố Hà Nội 2.5. Đánh giá chung kết quả thực hiện chính sách phát triển viên chức 50 tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VIÊN 54 CHỨC TẠI QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển 54 viên chức tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển 56 viên chức tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội KẾT LUẬN 65 TÀI LIỆU THAM KHẢO 67 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực luôn có vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát triển của một đất nước, một cơ quan, đơn vị, tổ chức. Đại hội IX (2001) của Đảng nêu rõ: “đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước thời kỳ Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa”. Đại hội XI (2011) của Đảng cũng đã xác định ba khâu đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011, thành phố 2020, một trong số đó là: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”. Đối với khu vực công nghiệp thì việc phát triển nguồn nhân lực càng trở nên thiết yếu. Trong số nhân lực trong khu vực công, đội ngũ viên chức chiếm số lượng lớn nhất. Tính đến hết năm 2014, tổng số viên chức trong cả nước là 2.312.690 người, trong đó biên chế sự nghiệp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao cho đơn vị sự nghiệp công lập là 2.073.434 người; biên chế sự nghiệp do các đơn vị sự nghiệp tự chủ quyết định là 239.256 người. Đội ngũ này chính là lực lượng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ công, phục vụ các hoạt động thiết yếu của người dân. Trong những năm qua, nhận thức được vị trí, vai trò của viên chức trong phát triển kinh tế, xã hội và phục vụ nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ này, cụ thể là Luật Viên chức Việt Nam năm 2010 và các văn bản dưới luật nhằm hướng dẫn tổ chức, thực hiện và kết quả đã có những chuyển biến tích cực. Số lượng viên chức cơ bản đáp ứng nhu cầu, năng lực chuyên môn dần được cải thiện, phù hợp với vị trí việc làm. Tuy nhiên, chất lượng hoạt động vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Năng lực chuyên môn của một bộ phận viên chức chưa đáp ứng yêu cầu công việc, đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp chưa cao, việc đổi mới phong cách làm việc còn chậm. Do đó, những 1 kết quả đạt được chưa tương xứng với vị trí, vai trò của viên chức trong đời sống xã hội. Thành phố Hà Nội, với vị trí vai trò là trung tâm chính trị, văn hóa của cả nước, đã có nhiều chính sách khác nhau nhằm xây dựng đội ngũ viên chức có kiến thức chuyên môn sâu, kỹ năng làm việc thành thạo, hiệu quả, gắn với từng vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp của viên chức. Nghiên cứu, ban hành nhiều cơ chế chính sách ph hợp, đảm bảo tuyển dụng viên chức trên cơ sở tự do cạnh tranh; có cơ chế phát huy động lực làm việc, tạo môi trường làm việc, khuyến khích sự sáng tạo, cống hiến của đội ngũ viên chức. Quận Hai Bà Trưng là một quận nội thành của thành phố Hà Nội, quận có địa bàn rộng. Căn cứ các văn bản Hướng dẫn của Chính phủ, Bộ Nội vụ, UBND thành phố Hà Nội và sự lãnh đạo, chỉ đạo, quan tâm sát sao của cấp ủy, chính quyền địa phương, nên việc triển khai, thực hiện chính sách phát triển viên chức đã được tiến hành đúng quy định, chất lượng đội ngũ viên chức đã có những chuyển biến tích cực, tuy nhiên, hiệu quả chưa thực sự nổi bật và còn tồn tại những hạn chế nhất định. Do vậy, để việc thực hiện chính sách phát triển viên chức thực sự mang lại hiệu quả, có tác động tích cực nhằm nâng cao hiệu quả công việc phục vụ lợi ích của người dân, thì việc tìm hiểu thực trạng thực hiện chính sách phát triển viên chức và đưa ra những định hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách ấy là một đòi hỏi khách quan, cần có sự đi sâu nghiên cứu bài bản và nghiêm túc. Từ những lý do trên, học viên đã chọn đề tài: “Thực hiện chính sách phát triển viên chức từ thực tiễn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội” là đề tài cho luận văn tốt nghiệp ngành Chính sách công. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Phát triển cán bộ, công chức là đề tài được nhiều học giả quan tâm đi sâu nghiên cứu, nhưng đối tượng viên chức gần đây mới được chú trọng, do vậy, công trình nghiên cứu về đề tài này không thực sự phong phú, sau đây là một số công trình học viên được tìm hiểu: - PGS. TS Đỗ Phú Hải, Học viện Khoa học xã hội: Báo cáo về thể chế quản lý viên chức và đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập từ năm 1998 đến nay. - Nguyễn Văn Tuyên, Chính sách phát triển viên chức từ thực tiễn học viên hành chính quốc gia, Luận văn Thạc sĩ ngành Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội, 2015. - Nguyễn Thị Thanh Huyền, Chính sách phát triển viên chức từ thực tiễn Bộ tư pháp, thành phố Luận văn Thạc sĩ ngành Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội, 2014. Các công trình nghiên cứu, các bài viết trên đã có cách tiếp cận khác nhau, nghiên cứu lý luận về viên chức, chính sách phát triển viên chức nói chung và đi sâu vào thực tiễn thực hiện chính sách phát triển viên chức tại một cơ quan cụ thể. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào cung cấp đầy đủ và hệ thống về lý luận và thực tiễn việc thực hiện chính sách phát triển viên chức tại một đơn vị hành chính cấp quận, cụ thể là quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phát triển viên chức để có cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách phát triển viên chức trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội; và đề 3 xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển viên chức ở nước ta hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phát triển viên chức; - Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển viên chức từ thực tiễn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội; chỉ rõ những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế; - Đề xuất quan điểm, định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển viên chức. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống lý luận về thực hiện chính sách phát triển viên chức và thực tiễn việc thực hiện chính sách phát triển viên chức tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện chính sách phát triển viên chức thuộc quản lý của quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách phát triển viên chức thuộc quản lý của quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội từ năm 2012 - 2015. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp luận: Luận văn vận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công kết hợp với nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực tế với cách tiếp cận lien ngành, đa ngành về khoa học xã hội với quy phạm chính sách công về chu trình 4 chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách công. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích; - Phương pháp thu thập số liệu; - Phương pháp tổng hợp; - Phương pháp định lượng. - Phương pháp điều tra bảng hỏi (đối tượng là viên chức và người dân tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội) 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa lý luận: Các kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách công nói chung và thực hiện chính sách phát triển viên chức nói riêng. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn ở chỗ đề xuất được các giải pháp thiết thực, hữu hiệu, các kinh nghiệm thực tiễn góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển viên chức ở nước ta nói chung, ở quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội nói riêng. Các kết quả nghiên cứu của đề tài đóng góp thiết thực vào việc xây dựng đội ngũ viên chức của quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. 5 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn được bố cục gồm 3 chương ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu và phụ lục. Chương 1. Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phát triển viên chức Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển viên chức tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển viên chức tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội 6 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VIÊN CHỨC 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Viên chức Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật (Điều 2 Luật Viên chức). Đơn vị sự nghiệp công lập là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị, thành phố xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước. Do vậy, viên chức đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ công và thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước trong các lĩnh vực thiết yếu của đời sống xã hội. Điểm khác biệt cơ bản của viên chức so với công chức là viên chức được tuyển dụng gắn với vị trí việc làm, thông qua chế độ hợp đồng làm việc và tiền lương được hưởng từ quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp công lập. Còn Công chức được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị, thành phố xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; trừ công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự 7 nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. 1.1.2. Chính sách, chính sách công Hiện nay, thuật ngữ “chính sách” được sử dụng phổ biến trên sách báo, các phương tiện thông tin và đời sống xã hội. Mọi chủ thể kinh tế-xã hội đều có những chính sách của mình. Có chính sách của doanh nghiệp, chính sách của đảng chính trị, chính sách của một quốc gia, tổ chức, chính sách của một liên minh các nước hoặc tổ chức quốc tế…Cho đến nay, mặc d đã có rất nhiều nghiên cứu về chính sách và có nhiều cách tiếp cận khác nhau về chính sách nhưng vẫn chưa có sự thống nhất về khái niệm chính sách. Trên thế giới, có thể kể đến một số khái niệm về chính sách như: “Chính sách là một quá trình hành động có mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm” (James Anderson) hay “Chính sách là quyết tâm và định hướng. Chính sách định hướng nhưng không bao gồm, các chương trình và chi tiết hành động” (Glen Milne)…Tại Việt Nam, Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó”. Như vậy, có thể đưa ra cách hiểu Chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. Các tổ chức, các doanh nghiệp, các đoàn thể đều có thể đề ra những chính sách riêng biệt để áp dụng trong phạm vi một tổ chức, doanh nghiệp hay đoàn thể đó. Các chính sách này nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra cho mỗi tổ chức, chúng chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ chức đó vì vậy chúng mang tính chất riêng biệt và được coi là những “chính sách tư”. Tuy nhiên, mặc d được sử dụng rộng rãi (chính sách bán hàng, chính sách đào tạo nhân viên, chính sách cạnh tranh…), nhưng “chính sách 8 tư” hầu như không được đề cập đến và được nghiên cứu với tư cách là một ngành khoa học. Chính sách công thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, do đó khái niệm về chính sách công phụ thuộc nhiều vào bản chất của Nhà nước. D trong điều hành và quản lý nhà nước cũng như lĩnh vực hoạt động của luật pháp và cả trong nghiên cứu và học thuật, khái niệm chính sách công thường xuyên được d ng nhưng không phải lúc nào khái niệm này cũng được hiểu hoàn toàn giống nhau. Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về khái niệm chính sách công vẫn là một chủ đề sôi động và khó đạt được sự nhất trí rộng rãi. Có thể kể đến một số khái niệm chính sách công khá tiêu biểu của các học giả nước ngoài đó là:“Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được các mục tiêu đó” (William Jenkin). Như vậy, William Jenkin cho rằng chính sách công không phải là một quyết định đơn lẻ nào đó mà là một tập hợp các quyết định khác nhau có liên quan với nhau trong một khoảng thời gian dài, chủ thể ban hành chính sách công phải là các cơ quan nhà nước và chính sách công nhằm vào những mục tiêu nhất định theo mong muốn của nhà nước và bao gồm các giải pháp để đạt được mục tiêu đã chọn. Thomas R. Dye lại đưa ra một định nghĩa ngắn gọn hơn về chính sách công, song lại được nhiều học giả tán thành. Theo ông, “chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay không làm”. Định nghĩa này của Thomas R. Dye không bàn luận về “mục tiêu” hay “mục đích” của chính sách, đồng thời định nghĩa của Dye cũng thừa nhận rằng các chính sách phản ánh sự lựa chọn làm hay không làm. Việc quyết định không làm cũng có thể quan trọng như việc quyết định làm và chính sách là cái chính phủ làm hoặc không làm chứ không phải là cái mà họ muốn làm hoặc lập kế hoạch để làm. Theo Peter Aucoin “chính sách công 9 bao gồm các hoạt động thực tế do chính phủ tiến hành”. Aucoin cho rằng, chính sách có thể vừa là hành động riêng biệt của chính phủ vừa là kết quả của hàng loạt quyết định đa dạng. B. Guy Peter đưa ra định nghĩa “chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân”. Định nghĩa này tiếp cận ở góc độ tác động của chính sách công đến đời sống của người dân với tư cách là một cộng đồng. Ở Việt Nam, mặc dù ngành khoa học chính sách công là một ngành khoa học khá mới mẻ nhưng đã có một số nhà nghiên cứu khoa học chính sách công đưa ra khái niệm về chính sách công. PGS.TS Lê Chi Mai (Học viện Hành chính Quốc gia) đưa ra cách hiểu về thuật ngữ chính sách công “là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh tế-xã hội theo mục tiêu xác định”. Theo cách hiểu này, chính sách công có bốn đặc trưng cơ bản đó là: Thứ nhất, chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước, cụ thể là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành chính sách. Thứ hai, các quyết định này là những quyết định hành động, có nghĩa là chúng bao gồm cả những hành vi thực tiễn. Chính sách công không chỉ thể hiện dự định của nhà hoạch định chính sách về một vấn đề nào đó mà còn bao gồm những hành vi thực hiện các dự định nói trên. Thứ ba, chính sách công tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế-xã hội theo những mục tiêu xác định. Thứ tư, chính sách công gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau. Chính sách là một chuỗi hay một loạt các quyết định c ng hướng vào việc giải quyết một vấn đề chính sách, do một hay nhiều cấp khác nhau trong bộ máy nhà nước ban hành và thực thi trong một thời gian dài. Ở Việt Nam, chính sách công biểu hiện dưới nhiều loại văn bản chính sách khác nhau, bao gồm cả Luật, Nghị định, Thông tư, Quyết định, Chiến lược…T y theo điều 10 kiện hoàn cảnh mỗi nước với hệ thống và nền chính trị khác nhau sẽ có những cách tiếp cận khác nhau về “chính sách”. PGS.TS Đỗ Phú Hải (Học viện Khoa học xã hội Việt Nam) đưa ra cách định nghĩa về chính sách công trong điều kiện chính trị cụ thể của Việt Nam “Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp, công cụ chính sách nhằm giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định” (Đỗ Phú Hải, 2012). Như vậy, chính sách công là những quyết sách mang tính chính trị của nhà nước mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chung và riêng để dẫn dắt sự phát triển của xã hội, đáp ứng nhu cầu xã hội của người dân. Chính sách công có thể chi phối chung, song có những chính sách chi phối cụ thể riêng biệt đối với từng ngành, từng lĩnh vực của đời sống xã hội. 1.1.3. Chính sách phát triển viên chức Khoản 4, Điều 10 của Luật Viên chức 2010 có nêu “Nhà nước có chính sách xây dựng, phát triển đội ngũ viên chức có đạo đức nghề nghiệp, có trình độ và năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khu vực cung ứng dịch vụ công”. Vậy chính sách phát triển viên chức là tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà Nước về phát triển viên chức với mục tiêu, giải pháp cụ thể nhằm xây dựng đội ngũ viên chức có cơ cấu, số chất lượng hợp lý, có dư trình độ, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu cung ứng dịch vụ công có chất lượng cao cho người dân và xã hội. 1.1.4. Tổ chức thực hiện chính sách phát triển viên chức Tổ chức thực hiện chính sách phát triển viên chức là một khâu hợp thành chu trình chính sách, là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực, với đối tượng chính sách nhằm mục tiêu định hướng. 11 Tổ chức thực hiện chính sách phát triển viên chức là một khâu hợp thành chu trình chính sách, nếu thiếu vắng công đoạn này thì công đoạn chính sách phát triển không thể tồn tại. So với các khâu khác trong chu trình chính sách phát triển viên chức, tổ chức thực hiện chính sách có vị trí đặc biệt quan trọng, là bước hiện thực hoá đưa chính sách phát triển viên chức vào đời sống xã hội. Tổ chức thực hiện chính sách phát triển viên chức là một hệ thống thống nhất với hoạch định, xây dựng và đánh giá chính sách phát triển viên chức. 1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nƣớc đối với phát triển viên chức Viên chức là một bộ phận của hệ thống cán bộ, công chức của nước ta nói chung. Chính vì vậy, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước đối với viên chức nằm trong tổng thể quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước đối với cán bộ, công chức ở nước ta nói chung. 1.2.1. Quan điểm của Đảng về cán bộ và đãi ngộ đối với cán bộ, công chức, viên chức Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập Đảng ta, đã nhiều lần căn dặn: “Cán bộ là cái gốc của mọi việc”, “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Vì đội ngũ cán bộ, công chức là “cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước với quần chúng. Cũng theo Hồ Chủ tịch, thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ, công chức cũng như các lực lượng khác có tác dụng và ý nghĩa to lớn nhằm tạo ra động lực vật chất, tinh thần để nâng cao chất lượng đội ngũ. Người khẳng định “Đảng và Chính phủ rất mong muốn đời sống của công nhân, công chức và bộ đội càng khá hơn”. Những năm qua, Đảng ta đã quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Đảng ta đã đưa ra nhiều quan đểm 12 đối với hệ thống đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức, viên chức nói riêng thông qua các Văn kiện Đại hội, Nghị quyết, Chỉ thị: Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 của Hội nghị lần thứ Ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã chỉ ra thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ; đưa ra phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ từ đó đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp lớn đối với công tác cán bộ. Nghị quyết Trung ương Ba khóa VIII đưa ra năm quan điểm về cán bộ, cụ thể: Thứ nhất, xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc. Thứ ba, gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và đổi mới cơ chế chính sách. Thứ tư, thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân, nâng cao trình độ dân trí để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ. Thứ năm, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tác tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị. Kết luận của Hội nghị lần thứ Chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X ngày 02/02/2009 “về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến hết năm 2020”. Kết luận đã tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 của Hội nghị lần thứ Ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, một lần nữa khẳng định các quan điểm đối với công tác cán bộ và chính sách đối với cán bộ, đồng thời tiếp tục đưa ra các giải pháp và nhiệm vụ trọng tâm của công tác cán bộ. Kết luận nêu rõ “cải 13 cách hệ thống chính sách, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất, công bằng trong thực hiện chính sách cán bộ giữa các cấp, các ngành, các địa phương, các đối tượng cán bộ; gắn chính sách cán bộ trong từng khâu của công tác cán bộ, gắn trách nhiệm, nghĩa vụ với quyền lợi; khuyến khích cán bộ công tác ở đại bàn khó khăn, ở cơ sở”. Văn kiện Đại hội XI của Đảng, đặc biệt là Cương lĩnh và Chiến lược đều nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác cán bộ và chính sách đối với cán bộ, công chức, đặt công tác này ở vị trí chiến lược với quan điểm coi con người là chủ thể, là trung tâm của phát triển, là mục tiêu và động lực của đổi mới. Một trong những vấn đề chủ yếu về công tác cán bộ trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng đó là “đổi mới chính sách và cơ chế về cán bộ, quản lý, sử dụng, bồi dưỡng, đào tạo và phát triển năng lực cán bộ”. Hàng loạt chính sách được đặt ra từ giáo dục và đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ để bảo đảm tiêu chuẩn cán bộ, chính sách sử dụng cán bộ, bố trí, bổ nhiệm, đề bạt, đãi ngộ, tạo động lực khuyến khích tài năng, thu hút nhân tài, nhất là các chuyên gia giỏi, tài năng trẻ, kể cả thu hút tài năng trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Không chỉ đưa ra những quan điểm chung về cán bộ và chính sách cán bộ, Đảng ta còn đưa ra những quan điểm riêng về các bộ phận cấu thành trong chính sách cán bộ, đó là quan điểm về chính sách tiền lương và phụ cấp, thi đua khen thưởng. Kết luận Hội nghị Trung ương 9 khóa X của Đảng đưa ra quan điểm “cải cách cơ bản chế độ tiền lương, tiền tệ hóa tiền lương và các chế độ theo lương, ban hành chính sách về nhà ở, nhà công vụ đối với cán bộ, công chức và lực lượng vũ trang. Cải cách công tác thi đua, khen thưởng để tạo động lực thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước một cách thực chất, khắc phục bệnh thành tích, hình thức, lãng phí. Tổ chức phong trào thi đua xây 14 dựng môi trường làm việc tốt để phát huy tốt nhất khả năng cống hiến và phát triển của cán bộ”. Thông báo số 13-TB/TW ngày 28/3/2011 của Bộ Chính trị đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo Chính phủ, sửa đổi những bất hợp lý về chính sách tiền lương, phụ cấp đối với cán bộ, công chức, viên chức tại cơ quan đảng, chính quyền và đoàn thể chính trị-xã hội, sát với thực tiễn hiện nay. Thông báo Hội nghị lần thứ Năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã đưa ra quan điểm cải cách tiền lương đến năm 2020 “bổ sung, sửa đổi một số chính sách cần và có thể điều chỉnh ngay nhằm sớm khắc phục những bất hợp lý nổi cộm hiện nay”. Hội nghị cũng thông qua Kết luận về“một số vấn đề về tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020” trong đó nêu ra ba quan điểm: Thứ nhất, xác định vấn đề tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp người có công là vấn đề lớn, xác định đúng và làm tốt vấn đề này sẽ tạo động lực cho phát triển kinh tế-xã hội, làm trong sạch bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động công vụ. Thứ hai, Cải cách chính sách tiền lương phải có quyết tâm chính trị cao trong việc ban hành và thực hiện chính sách, thực hiện trả lương theo vị trí việc làm, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động công vụ. Thứ ba, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội… Là một bộ phận của hệ thống cán bộ, công chức Việt Nam, quan điểm về chính sách đối với viên chức quận Hai Bà Trưng nằm trong tổng thể các quan điểm trên của Đảng. Bên cạnh đó, Đảng cũng đưa ra những quan điểm cụ thể đối với thành phần viên chức”. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ tất cả các khâu của phát triển cán bộ, công chức, viên chức gồm: Xác định tiêu chuẩn công chức viên chức; đào tạo, bồi dưỡng viên chức; quản lý viên chức và thực hiện chính 15 sách đối với viên chức. Phải đổi mới tư duy, cách làm và khắc phục những khuyết điểm, yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ. Xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách về phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng viên chức; trọng dụng người có đức có tài. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; kiên quyết đấu tranh khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp, học hàm, học vị. 1.2.2. Chính sách của Nhà nước về phát triển viên chức Triển khai, thực hiện các chủ trương, quan điểm của Đảng về phát triển viên chức, Nhà nước đã ban hành chính sách về phát triển viên chức. Chính sách phát triển viên chức của Nhà nước được xác định trong thể chế xây dựng và quản lý viên chức, cụ thể như: trong Luật viên chức số 58/2010/NĐ-CP ngày 12/04/2012 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức; trong Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập; trong Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập; trong các chương trình, dự án, đề án chính sách phát triển viên chức được Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định phê duyệt, ví dụ như Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016-2025. Luật viên chức năm 2010 quy định cụ thể về chính sách xây dựng và phát triển các đơn vị sự nghiệp công lập và đội ngũ viên chức: “Nhà nước tập trung xây dựng hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập để cung cấp những dịch vụ công mà Nhà nước phải chịu trách nhiệm chủ yếu đảm bảo, nhằm phục vụ nhân dân trong lĩnh vực y tế, giáo dục tại miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, v ng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn”; “Nhà nước có chính sách xây dựng, phát triển đội ngũ viên 16 chức có đạo đức nghề nghiệp, có trình độ và năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khu vực cung ứng dịch vụ công; phát triển, thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với người có tài năng để nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân”… Chính sách phát triển viên chức của Nhà nước bao gồm các chính sách cụ thể như: - Chính sách tuyển dụng, sử dụng viên chức - Chính sách đào tạo, bồi dưỡng viên chức - Chính sách sử dụng, bổ nhiệm, thay đổi chức danh, nghề nghiệp, thay đổi vị trí việc làm của viên chức - Chính sách biệt phái, bổ nhiệm, miễn nhiệm - Chính sách đãi ngộ, tiền lương, phụ cấp, khen thưởng - Chế độ thôi việc, hưu trí… Ngoài các chính sách cụ thể nêu trên, chính sách phát triển viên chức còn được thể hiện qua việc quy định trong luật viên chức các quyền của viên chức như: quyền hoạt động nghề nghiệp, quyền được nghỉ ngơi, quyền về hoạt động kinh doanh, làm việc ngoài giờ, và các quyền khác như viên chức được khen thưởng, tôn vinh, được tham gia hoạt động kinh tế-xã hội, được hưởng chính sách ưu đãi về nhà ở; được tạo điều kiện học tập, hoạt động nghề nghiệp ở trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp bị thương hoặc chết do thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ được giao thì được xét hưởng chính sách như thương binh, hoặc được xét để công nhận là liệt sĩ theo quy định của pháp luật. Như vậy Nhà nước có khá nhiều các chính sách tạo điều kiện cho viên chức phát triển. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan