VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI THỊ TUYẾT NHUNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH THI ĐUA, KHEN THƢỞNG
TỪ THỰC TIỄN Ở VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
XÃ HỘI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60.34.04.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân tôi, chưa được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào. Các
số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn này là hoàn toàn hợp lệ và
đảm bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả
Bùi Thị Tuyết Nhung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH THI ĐUA,
KHEN THƢỞNG .......................................................................................................... 7
1.1. Một số khái niệm ...................................................................................................... 7
1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về thi đua, khen thưởng .............. 10
1.3. Giải pháp và công cụ thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ........................... 14
1.4. Nội dung các bước trrong tổ chức thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ....... 15
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ................... 20
Kết luận chương 1 ........................................................................................................... 22
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH THI ĐUA, KHEN
THƢỞNG Ở VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM ...................... 23
2.1. Khái quát chung về Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam................................ 23
2.2. Tổ chức thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở Viện Hàn lâm Khoa học
xã hội Việt Nam............................................................................................................... 29
2.3. Đánh giá chung về tổ chức, thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở Viện
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ............................................................................... 45
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................................... 55
CHƢƠNG 3: TĂNG CƢỜNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH THI ĐUA, KHEN
THƢỞNG Ở VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM........................ 56
3.1. Mục tiêu và nhiệm vụ đổi mới công tác thi đua, khen thưởng ở Viện Hàn
lâm KHXH Việt Nam trong những năm tới .......................................................... 56
3.2. Giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thực hiện chính sách thi đua, khen
thưởng ở Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ............................................. 59
Kết luận chương 3 ........................................................................................................... 66
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 68
PHỤ LỤC ....................................................................................................................... 74
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CBCT
Cán bộ chuyên trách
CBQL
Cán bộ quản lý
CTKT
Công tác khen thưởng
CTTĐ
Công tác thi đua
KHXH
Khoa học Xã hội
KHXH & NV
Khoa học Xã hội và Nhân văn
NLĐ
Người lao động
PTTĐ
Phong trào thi đua
TĐKT
Thi đua khen thưởng
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1
Yêu cầu đối với tổ chức thực hiện chính sách TĐKT
12
Bảng 2.1
Bộ máy chuyên trách công tác TĐKT tại Viện Hàn lâm KHXH
29
Việt Nam
Bảng 2.2
Đánh giá thực trạng xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện
chính sách TĐKT
31
Bảng 2.3
Công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức
thực hiện các quy định về TĐKT
33
Bảng 2.4
Đánh giá thực trạng phân công, phối hợp thực hiện chính
36
sách TĐKT
Bảng 2.5
Đánh giá thực trạng điều chỉnh chính sách TĐKT
41
Bảng 2.6
Đánh giá thực trạng theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện
43
chính sách TĐKT
Bảng 2.7
Đánh giá công tác tổng kết, đánh giá thực hiện chính sách
TĐKT
44
Bảng 2.8
Thống kê các danh hiệu thi đua cá nhân Viện Hàn lâm
47
KHXH Việt Nam giai đoạn 2012-2016
Bảng 2.9
Thống kê các danh hiệu thi đua tập thể Viện Hàn lâm
47
KHXH Việt Nam giai đoạn 2012-2016
Bảng 2.10
Công tác sơ kết tổng kết, tặng thưởng các hình thức khen
49
thưởng; đánh giá hiệu quả thi đua, khen thưởng
DANH MỤC CÁC BIỂU
Biểu 2.1
Biểu đồ các danh hiệu thi đua cá nhân Viện Hàn lâm
47
KHXH Việt Nam giai đoạn 2012-2016
Biểu 2.2
Biểu đồ các danh hiệu thi đua tập thể Viện Hàn lâm
KHXH Việt Nam giai đoạn 2012-2016
48
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi đua, khen thưởng (TĐKT) là một nội dung lãnh đạo quan trọng trong
toàn bộ hoạt động Đảng và Nhà nước. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước, cũng như trong công cuộc đổi mới hiện nay, TĐKT luôn
là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Ngay từ khi thành lập
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản
quy phạm pháp luật làm căn cứ pháp lý cho việc thực hiện công tác TĐKT, đề ra
những chủ trương, chính sách khen thưởng phù hợp với nhiệm vụ chính trị của từng
giai đoạn phát triển của đất nước. Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết định,
chỉ thị, văn bản chỉ đạo về TĐKT làm cơ sở cho các cơ quan nhà nước từng bước
hoàn thiện chính sách về TĐKT. Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề
nghiệp, các doanh nghiệp cũng ban hành nhiều văn bản quy định về TĐKT. Quá
trình hình thành và phát triển, chính sách về TĐKT ở nước ta đã và đang ngày càng
hoàn thiện, thể chế hoá kịp thời đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về
TĐKT. Một loạt văn bản văn quy phạm về TĐKT đã được Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan khác của nhà nước ở Trung
ương, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
ban hành.
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam)
là cơ quan khoa học thuộc Chính phủ, có chức năng nghiên cứu cơ bản về khoa học
xã hội, cung cấp các luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định
đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển nhanh và bền
vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện tư vấn về chính
sách phát triển; đào tạo sau đại học về khoa học xã hội; tham gia phát triển tiềm lực
khoa học xã hội của cả nước. Trong giai đoạn 2012-2016, Viện Hàn lâm KHXH
Việt Nam thực hiện chính sách TĐKT đã đem lại nhiều hiệu quả thiết thực; thông
1
qua các phong trào thi đua đã có nhiều tập thể, cá nhân đạt thành tích xuất sắc, được
Nhà nước, các cấp, các ngành khen thưởng. Hội đồng TĐKT, tổ chức bộ máy
TĐKT Viện Hàn lâm và các đơn vị thuộc, trực thuộc tiếp tục được kiện toàn, củng
cố hoạt động ngày càng có hiệu quả, công tác tuyên truyền, biểu dương gương
người tốt, việc tốt được triển khai thực hiện thông qua nhiều hình thức phong phú
trên tất cả các lĩnh vực công tác. Công tác nghiên cứu, xây dựng các văn bản hướng
dẫn thực hiện công tác TĐKT đã có bước đổi mới, tiến bộ. Cụ thể hóa Luật TĐKT
và Nghị định hướng dẫn thi hành của Chính phủ, Chủ tịch Viện Hàn lâm đã ban
hành đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định hướng dẫn thực hiện công tác TĐKT,
như: Quy chế Thi đua, khen thưởng, Quy định về Tiêu chí đánh giá kết quả thi đua
hàng năm đối với các đơn vị và cá nhân... làm cơ sở pháp lý quan trọng cho các đơn
vị trong toàn Viện Hàn lâm tổ chức thực hiện phong trào thi đua và thực hiện chính
sách khen thưởng đạt được những kết quả rất tích cực.
Mặc dù được nhiều đơn vị thuộc, trực thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
triển khai, song các chính sách TĐKT chưa được duy trì thường xuyên liên tục; một
số chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về TĐKT chưa triển
khai đồng bộ tới cán bộ công chức, viên chức và người lao động; Luật Thi đua,
Khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành luật chưa được quán triệt đầy đủ,
trong thực hiện, vận dụng còn lúng túng. Phong trào thi đua có nơi còn biểu hiện
hình thức, thiếu thường xuyên, liên tục, phát động nhưng thiếu các biện pháp tổ
chức cần thiết bao gồm cả điều kiện và nguồn lực cán bộ để làm nòng cốt cho
phong trào. Trong chỉ đạo, nhiều đơn vị chưa coi trọng công tác kiểm tra, đôn đốc,
hướng dẫn, chưa tạo được sự phối hợp, liên kết của các đơn vị và các tổ chức có
liên quan, từ đó hạn chế tính động lực và hiệu quả của các phong trào thi đua...
Là một viên chức đang công tác tại Ban Thi đua - Khen thưởng Viện Hàn
lâm KHXH Việt Nam, để kết thúc khóa học này, tôi chọn đề tài “Thưc hiện chính
sách thi đua, khen thưởng từ thực tiễn ở Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam” và mong rằng đề tài này có thể góp phần vào công tác TĐKT ở cơ quan.
2
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Về TĐKT nói chung và chính sách TĐKT nói riêng đến nay đã có nhiều nhà
nghiên cứu với nhiều cách tiếp cận, nhiều quan điểm, cách đánh giá khác nhau. Có
thể kể tên một số công trình nghiên cứu đáng chú ý sau:
Tài liệu dạng sách, tiêu biểu có:
- Nguyễn Viết Vượng (2006), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Lao động, Hà Nội.
- Ban Thi đua - khen thưởng Trung ương (2008), Đảng, Bác Hồ với thi đua
yêu nước và công tác thi đua, khen thưởng”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Tài liệu là kết quả nghiên cứu đề tài khoa học có:
- Nguyễn Thế Thắng (2012), Những vấn đề lý luận chung về thi đua, khen
thưởng, đề tài khoa học cấp Nhà nước, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Trần Thị Hà (2013), Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới TĐKT trong giai
đoạn hiện nay, đề tài khoa học cấp Nhà nước, Ban TĐKT Trung ương.
- Nguyễn Minh Mẫn (2010), Quy định của pháp luật về TĐKT và tổ chức
làm công tác thi đua, khen thưởng, đề tài khoa học cấp Nhà nước, Bộ Nội vụ.
Tài liệu dạng luận án, luận văn có:
- Nguyễn Xuân Hà (2009), “Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực thi đuakhen thưởng ở tỉnh Thanh Hoá hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Lý luận và lịch sử nhà
nước và pháp luật.
- Đỗ Thúy Phượng (2010), Hoàn thiện pháp luật về thi đua, khen thưởng ở
Việt Nam, luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Dương Thị Tuyết Nhung (2015), Quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng
trong các trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội, luận văn thạc sỹ luật học,
Học viện Khoa học xã hội.
3
- Nguyễn Đức Hiếu (2016), Hoàn thiện công tác thi đua khen thưởng tại
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt nam, Luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh, Học
viện Khoa học xã hội.
- Sam Lane Phan Kha Vong (2014), Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách
công tác thi đua, khen thưởng cấp tỉnh của Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh.
- Phùng Ngọc Tấn (2016), Pháp luật về TĐKT ở Việt Nam hiện nay, luận án
tiến sĩ luật hiến pháp và luật hành chính, Học viện Khoa học xã hội.
Tài liệu bài tạp chí có:
- Nguyễn Đình Châu (2014), Tăng cường làm tốt công tác thi đua, khen
thưởng góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược xây dựng con người mới của Đảng
trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 213 (tháng 5), tr. 58-60.
- Phùng Ngọc Tấn (2014), Giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực
hiện pháp luật về TĐKT, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10, tr. 3-13.
- Lê Văn Phong (2014), Công tác thi đua, khen thưởng ở Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh (2009-2014), Tạp chí Lịch sử Đảng, số 9, tr. 52-56.
Các công trình kể trên đã đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
công tác TĐKT: khái niệm, hình thức, vai trò, nội dung, yêu cầu công tác thi đua,
công tác khen thưởng, kinh nghiệm của một số nước để từ đó đề ra các giải pháp
nhằm hoàn thiện công tác TĐKT, pháp luật TĐKT mà các công trình tiến hành
nghiên cứu. Đây là nguồn tài liệu có giá trị cho hướng nghiên cứu của đề tài, là cơ
sở để luận văn kế thừa có chọn lọc phục vụ cho công tác nghiên cứu. Mặc dù, các
công trình trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của công tác TĐKT. Tuy
nhiên, cho đến nay nghiên cứu trực tiếp về Thực hiện chính sách thi đua, khen
thưởng từ thực tiễn Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam theo tìm hiểu của tác giả đến
nay chưa có đề tài nào nghiên cứu.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích thực trạng thực hiện chính sách
thi đua, khen thưởng tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam giai đoạn 2012-2016, từ đó
đề xuất giải pháp nhằm tăng cường thực hiện chính sách TĐKT tại Viện Hàn lâm
KHXH Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn tập trung làm rõ
các nội dung sau đây:
+ Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện chính sách TĐKT
tại Việt Nam.
+ Phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách TĐKT từ năm 2012
đến năm 2016 tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thực hiện chính sách TĐKT tại
Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tổ chức thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng
tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu:
+Về mặt Nội dung nghiên cứu: Tổ chức thực hiện chính sách TĐKT tại Viện
Hàn lâm KHXH Việt Nam và từ đó, đề xuất những giải pháp tăng cường thực hiện.
+ Về mặt Không gian: Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
+ Về mặt Thời gian: Luận văn sẽ nghiên cứu vấn đề trên trong thời gian 2012
– 2016 và đề xuất các giải pháp cho giai đoạn tới.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Luận văn
sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
so sánh để đánh giá và rút ra kết luận.
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn sau khi hoàn thành sẽ đạt được các kết quả như sau:
- Hệ thống hóa được một số vấn đề lý luận cơ bản về chính sách TĐKT.
- Trình bày, phân tích và đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện chính sách thi
đua, khen thưởng tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam giai đoạn 2012-2016.
- Đề xuất giải pháp để tăng cường thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng
tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam trong thời gian tới.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn, ngoài Phần mở đầu, Kết luận, và Danh mục Tài liệu tham khảo,
Phụ lục, gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Lý luận chung về thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở Viện Hàn
lâm KHXH Việt Nam hiện nay
Chương 3: Tăng cường thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở Viện
Hàn lâm KHXH Việt Nam
6
Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
THI ĐUA, KHEN THƢỞNG
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm thi đua, khen thưởng
* Khái niệm thi đua
Khái niệm thi đua được hiểu theo khía cạnh khác nhau:
Theo C. Mác: "Thi đua nảy nở trong quá trình hợp tác lao động, trong hoạt
động chung và kế hoạch của con người. Sự tiếp xúc xã hội tạo nên thi đua và sự
nâng cao theo lối đặc biệt nghị lực sinh động tăng thêm nghị lực cho riêng từng
người".
Theo V.I.Lênin: “Lần đầu tiên trong xã hội chủ nghĩa đã tạo ra khả năng áp
dụng thi đua một cách rộng rãi, với một quy mô thực sự to lớn, tạo ra khả năng thu
hút thật sự đa số nhân dân lao động vào vũ đài hoạt động, khiến họ có thể hiểu rõ
bản thân mình, dốc hết năng lực của mình, phát hiện những tài năng mà nhân dân
sẵn có cả một nguồn vô tận”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thi đua là công việc diễn ra hàng ngày, trên tất cả
các mặt hoạt động trong một tập thể, do những cá nhân tiến hành, nhằm đạt kết quả
tốt hơn. Người viết: “Tưởng lầm rằng thi đua là một việc khác với những việc hàng
ngày. Thật ra công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua. Thí dụ từ trước đến
nay ta vẫn ăn, vẫn mặc, vẫn ở. Nay ta thi đua ăn, ở, mặc sao cho sạch, cho hợp vệ
sinh, khỏi đau ốm. Xưa nay ta vẫn làm ruộng nay ta thi đua làm cho ruộng tốt hơn,
sản xuất nhiều hơn, mọi việc đều thi đua như vậy” .
Theo Luật thi đua, khen thưởng: “Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham
gia tự nguyện của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [41, tr.3].
7
Như vậy, có thể hiểu: thi đua là hoạt động xã hội, tự nguyện có tổ chức của
các cá nhân và tập thể, diễn ra ở các ngành, các cấp, các lĩnh vực đời sống xã hội
nhằm đạt kết quả cao nhất trong lao động sản xuất, học tập, công tác, đáp ứng nhu
cầu chính đáng của con người, tập thể, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ cách hiểu trên, có thể quan niệm: Thi đua là hoạt động xã hội, tự nguyện,
có tổ chức của các cá nhân và tập thể, diễn ra trong các lĩnh vực đời sống xã hội
nhằm đạt kết quả cao nhất trong lao động sản xuất, học tập, công tác, đáp ứng nhu
cầu chính đáng của con người, tập thể.
* Khái niệm khen thưởng
Khen là sự nhận xét đánh giá tốt về một cá nhân, tổ chức về việc gì đó với ý
nghĩa hài lòng. Thưởng là tặng bằng hiện vật hoặc bằng tiền… Khen thưởng là hình
thức ghi nhận công lao, thành tích của Nhà nước bằng quyết định của cơ quan có
thẩm quyền do luật định. Khen thưởng, là một vấn đề thuộc phạm trù khoa học xã
hội, được hình thành phát sinh và tồn tại trong quá trình phát triển của con người.
Do đó, khen thưởng phải thể hiện quan điểm quần chúng, phải có trách nhiệm cao
trong quá trình phát hiện xét khen thưởng.
Khen thưởng là khen và thưởng bằng hiện vật xứng với thành tích, công lao.
Luật thi đua, khen thưởng của Việt Nam quy định: “Khen thưởng là việc ghi nhận,
biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá
nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [41, tr.11]. Như vậy,
khen thưởng là hoạt động mang tính pháp lý của các tổ chức có thẩm quyền và của
cơ quan Nhà nước và có quyết định khen thưởng của các cơ quan, tổ chức này.
Cùng với việc ban hành quyết định khen thưởng còn có sự cổ vũ, động viên bằng
vật chất tương ứng với mức độ cống hiến, công lao và theo theo quy định.
Từ phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: khen thưởng là hoạt động của các
cơ quan, các tổ chức có thẩm quyền để ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng,
thành tích xuất sắc trong hoạt động của cá nhân, tập thể, góp phần thực hiện nhiệm
vụ của đơn vị, địa phương, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
8
1.1.2. Khái niệm chính sách thi đua, khen thưởng
Chính sách được hiểu là tập hợp các quyết định hay chương trình hành động
do tập thể các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó
thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. “Chính sách công là một tập hợp các quyết
định chính trị có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp,
công cụ chính sách nhằm giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác
định” [31, tr.12]. Chính sách công là chính sách của Nhà nước là tập hợp các quyết
định chính trị có liên quan của Nhà nước với mục tiêu giải pháp cụ thể nhằm giải
quyết một vấn đề kinh tế, xã hội nhất định, theo ý chí của Đảng cầm quyền.
Chính sách TĐKT là một hợp phần của chính sách công. Luật TĐKT đã xác
định: “Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của cá nhân, tập
thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc;
Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích
bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ
tổ quốc. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về TĐKT trong phạm vi cả nước”.
Hiện nay, chưa có một khái niệm cụ thể nào về Chính sách TĐKT. Từ khái
niệm chung của chính sách công, cùng với các khái niệm về thi đua, khen thưởng có
thể định nghĩa: Chính sách TĐKT là tập hợp các quy định của Chính phủ nhằm đưa
ra các công cụ chính sách và cách thức giải quyết các vấn đề liên quan đến công
tác TĐKT và hoạt động TĐKT của các tổ chức và cá nhân. Các cơ quan trong hệ
thống hành pháp và mọi cá nhân, tổ chức có nhiệm vụ chấp hành các quy định này
và thực hiện các hoạt động TĐKT theo đúng quy định của pháp luật.
1.1.3. Khái niệm thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng
Thực hiện chính sách TĐKT, là toàn bộ quá trình chuyển ý chí của chủ thể
trong chính sách thành hiện thực, là một khâu hợp thành chính sách TĐKT, có vị trí
quan trọng là bước hiện thực hóa đưa chính sách TĐKT vào thực tiễn cuộc sống.
9
Thực hiện chính sách TĐKT tốt không những mang lại lợi ích to lớn cho các
nhóm đối tượng thụ hưởng chính sách mà còn góp phần làm tăng uy tín của nhà
nước trong quá trình quản lý xã hội.
Thực hiện chính sách TĐKT là tất yếu, khách quan để duy trì sự tồn tại của
công cụ chính sách theo yêu cầu quản lý của nhà nước và cũng là để đạt được mục
tiêu của chính sách.
Mục tiêu của chính sách TĐKT là nhằm động viên mọi cá nhân, tổ chức tham
gia các phong trào thi đua và thực hiện tốt công tác khen thưởng để từ đó phát huy
tính tích cực trong công việc, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh; người được khen tiếp tục phát huy những thành tích
đã đạt được của mình, có thêm những sáng kiến và đóng góp nhằm tăng cường khả
năng chuyên môn và góp phần phát triển cơ quan, tổ chức nơi mình làm việc; người
chưa được khen cũng thấy được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, cần phải phấn
đấu để được ghi nhận và thực hiện mục tiêu, yêu cầu nhiêmh vụ của cơ quan, đơn
vị, địa phương mình đề ra. Vì vậy, cần phải thực hiện tốt chính sách TĐKT để phát
huy được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và nhân dân; làm cho các phong
trào thi đua được phát triển sâu rộng trong toàn dân, với nhiều hình thức phong phú
có tác dụng thúc đẩy, động viên cán bộ, nhân dân, các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế tích cực học tập, lao động, sản xuất, kinh doanh, nhất là phong
trào thi đua xây dựng nông thôn mới và thực hiện tốt công tác khen thưởng; từ đó
tạo động lực thi đua hoàn thành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước đưa nước ta sớm trở thành một nước công nghiệp phát triển.
1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng
1.2.1. Quan điểm của Đảng về thi đua, khen thưởng
Trong Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 03/6/1998 của Bộ chính trị về đổi mới
TĐKT trong giai đoạn mới đã chỉ rõ: “Làm rõ vị trí, vai trò quan trọng của thi đua,
khen thưởng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng
mới, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước đối với thi đua, khen
10
thưởng; kiện toàn và đổi mới tổ chức - cán bộ của cơ quan tham mưu thi đua, khen
thưởng, đổi mới nội dung và hình thức thi đua, khen thưởng..."
Tiếp tục thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về TĐKT và đổi mới,
đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, ngày 21 tháng 5 năm 2004, Bộ Chính trị ban
hành Chỉ thị số 39-CT/TW, một lần nữa khẳng định rõ: Tiếp tục quán triệt nội dung
đổi mới TĐKT theo tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước và tinh thần Chỉ thị
35-CT/TW, ngày 03 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII); qua đó nâng
cao hơn nữa nhận thức, trách nhiệm về TĐKT; đồng thời tổ chức tốt việc hướng
dẫn, thực hiện Luật TĐKT. Các cấp ủy, tổ chức đảng, thủ trưởng cơ quan, đơn vị
phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo thi đua. Mỗi chi bộ, đảng viên cần phát huy tốt vai
trò tiên phong gương mẫu và là hạt nhân trong các phong trào thi đua ở cơ sở.
Chính quyền, Mặt trận và đoàn thể các cấp phải phối hợp chặt chẽ trong việc tổ
chức chỉ đạo thi đua, làm cho phong trào thi đua trở thành phong trào hành động
cách mạng sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân.
1.2.2. Chính sách của Nhà nước về thi đua, khen thưởng
Văn bản pháp luật là cơ sở pháp lý và công cụ để nhà nước quản lý xã hội nói
chung và quản lý TĐKT nói riêng. Nhà nước quản lý TĐKT bằng pháp luật. Nhất
thiết nhà nước phải xây dựng và ban hành một hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật, điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa nhà nước và đối tượng quản lý. Các văn
bản quy phạm pháp luật của nhà nước là sự thể hiện, cụ thể hóa quan điểm, đường
lối của Đảng về TĐKT, đồng thời cũng là sự tập trung nguyện vọng của quần chúng
nhân dân trong lao động, sản xuất, công tác, học tập đóng góp vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc.
Ngay từ khi Nhà nước mới ra đời trong cuộc kháng chiến chống pháp, trong
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, để huy động sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân
Nhà nước ban hành các văn bản pháp lý về TĐKT như: Ngày 20/01/1946, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ra Quốc lệnh ban hành 10 điều thưởng với lời mở đầu: “Trong một
nước, thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới
11
thắng lợi, kiến quốc mới thành công” . Quốc lệnh là văn bản pháp lý đầu tiên về
điều kiện khen thưởng, đặt nền móng xây dựng chính sách khen thưởng; đã góp
phần quan trọng trong phong trào thi đua yêu nước, làm nên chiến thắng thần thánh
Điện Biên Phủ, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng.
Từ năm 1945 - 1998, Nhà nước ban hành 1 quốc lệnh, 15 sắc lệnh, 6 quyết
nghị, 5 pháp lệnh và nhiều nghị định, thông tư, chỉ thị để tổ chức thực hiện TĐKT.
Trong suốt thời gian xây dựng đất nước TĐKT đã bám sát được chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, kịp thời đề ra những phương pháp tổ chức thực hiện
phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng, đã khơi dậy và phát huy cao độ
lòng yêu nước, ý chí quật cường, tinh thần hy sinh cao cả, chủ nghĩa Anh hùng cách
mạng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân góp phần bảo vệ miền Bắc xã hội chủ
nghĩa, giải phóng miền Nam, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sau một thời gian dài TĐKT “bị buông lỏng” , ngày 03/5/1998 Bộ chính trị đã
ban hành Chỉ thị số 35 về đổi mới TĐKT trong giai đoạn mới. Ngày 21/5/2004 Bộ
Chính trị đã ban hành chỉ thị số 39-CT/TW về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào
thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến.
Luật TĐKT ra đời cùng các văn bản pháp quy của nhà nước như Nghị định số
121/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ qui định chi tiết và hướng dẫn một
số điều của Luật TĐKT, và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật TĐKT;
Nghị định số 122/2005/NĐ-CP ngày 04/10/2005 của Chính phủ quy định tổ chức
làm TĐKT; Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TĐKT và Luật sửa đổi bổ sung
một số điều của Luật TĐKT; Thông tư 02/2011/TT-BNV ngày 24/01/2011 của Bộ
Nội vụ hướng dẫn thực hiện Nghị định số 42/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính
phủ; Thông tư số 12/2012/TT-BGDĐT ngày 03/4/2012 của Bộ Giáo dục hướng dẫn
TĐKT trong ngành giáo dục; Nghị định 39/2012/NĐ-CP ngày 27/4/2012 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TĐKT và Luật sửa đổi bổ sung
một số điều của Luật TĐKT.
12
Sau 08 năm thực hiện Luật TĐKT và qua tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số
39-CT/TW ngày 21/5/2004 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đổi mới đẩy mạnh phong
trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến”
cho thấy: thi đua và khen thưởng ngày càng có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc và trong đời sống xã hội. Qua thực tiễn, từ khi Nhà nước ban
hành Luật TĐKT, TĐKT đã có bước chuyển biến tích cực; nhiều phong trào thi đua
đã được các bộ, ngành, địa phương, các đơn vị cơ sở phát động và triển khai sâu
rộng, bám sát nhiệm vụ chính trị; công tác khen thưởng ngày càng đi vào nề nếp,
chặt chẽ và đạt được những kết quả cơ bản trên các mặt như: khen thưởng thành
tích trong 2 cuộc kháng chiến, khen thưởng niên hạn, khen thưởng quá trình cống
hiến, khen thưởng thành tích đột xuất, khen thưởng theo chuyên đề, khen thưởng
thường xuyên và khen thưởng đối ngoại. Công tác khen thưởng đã kịp thời động
viên, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ và nhân dân cả nước góp phần tích cực vào việc thực
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, TĐKT và một số nội dung của Luật
TĐKT chưa đáp ứng và chưa phự hợp với tình hình thực tiễn đặt ra và từ tình hình
thực tiễn công tác TĐKT ở các cấp các ngành cần được khắc phục kịp thời. Vì vậy,
trong kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII, ngày 16/11/2013, Quốc hội đã thông qua
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật TĐKT số 39/2013/QH13 (có hiệu lực từ
ngày 01/6/2014); Nghị định số 65/2014/NĐ-CP ngày 01/7/2014 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật TĐKT năm 2013;
Thông tư số 07/2014/TT-BNV ngày 29/8/2014 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thi hành
một số điều của Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010; Nghị định
39/2012/NĐ-CP ngày 27/4/2012 và Nghị định số 65/2014/NĐ-CP ngày 01/7/2014
quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật TĐKT 2013.
Trên cơ sở quy định của Luật TĐKT và các văn bản hướng dẫn thi hành luật,
các địa phương, đơn vị đã đề ra những quy định cụ thể về công tác khen thưởng của
địa phương, đơn vị mình theo chức năng nhiệm vụ và điều kiện thực tế cho phép để
từng bước đưa Luật TĐKT vào cuộc sống, góp phần đẩy mạnh công cuộc xây dựng
13
xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc mà ở đó TĐKT là biện pháp đòn bẩy được áp
dụng thống nhất trong phạm vi cả nước.
1.3. Giải pháp và công cụ thực hiện chính sách thi đua, khen thƣởng
1.3.1. Giải pháp chính sách TĐKT
Xét từ một góc độ tiếp cận khác đối với mục tiêu của chính sách TĐKT, thì
các giải pháp mà nhà nước thực hiện cũng nhằm phát huy vai trò là động lực của sự
phát triển nhằm tạo ra bước đột phá mới, chuyển biến mạnh mẽ hơn để tham gia
tích cực hơn vào sự phát triển chung của đất nước.
Những vấn đề trên cho thấy, chính sách TĐKT ở Việt Nam hướng đến một số
giải pháp cơ bản. Trước hết là phải nâng cao nhận thức về công tác TĐKT; ban
hành và tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về
nhận thức ở tất cả các cấp lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương, trong đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân về tầm quan trọng và ý nghĩa của chính
sách TĐKT; vị trí, vai trò của công tác TĐKT trong cuộc sống.
Giải pháp chính sách TĐKT bao gồm nhóm giải pháp liên quan đến mục tiêu
chính sách và nhóm giải pháp liên quan đến công cụ chính sách.
Nhóm giải pháp liên quan đến mục tiêu chính sách bao gồm:
- Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các phong trào thi đua
- Giải pháp nâng cao chất lượng công tác khen thưởng
Nhóm giải pháp liên quan đến công cụ chính sách bao gồm:
- Giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và vai trò của
người đứng đầu trong thực hiện chính sách TĐKT
- Giải pháp tạo sự chuyển biến trong nhận thức đối với việc thực hiện chính
sách TĐKT
- Giải pháp về phát huy vai trò của công tác tuyên truyền và công tác phối hợp
trong việc thực hiện chính sách TĐKT
14
- Giải pháp nâng cao chất lượng công tác tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ TĐKT
- Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của khối, cụm thi đua
- Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng TĐKT các cấp
- Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác TĐKT các cấp
1.3.2. Công cụ chính sách TĐKT
Thực tiễn cho thấy, bất kỳ một chính sách nào nếu chỉ các giải pháp chính
sách đồng bộ nhưng không có các công cụ chính sách thì khó mà thực hiện được.
Công cụ chính sách là hệ thống các phương tiện truyền dẫn các phương thức tác
động lên đối tượng chính sách, bao gồm: công cụ dựa vào tổ chức; công cụ dựa vào
quyền lực; công cụ tài chính và công cụ truyền thông. Đối với chính sách TĐKT, hệ
thống các công cụ chính sách cụ thể là:
- Công cụ dựa vào tổ chức là các công cụ hành chính, tổ chức như kế hoạch,
quy hoạch của nhà nước, hệ thông các văn bản quy phạm pháp luật, mô hình tổ
chức, bộ máy cán bộ công chức tham gia hoạch định, triển khai chính sách TĐKT.
- Công cụ dựa vào quyền lực là các quy định mệnh lệnh và kiểm soát, quy
định về trách nhiệm của từng cấp, từng ngành.
- Công cụ tài chính là ngân sách, các quỹ, nguồn vốn, hệ thống đòn bẩy
khuyến khích về mặt kinh tế, vật chất.
- Công cụ truyền thông là các chiến dịch truyền thông, tuyên truyền cổ vũ và
thuyết phục qua báo chí, truyền hình hay tài trợ nghiên cứu.
1.4. Nội dung các bước trong tổ chức thực hiện chính sách thi đua, khen
thưởng
Thực hiện tốt chính sách TĐKT ảnh hưởng lớn tới việc triển khai công tác
TĐKT. Để làm được như vậy, cần phải tiến hành những nội dung theo trình tự sau:
15
- Xem thêm -