Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên từ thực tiễn thị xã sơn tây, thành ...

Tài liệu Thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên từ thực tiễn thị xã sơn tây, thành phố hà nội

.PDF
87
501
70

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. kết luận khoa học của luận văn chưa LẠINhững HỮU BÌNH từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành : Chính sách LẠI côngHỮU BÌNH Mã số : 60 34 04 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS VĂN TẤT THU HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN LẠI HỮU BÌNH MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN… ........................................................................................... 7 1.1. Một số khái niệm: việc làm, chính sách việc làm; chính sách việc làm cho thanh niên, thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên… ...................................................... 7 1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về việc làm cho thanh niên.................... ............................................................................................................. .14 1.3. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên …21 1.4. Nội dung các bước trong tổ chức thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên…… ......................................................................................................................... .22 1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách việc làm cho thanh niên… ......................... .27 1.6. Những yêu cầu cơ bản trong tổ chức thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên……………………… ............................................................................................. .30 1.7. Các phương pháp tổ chức thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên… ........... 32 1.8. Các chủ thể tham gia thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên ...................... .33 Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN TẠI THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI… ........................... .36 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội ảnh hưởng đến thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên… ......................................... .36 2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên tại thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội ................................................................................................... .39 2.3. Thực trạng các chủ thể tham gia thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên tại thị xã Sơn Tây… ........................................................................................................ 47 2.4. Thực trạng bảo đảm các yêu cầu trong tổ chức thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên tại thị xã Sơn Tây… ............................................................................... .48 2.5. Kết quả thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên tại thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội… .................................................................................................................. 49 2.6. Đánh giá chung kết quả tổ chức thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên tại thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội…… ...................................................................... 55 Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM Ở NƯỚC TA HIỆN NAY………… ...................... 61 3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên ở nước ta hiện nay……… .............................................................................................. .61 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên ở nước ta hiện nay…………… ...................................................................................... .66 KẾT LUẬN………… ..................................................................................................... 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 81 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT HĐND Hội đồng nhân dân UBND Ủy ban nhân dân TNCS Thanh niên cộng sản LHPN Liên hiệp phụ nữ XHCN Xã hội chủ nghĩa KT-XH Kinh tế - xã hội GCNQSD Giấy chứng nhận quyền sử dụng TBXH Thương binh xã hội QPPL Quy phạm pháp luật TNNT Thanh niên nông thôn THPT Trung học phổ thông ĐH Đại học CĐ Cao đẳng TBXH Thương binh xã hội MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với mọi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam. Giải quyết việc làm cho người lao động trong sự phát triển của thị trường lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiếp kịp khu vực và thế giới. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ chương, đường lối, chính sách thiết thực, hiệu quả nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo nhiều việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn, góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Qua gần 30 năm đổi mới, cùng với những thành tựu to lớn về tăng trưởng kinh tế, Việt Nam cũng đạt được những kết quả quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho người lao động, đời sống người lao động trong đó có tầng lớp thanh niên được cải thiện rõ rệt. Thanh niên là lực lượng tiên phong trong phát triển chính trị, kinh tế và xã hội, đồng thời cũng là lực lượng mang lại sự thay đổi và đổi mới. Thế giới việc làm tạo môi trường cho thanh niên để họ tham gia một cách chủ động vào xã hội, cống hiến tài năng và tầm nhìn cho tương lao, phát triển cam kết và các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, tính trung bình, tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên cao hơn từ hai đến ba lần so với nhóm dân số lớn tuổi hơn, nhất là thanh niên ở nông thôn, những vùng khó khăn. Cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội nằm ở khu vực ngoại thành Hà Nội, quá trình đô thị hoá đang diễn ra nhộn nhịp. Đó là một quy luật phát triển tất yếu, đem lại một cuộc sống văn minh, hiện đại hơn và một nền kinh tế phát triển hơn. Song, đằng sau những biến đổi tích cực đó còn những vấn đề xã hội khác đang cần quan tâm giải quyết. Điển hình hơn cả là vấn đề việc làm của thanh niên thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Điều này được phát huy hiệu quả hay không phụ thuộc một phần vào chính sách và sự quan tâm 1 của chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng trong tổ chức thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên. Thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên thời gian qua trong cả nước nói chung, ở thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội nói riêng đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Song bên cạnh các ưu điểm, các kết quả đạt được còn bộc lộ các hạn chế, bất cập ảnh hưởng trực tiếp đến thực hiện mục tiêu chính sách. Các hạn chế, bất cập đó cần phải nghiên cứu đề xuất các giải pháp khắc phục. Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài: “Thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên từ thực tiễn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội’’ làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này, dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể nêu một số đề tài sau: - Đề tài cấp nhà nước 70 A.02.02 “Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần”, của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Hà Nội, 1994. - Đề tài cấp nhà nước KX-07-05-05: “Những đặc trưng và xu hướng biến đổi của cơ cấi xã hội nghề nghiệp nước ta trong giai đoạn hiện nay, dự báo và kiến nghị”, do tiến sĩ Nguyễn Đình Tấn-Giám đốc Trung tâm Xã hội học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm, 1995. - Đề tài “Quản lý nhà nước về việc làm ở Hà Nội”, luận án Tiến sĩ Kinh tế Trần Văn Tuấn, Hà Nội, 1995. - “Thị trường sức lao động thực trạng và giải pháp” của Phó Tiến sĩ Nguyễn Quang Hiền, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 1995. - “Chiến lược việc làm và đào tạo nghề thời kỳ 2001-2010” của tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng, Tạp chí Lao động Xã hội, 2001. - Đề tài “Phát triển thị trường sức lao động, giải quyết việc làm qua thực tế ở Hà Nội”, luận án Tiến sĩ Kinh tế Đỗ Thị Xuân Phương, Hà Nội, 2005. - Đề tài “Phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc”, luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội, 2002 bảo vệ tại Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. - Bài viết của PGS. TS Trần Việt Tiến (2012), “ Chính sách việc làm ở Việt Nam: Thực trạng và định hướng hoàn thiện” bài viết đã góp phần làm rõ thực trạng 2 chính sách việc làm ở nước ta hiện nay, từ đó đưa ra định hướng các giải pháp hoàn thiện chính sách việc làm tới năm 2020. - Bài viết của TS. Đỗ Phú Hải (2014), "Chính sách lao động - việc làm: Thực trạng và giải pháp", Học viện khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Bài viết tập trung trình bầy những kết quả nghiên cứu về vấn đề lao động việc làm và các trở ngại chính sách, trên cơ sở mục tiêu của Đảng tại Đại hội XI đã xác định đưa ra những giải pháp và công cụ chính sách nhằm cơ cấu lại và sử dụng hợp lý nguồn lực lao động xã hội để phát triển nền kinh tế nước ta, hướng tới mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. - Thông tin chuyên đề của Viện nghiên cứu lập pháp, trung tâm thông tin khoa học "Pháp luật việc làm và một số đề xuất, kiến nghị xây dựng luật", - Bài viết của PGS.TS Văn Tất Thu, “Chính sách sử dụng, trọng dụng nhân tài, trí thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân và kháng chiến kiến quốc” trên Quản lý nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia, Số 8/2015, tr. 14 – 19. - Bài viết của PGS. TS Văn Tất Thu, “Cơ sở lý luận để xác định vấn đề chính sách công” trên tạp chí Quản lý nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia, Số 2/2016, tr. 16 – 20. - Bài viết của PGS.TS Văn Tất Thu, “Năng lực thực hiện chính sách công – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” trên tập chí Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ, số 12/2014, tr 31 – 35. - Nguyễn Thúy Hà (2013), "Chính sách việc làm: thực trạng và giải pháp". - Bùi Thị Thúy (2005) "Việc làm và chính sách tạo việc làm ở Hải Dương hiện nay"; luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện chính trị quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu những vấn đề lý luận về lao động việc làm, quan niệm về việc làm và những nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm, luận văn phân tích thực trạng tạo việc làm ở Hải Dương, chỉ ra xu hướng tạo việc làm ở Hải Dương hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp chủ yếu để tạo việc làm ở Hải Dương trong thời gian tới. + Nghiên cứu những vấn đề lý luận về việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp. - Nguyễn Thị Lan Hương (2002), "Thị trường lao động Việt Nam: Định hướng và phát triển", Nhà xuất bản Lao động - xã hội, Hà Nội. Tác giả đi từ việc phân tích 3 các luận cứ cơ bản định hướng phát triển thị trường lao động Việt Nam, sự hình thành và phát triển của thị trường lao động Việt Nam. Từ đó đề xuất các giải pháp định hướng phát triển thị trường lao động Việt Nam giai đoạn 2001- 2010. Ngoài ra còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí về vấn đề này với những cách tiếp cận khác nhau. Có thể thấy rằng, cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào đã công bố, tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Tuy vậy, nghiên cứu các công trình đã công bố, tôi cũng tham khảo được nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn rất có giá trị đối với đề tài của mình. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những vấn đề được nghiên cứu trong các công trình khoa học đó, kết hợp với khảo sát thực tế ở địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, tôi có thể rút ra và kiến nghị những giải pháp giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên để có cơ sở khoa học đánh giá chính sách việc làm cho thanh niên từ thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách việc làm cho thanh niên ở nước ta hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu nói trên, Luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau: - Làm sáng tỏ về mặt lý luận: Khái niệm về việc làm, chính sách việc làm; chính sách việc làm cho thanh niên, thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên; quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về việc làm cho thanh niên; ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên; nội dung các bước trong tổ chức thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên; các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách việc làm cho thanh niên; những yêu cầu cơ bản trong tổ chức thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên; các phương pháp tổ chức thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên; các chủ thể tham gia thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên. 4 - Khảo sát, đánh giá làm rõ thực trạng thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên tại thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội; chỉ rõ ưu điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của các hạn chế bất cập. - Đưa ra được phương hướng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên ở nước ta hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Chính sách việc làm cho thanh niên trên địa bàn thị xã Sơn Tây, cụ thể là nghiên cứu giải pháp và công cụ chính sách việc làm cho thanh niên dưới góc độ khoa học chính sách công. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu tại thị xã Sơn Tây, nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên từ năm 2011 đến nay và đề ra giải pháp hoàn thiện chính sách việc làm cho thanh niên của thị xã Sơn Tây trong thời gian tới. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận: Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã hội học và luận văn triệt để vận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công. Đó là cách tiếp cận quy phạm chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách. Lý thuyết chính sách công được soi sáng qua thực tiễn của chính sách công giúp hình thành lý luận về chính sách chuyên ngành. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp thu thập thông tin: Phân tích và tổng hợp và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước, bộ ngành ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách việc làm ở nước ta nói chung và thực tế thị xã Sơn Tây nói riêng. Đồng thời, thu thập các tài liệu của các tổ chức và học giả quốc tế liên quan đến đề tài trong thời gian qua. Thu thập, tìm hiểu và vận dụng các lý thuyết của ngành chính sách xã hội liên quan đến vấn đề chính sách việc làm cho thanh niên 5 Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu là phương pháp được dùng khá phổ biến trong nghiên cứu khoa học xã hội, đó là phương pháp đối thoại với một đối tượng nhằm thu thập thông tin. Theo dự kiến thiết kế nghiên cứu có phương pháp điều tra bằng bảng hỏi đối với đối tượng là những người nằm trong độ tuổi lao động và những người chưa có việc làm và chưa qua đào tạo. Tuy nhiên, do thời gian có hạn nên tác giả tập trung vào phương pháp phỏng vấn sâu nghiên cứu chính sách. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa lý luận: - Đề tài này có ý nghĩa về mặt lý luận, người học nghiên cứu và vận dụng các lý thuyết về chính sách công. - Kết quả đánh giá nghiên cứu làm sáng tỏ, minh chứng cho các thuyết liên quan đến chính sách công, từ đó hình thành các tiến trình đề xuất các giải pháp chính sách nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả chính sách đã ban hành. Ý nghĩa thực tiễn: - Luận văn cung cấp những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc vận dụng các lý thuyết về chính sách công để xem xét giữa lý thuyết và thực tiễn về chính sách việc làm cho thanh niên ở thị xã Sơn Tây để từ đó nâng cao hiệu quả chất lượng của chính sách trong những năm tiếp theo. - Góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban ngành thị xã trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách một cách hiệu quả trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn được chia làm 3 chương, không kể phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn được kết cấu theo 03 chương sau: - Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên. - Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên tại thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. - Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên ở nước ta hiện nay. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN 1.1. Một số khái niệm: việc làm, chính sách việc làm, chính sách việc làm cho thanh niên, thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên * Khái niệm việc làm Ngày nay, việc làm, thiếu việc làm, thất nghiệp là một trong những vấn đề có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của một đất nước. Tăng việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp là một trong những biện pháp quan trọng để từng bước ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo phát triển bền vững. Đặc biệt đối với Việt Nam, tốc độ tăng dân số, nguồn lao động cao, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm bị hạn chế do khả năng cung về vốn, tư liệu sản xuất còn thấp. Về mặt bản chất, việc làm là quan hệ tích cực, sáng tạo của chủ thể việc làm với hoạt động sống của mình, với ý nghĩa, nội dung và mục đích đặt ra. Tuỳ thuộc vào từng thời điểm, không gian và từng chủ thể có cách tiếp cận vấn đề, đưa ra các khái niệm khác nhau về việc làm. Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội và nhân khẩu; nó thuộc loại vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời sống xã hội. Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng, khái niệm “việc làm” và “thị trường lao động” không hiếm khi bị đồng nhất với nhau. Hệ thống việc làm được đưa thêm hàng loạt chức năng không đúng là tính chất của nó, còn thị trường lao động được tăng thêm tính chất tổng hợp. Khái niệm việc làm và khái niệm lao động có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng không hoàn toàn giống nhau. Việc làm không phải là hoạt động mà là những quan hệ xã hội giữa con người, mà trước hết là những quan hệ kinh tế và pháp lý về việc đưa người lao động vào hợp tác lao động cụ thể trong một chỗ làm việc xác định. Hoạt động lao động, trước hết, đó là một quá trình, còn việc làm là tài sản của chủ thể mà bằng cách nào đấy được đưa vào (hay là loại trừ ra) từ quá trình đó. Về giác độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất trong quá 7 trình sản xuất. Việc làm gắn với quá trình tăng thu nhập, giảm sự nghèo khổ của người lao động, đồng thời không đi ngược lại với lợi ích cộng đồng mà pháp luật quy định. Nói cách khác, việc làm là công việc, những hoạt động có ích, không bị pháp luật cấm và mang lại thu nhập cho bản thân hoặc tạo điều kiện để tăng thu nhập cho các thành viên trong gia đình, đồng thời góp một phần cho xã hội. Nhà khoa học nổi tiếng trong kinh tế lao động người Nga Kotlia A., đã đưa ra khái niệm việc làm như phạm trù kinh tế nói chung tồn tại ở mọi hình thái xã hội. Đồng thời, việc làm là phạm trù tái sản xuất xã hội, mà không thể đồng nhất với lao động và sử dụng sức lao động. Nó định rõ đặc tính dân số hoạt động kinh tế so với những yếu tố sản xuất vật chất thể hiện quan hệ giữa con người về việc tham gia của họ vào trong sản xuất xã hội. Các nhà khoa học kinh tế Anh thì lại cho rằng “việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩ là tất cả những gì quan hệ đến cách kiếm sống của một con người, kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế” 4, tr.315. Theo quan điểm này thì tất cả những việc làm tạo ra thu nhập mà không cần phân biệt có được pháp luật thừa nhận hay ngăn cấm đều được gọi là việc làm. Các nhà kinh tế Sônhin và Grincốp của Liên xô lại cho rằng, “việc làm là sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có ích trong khu vực xã hội hoá của sản xuất, trong học tập, trong công việc nội trợ, trong kinh tế phụ của các nông trang viên” 4, tr.315. Theo khái niệm này thì những người đang đi học, đang tham gia hoạt động trong các lực lượng vũ trang, những người nội trợ đều coi là người có việc làm. Ngày nay, ở Liên Bang Nga khái niệm này được quy định rõ trong Bộ Luật Việc làm của dân cư Liên bang Nga như sau: “việc làm là hoạt động của công dân nhằm thoả mãn những nhu cầu xã hội và của cá nhân, đem đến cho họ thu nhập và không bị pháp luật Liên bang ngăn cấm” 4, tr.315. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khái niệm việc làm chỉ đề cập đến trong mối quan hệ với lực lượng lao động. Khi đó, việc làm được phân thành hai loại: Có trả công (những người làm thuê, học việc...) và không được trả công nhưng vẫn có thu nhập (những người như giới chủ làm kinh tế gia đình...). Vì vậy, “việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó có sự trả công bằng tiền 8 hoặc hiện vật, do có một sự tham gia tích cực, có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất” 4, tr.314. Theo khái niệm này, người có việc làm là người làm việc gì đó để được trả công, lợi nhuận được thanh toán bằng tiền hoặc hiện vật, hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập của gia đình (không được nhận tiền công hay hiện vật). Khái niệm này đã được chính thức nêu tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 của nhà thống kê lao động (ILO.1993) và đã được áp dụng ở nhiều nước. Tuy nhiên, quan niệm này mang nghĩa rất rộng, bao trùm mọi hoạt động lao động của con người. Trong thời đại ngày nay, với quan niệm trên, có rất nhiều người sẽ thuộc diện có việc làm, bao gồm: những hoạt động mang tính hợp pháp và những hoạt động mang tính phi pháp hay là những hoạt động lao động của con người vi phạm pháp luật hoặc bị cho là vi phạm đạo đức xã hội và bị ngăn cấm ở một số nước. Ví dụ, việc buôn bán heroin, mại dâm,... ở các nước như Hà Lan, Colômbia thì không cấm, nhưng những hoạt động này bị cấm ở các nước khác, đặc biệt là các nước Châu Á như: Việt Nam, Trung Quốc... Do vậy, khái niệm trên chỉ mang tính khái quát, là cơ sở nghiên cứu vấn đề chung cho các nước trên thế giới. Ở nước ta, trong thời kỳ tập trung bao cấp, nhà nước đã đứng ra giải quyết việc làm, trực tiếp quản lý nguồn lao động kể từ khâu đào tạo, phân bổ đến việc sử dụng đãi ngộ đối với người lao động thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh. Trong giai đoạn này, những khái niệm về thiếu việc làm, lao động dư thừa, việc làm không đầy đủ... hầu như không được biết đến. Còn khái niệm “thất nghiệp” dường như là điều cấm kị nói tới dưới bất kỳ hình thức nào, trong nền kinh tế quốc dân, xu hướng quốc doanh hoá được coi là một điều tất yếu. Hướng phấn đấu của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh là chuyển nhanh vào khu vực quốc doanh, đối với mỗi công dân là vào đội ngũ viên chức nhà nước. Do đó việc làm và người có việc làm được xã hội thừa nhận và trân trọng là những người làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực Nhà nước và kinh tế tập thể. Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, quan điểm về việc làm được hiểu là hoạt động lao động không bị pháp luật ngăn cấm tạo thu nhập hoặc tạo ra điều kiện cho các thành viên trong hộ gia đình có thêm thu nhập. Điều này cũng phù hợp với các nhìn nhận và phân tích của Nhà nước ta, được quy định 9 trong Điều 13 của Bộ luật Lao động: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm” 27, tr.13. Khái niệm việc làm của Bộ luật Lao động Việt Nam được cụ thể hoá, có thể hiểu dưới ba dạng hoạt động sau: Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc hiện vật; làm các công việc để thu lợi nhân cho bản thân; làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó.Theo quan niệm trên, một hoạt động được coi là việc làm cần thoả mãn hai tiêu chí: Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và cho các thành viên trong gia đình. Điều này chỉ rõ tính hữu ích và nhấn mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm. Thứ hai, hoạt động đó không bị pháp luật ngăn cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm, quan niệm đã rõ ràng hơn so với quan niệm của tổ chức ILO. Hoạt động có ích không giới hạn về phạm vi, ngành nghề và hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Người lao động hợp pháp ngày nay được đặt vào vị trí chủ thể, có quyền tự do hành nghề, tư do liên kết kinh doanh, tự do tìm kiếm việc làm, tự do thuê mướn lao động trong khuôn khổ của pháp luật, không bị phân biệt đối xử dù làm việc trong hay ngoài khu vực Nhà nước. Điều này khẳng định tính chất pháp lý trong hoạt động của người lao động thuộc khu vực ngoài Nhà nước và các khu vực phi chính thức. Hai điều kiện trên có quan hệ chặt chẽ với nhau và là điều kiện cần và đủ để một hoạt động lao động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động tạo ra thu nhập, nhưng vi phạm pháp luật như trộm cắp, buôn bán ma tuý, mại dâm... thì không được thừa nhận là việc làm. Mặt khác một hoạt động là hợp pháp và có ích, nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là việc làm. Nhận thức về việc làm và tạo việc làm đã có sự chuyển biến căn bản. Nếu như trước đây, quan niệm phổ biến là Nhà nước chịu trách nhiệm tạo việc làm và bố trí việc làm cho người lao động thì nay đã chuyển sang quan niệm tạo việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, doanh nghiệp, xã hội và của chính bản thân người lao động. Sự thay đổi quan niệm về việc làm của Nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị 10 trường, coi hoạt động lao động tao ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm, có vai trò quan trọng trong giải phóng sức lao động, thúc đẩy tạo mở việc làm và phát triển thị trường lao động ở nước ta. Quan niệm về việc làm nêu trên đã mang tính khái quát cao, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế, cụ thể là: Thứ nhất, xét trên phạm vi rộng thì tính hợp pháp của một hoạt động lao động được thừa nhận là việc làm tuỳ thuộc vào luật pháp của mỗi quốc gia và mỗi thời kỳ. Có hoạt động là việc làm ở nước này nhưng lại không được thừa nhận là việc làm ở nước khác. Thứ hai, không phải mọi hoạt động có ích và cần thiết cho gia đình và xã hội đều tạo ra thu nhập mặc dù nó góp phần làm giảm chi tiêu cho gia đình thay vì thuê người làm công. Theo quan điểm của Mác: sức lao động do người lao động sở hữu; những điều kiện cần thiết như vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ…có thể do người lao động có quyền sở hữu, sử dụng hay quản lý hoặc không. Bất cứ tình huống nào xảy ra gây nên trạng thái mất cân bằng giữa sức lao động và điều kiện cần thiết để sử dụng sức lao động đó đều có thể dẫn tới sự thiếu việc làm hay mất việc làm. Vì vậy, Mác đã đưa ra khái niệm “việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ...) để sử dụng sức lao động đó”. Khái niệm này mang tính chất bao trùm, là cơ sở lý luận khoa học và phù hợp với thực tiễn. Từ những phân tích trên, tác giả đồng tình với khái niệm việc làm theo quan điểm của Mác: “việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ...) để sử dụng sức lao động đó.” * Khái niệm chính sách việc làm - Khái niệm chính sách: Theo cách hiểu thông thường, chính sách là: “Chủ trương và các biện pháp của một đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị -xã hội” [35, tr.155] Theo Vũ Cao Đàm: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một 11 hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội” - Khái niệm chính sách công: Trên thế giới và ở Việt Nam có rất nhiều quan niệm về chính sách công. Có thể nêu ra một số quan niệm sau: Chính sách công: là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin, 1978); “Chính sách công là tất cả những gì Nhà nước chọn làm hoặc không làm” [42, tr.1] Ở nước ta cũng có một số tác giải nghiên cứu về chính sách công, đã đưa ra các định nghĩa chính sách công như: PGS.TS Lê Chi Mai (Học viện Hành chính Quốc gia) đưa ra khái niệm chính sách công với các nội hàm sau: - Chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước, chính sách do Nhà nước ban hành nên chính sách công có thể coi là chính sách của Nhà nước. - Chính sách công là những quyết định hành động, bao gồm cả những hành vi thực tiễn, chính sách công không chỉ thể hiện dự định của Nhà nước hoạch định chính sách về một vấn đề nào đó mà còn bao gồm những hành vi thực hiện dự định đó. Nếu không có việc thực thi chính sách để đạt được những kết quả nhất định thì những chủ trương đó chỉ là những khẩu hiệu mà thôi. - Chính sách công tập trung giải quyết một vấn đề trong đời sống kinh tế- xã hội theo những mục tiêu xác định. Trong giáo trình “Hoạch định và phân tích chính sách công” của Học viện Hành chính Quốc gia xuất bản năm 2013 cũng đưa ra định nghĩa chính sách công: “Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển”[20] PGS.TS Đỗ Phú Hải (Học viện Khoa học xã hội) đưa ra khái niệm chính sách công: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể và giải pháp thực hiện giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định” 12 Các khái niệm định nghĩa nêu trên có sự khác nhau trong chừng mực nhất định, nhưng đều có chung các nội dung nội hàm sau: + Chính sách công là chính sách của Nhà nước. + Là một tập hợp các quyết định chính trị có mối liên hệ với nhau. + Với những mục tiêu và giải pháp cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề xã hội theo ý chí của đảng cầm quyền. - Khái niệm chính sách việc làm Chính sách việc làm là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các mục tiêu, các giải pháp và công cụ nhằm sử dụng lực lượng lao động và tạo việc làm cho lực lượng lao động đó. Nói cách khác, chính sách việc làm là sự thể chế hóa pháp luật của Nhà nước trên lĩnh vực lao động và việc làm, là hệ thống các quan điểm, phương hướng mục tiêu và giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động. * Khái niệm chính sách việc làm cho thanh niên Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng thì: Thanh niên là người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng thành [29,tr.35]. Thanh niên thường được xem như một nhóm xã hội lứa tuổi hoặc một lát cắt chu kỳ sống của con người (tuổi thanh xuân), có sự khác nhau với nhóm đối tượng lứa tuổi khác vì có một số đặc điểm lý do lứa tuổi. Luật thanh niên được Quốc hội khóa XI thông qua có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2007 quy định “Thanh niên… là công dân của nước Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi”. Theo Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Hướng dẫn thực hiện Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thì độ tuổi đoàn viên là từ đủ 16 tuổi (15 tuổi + 1 ngày) đến 30 tuổi. Theo Điều lệ Hội LHTN Việt Nam, độ tuổi hội viên từ 16 tuổi đến 30 tuổi. Từ những khái niệm nêu ở trên, có thể hiểu nêu ra khái niệm chính sách việc làm cho thanh niên là: quan điểm, các quyết định chính trị có liên quan với nhau của Nhà nước về việc làm cho thanh niên với mục tiêu, giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm quyền có việc làm và giải quyết việc làm cho thanh niên. * Thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên 13 Thực hiện chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực, là bước đặc biệt quan trọng trong chu trình chính sách: hiện thực hóa chính sách, đưa chính sách vào cuộc sống. Chất lượng hiệu quả thực hiện chính sách phụ thuộc vào năng lực của đội ngũ cán bộ ,công chức trong thực hiện chính sách. Thực trạng năng lực thực hiện chính sách ở nước ta cho ta thấy, bên cạnh những ưu điểm còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Do đó nghiên cứu về vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách có ý nghĩa khoa học, thiết thực và cấp bách hiện nay. Từ những luận giải trên đây có thể đi đến một khái niệm cơ bản về thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên như sau: Thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên là toàn bộ quá trình chính sách vào đời sống xã hội theo một quy trình, thủ tục chặt chẽ và thống nhất nhằm giải quyết vấn đề việc làm đang diễn ra đối với thanh niên trong một phạm vi không gian và thời gian nhất định. Hoạch định chính sách đúng, có chất lượng là rất quan trọng, nhưng thực hiện đúng chính sách còn quan trọng hơn. Có chính sách đúng nếu không thực hiện sẽ trở thành khẩu hiệu suông, không những không có ý nghĩa, mà còn ảnh hưởng đến uy tín của chủ thể hoạch định và ban hành chính sách . Nếu chính sách không được thực hiện sẽ dẫn đến sự thiếu tin tưởng và sự phản ứng của nhân dân đối với nhà nước gây bất lợi về mặt chính trị và xã hội, gây những khó khăn, bất ổn cho nhà nước trong quản lý. 1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về việc làm cho thanh niên 1.2.1. Quan điểm của Đảng về việc làm cho thanh niên Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: tương lai của đất nước, của dân tộc nằm ngay trong tay các thế hệ thanh niên. Người khẳng định, thanh niên là lực lượng cách mạng hùng hậu, bộ phận quan trọng của dân tộc, là lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của cha anh. Khi đất nước ta còn nằm dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến, ngay từ năm 1925 trong thư gửi thanh niên Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, đất nước sẽ không còn nếu thanh niên không được "hồi sinh", thức tỉnh. Để hồi sinh bộ phận quan trọng này của dân tộc, Hồ Chí Minh đã mở trường huấn luyện chính trị, xuất bản sách báo, sáng lập ra Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội để thức tỉnh một thế hệ thanh niên yêu nước trong những thập niên đầu thế kỷ XX. 14 Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, đất nước độc lập, thống nhất, Bác dạy: "Thanh niên là chủ tương lai của nước nhà". Bác ví tuổi thanh niên là mùa xuân của xã hội " Một năm khởi đầu từ mùa xuân, một đời khởi đầu từ tuổi trẻ, tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội". Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bác luôn đặt niềm tin vào sức mạnh của thanh niên: "Với một thế hệ thanh niên hăng hái kiên cường, chúng ta nhất định thành công trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc". Người còn chỉ rõ, thanh niên là người kết nối quá khứ với tương lai: "Thanh niên là người tiếp sức mạnh cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai". Từ vai trò to lớn của thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và tương lai của dân tộc, Bác căn dặn, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết. Là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Bác luôn chú trọng tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Chính phủ đối với công tác thanh niên. Ngay sau Cách mạng tháng Tám, Người đã chỉ thị thành lập Bộ Thanh niên, rồi đến Nha Thanh niên trong Chính phủ để chăm lo công tác thanh niên. Bác luôn nhắc nhở các bộ, các ngành ban hành những chính sách nhằm giải quyết những vấn đền thuộc lợi ích nguyện vọng chính đáng của thanh niên; tổ chức Đoàn thanh niên phải liên hệ với các lực lượng của Chính phủ. Với thanh niên, Bác dạy: "Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho lợi ích nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừngnào". Đối với tổ chức Đoàn, Người chỉ rõ: "Muốn củng cố và phát triển thì Đoàn phải liên hệ rộng rãi và chặt chẽ với các tầng lớp thanh niên. Phải quan tâm đến đời sống, công tác và học tập của thanh niên, phải tránh thành kiến, hẹp hòi, cô độc. Phải thật thà đoàn kết với anh chị em thanh niên trong Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam". Tất cả những điều bác dạy là nhiệm vụ trước hết của thế hệ trẻ Việt Nam, đồng thời cùng là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Suy rộng ra là trách nhiệm của toàn xã hội trong việc chăm lo "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau". Thấm nhuần tư tưởng và đọa đức của Hồ Chí Minh, Đảng ta lãnh đạo công tác thanh niên, lãnh đạo tổ chức Đoàn trước hết bằng đường lối, chủ trương, chính 15 sách. Các chủ trương ấy thể hiện cụ thể trong các văn kiện Đại hội, các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; thể hiện bằng các thông tư, chỉ thị và cả trong các bài phát biểu, bài nói chuyện của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Đại hội Đảng lần thứ I (Tháng 3/1935) chỉ rõ: Nhiệm vụ chính trị của Đoàn là phải củng cố và mở rộng tổ chức, đặc biệt ở những vùng quan trọng như nhà máy, hầm mỏ, đồn điền... Phải dùng các hình thức công khai và bán công khai, bí mật và lập ra các tổ chức có tính phổ biến như Hội thể thao, Câu lạc bộ, Hội đọc sách, Hội cứu tế...để tập hợp thanh niên. Đại hội lần thứ II của Đảng (Tháng 2/1951) nhấn mạnh công tác vận động thanh niên trong tình hình mới. Nhiệm vụ trọng tâm của Đoàn là đẩy mạnh công tác vận động thanh niên ở vùng tạm chiếm, xây dựng Đoàn thanh niên cứu quốc thành tổ chức trung kiên; tăng cường công tác giáo dục thiếu niên, nhi đồng. Đại hội lần thứ III của Đảng (Tháng 9/1960) nêu rõ: "Thanh niên ta đã nêu cao tinh thần hy sinh anh dũng trong kháng chiến và lao động hòa bình. Thanh niên lại là lớp người đang xây dựng chủ nghĩa xã hội và sẽ xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở nước ta. Đảng ta phải hết sức chú trọng giáo dục và rèn luyện thế hệ trẻ thành những chiến sĩ trung thành với Tổ quốc, với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, sẵn sàng mang hết nhiệt tình của tuổi trẻ tham gia xây dựng xã hội mới". Đại hội IV của Đảng (Tháng 12/1976) yêu cầu thế hệ trẻ Việt Nam phát huy vai trò xung kích, sáng tạo, cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, vượt qua thiên tai, đập tan mọi âm mưu của các thế lực thù địch, kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ; vững vàng kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh biến động phức tạp của tình hình thế giới. Đại hội V của Đảng (Tháng 3/1982) đánh giá: Thanh niên nước ta đã trưởng thành nhanh chống và có những cống hiến xứng đáng với truyền thống vẻ vang của thế hệ và của cả dân tộc...Đảng ta luôn luôn đánh giá đúng bản chất tốt đẹp, khả năng cách mạng của thanh niên và vai trò chính trị của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan