Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển nguồn nhân lực ở việt nam hiện na...

Tài liệu Thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển nguồn nhân lực ở việt nam hiện nay

.PDF
169
763
78

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH PHAN HUY TRƯỜNG THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ Mã số: 62 22 03 02 Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. NGUYỄN MINH HOÀN 2. PGS.TS. ĐẶNG QUANG ĐỊNH HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả luận án Phan Huy Trường MỤC LỤC Trang 1 MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về thực hiện công bằng xã hội và về phát triển nguồn nhân lực 1.2. Các công trình nghiên cứu về thực trạng vai trò thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam 1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến quan điểm và giải pháp phát huy vai trò thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển nguồn nhân lực 1.4. Hướng nghiên cứu của luận án 5 5 15 19 24 Chương 2: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 2.1. Thực hiện công bằng xã hội - Một số vấn đề lý luận 2.2. Phát triển nguồn nhân lực - Một số vấn đề lý luận 2.3. Vai trò của thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam 27 27 40 50 Chương 3: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Tác động của việc thực hiện công bằng về cơ hội trong một số lĩnh vực cơ bản đối với phát triển nguồn nhân lực 3.2. Thành tựu và hạn chế của vai trò thực hiện công bằng xã hội đối với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay 69 69 93 Chương 4: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 4.1. Một số quan điểm chủ yếu nhằm phát huy vai trò thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay 4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114 114 125 151 153 154 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CBXH : Công bằng xã hội CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa NNL : Nguồn nhân lực NNL CLC : Nguồn nhân lực chất lượng cao Nxb : Nhà xuất bản DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 3.1: Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành thời kỳ 1991-2014 97 Bảng 3.2: Phân bố lao động theo thành phần kinh tế 100 Bảng 3.3: Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo năm 2014 107 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ khi xã hội phân chia giai cấp, CBXH luôn luôn là khát vọng, là mục tiêu đấu tranh của con người và xã hội loài người. Ngày nay, thực hiện công bằng xã hội trở thành một trong những tiêu chí đánh giá sự phát triển bền vững và tiến bộ xã hội của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, thực hiện CBXH đang trở thành nhu cầu bức thiết, điều kiện đem lại sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Trong xây dựng và phát triển đất nước, Việt Nam lựa chọn con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc lựa chọn con đường phát triển ngày càng khẳng định rõ hơn, sâu sắc hơn nhu cầu thực hiện CBXH. Hơn thế nữa, thực hiện CBXH không chỉ là nhu cầu, điều kiện, động lực phát triển mà còn là mục tiêu của sự phát triển phát triển đất nước Việt Nam và khẳng định rõ mục tiêu đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định là xây dựng đất nước nhằm thực hiện xã hội "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" [37, tr.16]. Trên thế giới hiện nay, trong sự phát triển của các quốc gia lợi thế so sánh của sự phát triển nhanh và bền vững đang chuyển dần từ yếu tố giàu về tài nguyên, tiền vốn, giá nhân công rẻ sang lợi thế về trình độ trí tuệ của con người và về phát huy vai trò của NNL trong tiến trình phát triển đó. Vì vậy, phát triển NNL đang trở thành một yêu cầu quan trọng, là nguồn tài sản quý giá, là nhân tố góp phần đem lại sự tăng trưởng, phát triển kinh tế của mọi quốc gia, điều này được minh chứng qua mô hình tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Sinhgapo….và một số nước khác trên thế giới. Bởi thế, phát huy vai trò NNL trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội đang trở thành vấn đề chiếm vị trí trọng tâm trong hệ thống các nguồn lực trong sự phát triển của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, thực hiện CBXH đang trở thành một nội dung cơ bản trong đời sống kinh tế - xã hội và đặc biệt 2 thực hiện CBXH với việc phát triển NNL đang đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn bức thiết. Nếu không giải quyết tốt vấn đề này, nó sẽ là trở lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Tại sao việc thực hiện CBXH, việc phát triển NNL và việc thực hiện CBXH đối với phát triển NNL xuất hiện những vấn đề phức tạp, nó có là trở lực đối với sự phát triển đất nước hay không? Liệu có thể thực hiện CBXH đối với phát triển NNL trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, trong điều kiện thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH, hướng tới phát triển kinh tế tri thức, trong điều kiện số lượng NNL đang tăng nhanh, trong điều kiện nước ta đang được hưởng lợi từ “dân số vàng” hay không? Để giải đáp câu hỏi này một vấn đề cấp thiết khác cũng đang được đặt ra trong thực hiện công bằng xã hội đối với việc phát triển NNL, vạch ra và tìm phương hướng giải quyết những tồn tại, những hạn chế, những vấn đề có liên quan trực tiếp đến việc thực hiện công bằng xã hội đối với phát triển NNL và có ý nghĩa quan trọng đối với giải quyết vấn đề đó nhằm tạo lên động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hướng tới thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Với những lý do đó, tôi lựa chọn đề tài: "Thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử góp phần làm sáng tỏ vấn đề nêu trên. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích, khảo sát thực trạng thực hiện CBXH với việc phát triển NNL ở Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của thực hiện CBXH với việc phát triển NNL ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án có các nhiệm vụ chính: 3 Thứ nhất, khái quát một số vấn đề lý luận về thực hiện CBXH và phát triển NNL. Thứ hai, khảo sát thực trạng vai trò của thực hiện CBXH với việc phát triển NNL ở Việt Nam. Thứ ba, đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm phát huy vai trò của thực hiện CBXH với việc phát triển NNL. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu vai trò thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Thực hiện CBXH diễn ra trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội, trong nghiên cứu của mình, tôi tập trung vào nghiên cứu thực hiện công bằng xã hội về cơ hội đối với việc phát triển NNL. - Nghiên cứu thực hiện công bằng về cơ hội đối với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1986 đến nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án dựa trên hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện CBXH, về phát triển NNL và thực hiện CBXH với việc phát triển NNL. Ngoài ra, luận án còn kế thừa và phát triển những quan điểm lý luận của các nhà khoa học trong nước và thế giới về những nội dung có liên quan. 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận điểm mang tính nguyên tắc phương pháp luận trong tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở phương pháp luận định hướng cho quá trình nghiên cứu, thực hiện nhiệm vụ của luận án. 4 - Luận án kết hợp với việc sử dụng phương pháp: khái quát hoá, trừu tượng hoá, kết hợp lịch sử - lôgic, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch, hệ thống - cấu trúc, phân tích....để triển khai nhiệm vụ đề ra. 5. Đóng góp về khoa học của luận án Với tư cách là một công trình nghiên cứu từ góc độ triết học, từ quan điểm duy vật biện chứng và quan điểm duy vật lịch sử về thực hiện CBXH với việc phát triển NNL, luận án có những điểm mới sau: - Phân tích và đánh giá khái quát về thực trạng vai trò thực hiện CBXH với việc phát triển NNL trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay. - Đề xuất một giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao vai trò của thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận án góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Luận án góp phần tìm động lực NNL đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay. - Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu. Những quan điểm và giải pháp được luận án đề xuất có thể gợi mở cho các cơ quan quản lý có những điều chỉnh phù hợp để thực hiện chính sách đảm bảo vai trò của thực hiện CBXH với việc phát triển NNL. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án bao gồm 4 chương, 11 tiết. 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Công bằng xã hội, thực hiện CBXH, phát triển NNL đang được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, đây vừa là vấn đề lý luận nhưng đồng thời cũng là vấn đề thực tiễn phức tạp, cấp bách. Ở Việt Nam, có nhiều đề tài khoa học, sách, tạp chí khoa học, các nhà nghiên cứu vấn đề CBXH, phát triển NNL và những vấn đề ít nhiều ở khía cạnh này hay khía cạnh khác liên quan đến việc thực hiện CBXH với việc phát triển NNL. 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về thực hiện công bằng xã hội Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hướng tới và thực hiện "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" [37, tr.16]. Đặc biệt, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề thực hiện CBXH được toàn xã hội quan tâm nhiều hơn. Đề cập đến vấn đề CBXH và thực hiện CBXH, trong cuốn sách "Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội" của tập thể tác giả Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Trần Văn Đoàn, Utrich Dornberg [43] đã nêu lên vấn đề CBXH và thực hiện CBXH; bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Lê Hữu Tầng [126]; "Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" của tác giả Phạm Xuân Nam [103]; "Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" của tác giả Nguyễn Duy Quý [122]; "Công bằng xã hội ở Việt Nam: nhận diện và giải pháp thực hiện" của tác giả Đỗ Huy [63]; "Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay" của tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm [141]; "Công bằng xã hội và phát triển con người bền vững" của tác giả Phạm Thành Nghị [109]; 6 trong công trình nghiên cứu, các tác giả đã phân tích quan niệm về CBXH, về thực hiện CBXH, làm nổi bật quan niệm về CBXH và thực hiện CBXH trên nhiều khía cạnh khác nhau, trình bày quan hệ CBXH với bình đẳng xã hội, quan hệ giữa CBXH với tăng trưởng kinh tế; các tác giả đã chỉ ra những nguyên tắc thực hiện CBXH. Trong nghiên cứu, đề cập đến khái niệm CBXH và bình đẳng xã hội, tác giả Lê Hữu Tầng cho rằng, hai khái niệm này tuy gần nhau nhưng dẫu sao chúng cũng có sự khác nhau. Trong đó tác giả chỉ ra nói tới bình đẳng xã hội là người ta muốn nói về sự ngang bằng nhau giữa người với người về một phương diện xã hội nào đấy, còn khi nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người về mọi phương diện, là nói tới sự bình đẳng xã hội hoàn toàn. Tác giả đã chỉ ra rằng CBXH cũng chỉ là một dạng của bình đẳng xã hội, sự bình đẳng đó chỉ về một phương diện hoàn toàn xác định: phương diện quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ theo nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau. Tác giả Phạm Xuân Nam lại chỉ ra khía cạnh khác về thực hiện CBXH, đó là đến nay, Việt Nam vẫn còn là một nước đang phát triển với mức thu nhập thấp. Trong đó, tác giả chỉ ra rằng ở Việt Nam với khoảng 60% lực lượng lao động xã hội tập trung trong các ngành nông - lâm - ngư; còn ngành công nghiệp thì nhỏ bé, ngành dịch vụ chưa phát triển; nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được thể chế hóa đồng bộ; chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém. Tác giả đã khẳng định rằng đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, miền núi..v.v...còn nhiều khó khăn, khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn đang có xu hướng doãng ra. Trong nghiên cứu của mình, tác giả đề cập đến việc thực hiện CBXH trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với tác giả Đỗ Huy, nghiên cứu về thực hiện CBXH, tác giả chỉ ra các thời kỳ biểu hiện của thực hiện CBXH, như thời kỳ trước năm 1945, Việt Nam là một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến; thời kỳ sau cách mạng Tháng Tám năm 1945; thời kỳ từ năm 1975 đến năm 1986 và từ năm 1986 đến nay, Việt Nam 7 thực hiện CBXH theo cơ chế thị trường. Trong đó, tác giả nêu lên nhận định về thực hiện CBXH diễn ra qua các thời kỳ và chỉ ra rằng việc thực hiện, thiết lập CBXH toàn diện trong cơ chế thị trường hiện nay, Việt Nam cần thực hiện nhiều giải pháp, trong đó việc thực hiện các giải pháp cần tiến hành trong các lĩnh vực như ngân hàng, tài chính, thuế, các chính sách xã hội.v.v...và cần phải phát huy tối đa năng lực sáng tạo của con người trong các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác giả khẳng định rằng Việt Nam đang phấn đấu xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là con đường duy nhất đúng để đảm bảo thực hiện CBXH theo nội dung mà nhân dân mong đợi, là: moi người đều có công ăn việc làm; mọi người đều sống no đủ và hạnh phúc; dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đối với tác giả Phạm Thành Nghị trong nghiên cứu về thực hiện CBXH, chỉ ra rằng vấn đề CBXH xuất hiện ở tất cả các lĩnh vực của cuộc sống và công bằng được phân bổ trong nhiều lĩnh vực, gắn với nhu cầu của con người, như các quyền tự do cơ bản, tự do chính trị, quyền lực, thẩm quyền, vị thế, thu nhập, sự giàu có.v.v....Tác giả chỉ ra, thông thường, sự công bằng liên quan đến những thứ còn thiếu thốn, tuy nhiên không phải lúc nào cũng đúng như vậy. Tác giả ví dụ, lúc nào người ta cũng cần được bảo đảm sự tự do cơ bản trong một nền dân chủ có trật tự. Tuy nhiên, ngay cả khi của cải xã hội dư thừa và mang lại những giá trị thỏa mãn tự thân đối với cá nhân thì sự phân bổ các nguồn lực trong xã hội cũng vẫn phải tuân thủ nguyên tắc công bằng. Trong đó, tác giả nêu lên nội dung về CBXH và phát triển con người bền vững, đó là tạo ra sự bình đẳng trong cơ hội tiếp cận nguồn lực và phát triển năng lực giữa các nhóm người, tộc người, vùng miền.v.v...trong đó, sự tham gia của người dân thông qua các tổ chức xã hội là rất quan trọng, cần tạo dựng bộ máy và nguyên tắc làm việc minh bạch. Sự tham gia của người dân vào việc ban hành các quyết định và giám sát việc thực thi các quyết định, đó là một bảo đảm cho sự phát triển con người bền vững. Vậy, trong nghiên cứu về CBXH, về thực hiện CBXH của các tác giả, mặc dù các tác giả đã chỉ ra nhiều nội dung khác nhau trong việc thực hiện CBXH, nhưng trong các nghiên cứu đó chưa chỉ ra làm thế nào để phát huy vai trò của thực 8 hiện CBXH với việc phát triển NNL. Do vậy, nhiệm vụ đặt ra với chúng tôi, một mặt kế thừa những nội dung cơ bản của các tác giả nghiên cứu về thực hiện CBXH, mặt khác chúng tôi phải phân tích để chỉ ra vai trò của thực hiện CBXH đối với việc phát triển NNL trong thực tiễn kinh tế -xã hội, nhằm phát huy tính tích cực NNL, yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất trong thực tiễn kinh tế - xã hội. Phân tích trên bình diện lý luận về CBXH, thực hiện CBXH, trong cuốn sách: "Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay" của Phạm Thị Ngọc Trầm [141] đã đề cập đến nội dung lý luận về thực hiện CBXH. Trong đó, tác giả chỉ ra phát triển bền vững là chiến lược phát triển mới của xã hội loài người, điều này đã được khẳng định lần đầu tiên tại hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển ở Rio De Janeiro (Brazin) năm 1992. Tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm chỉ ra mục tiêu cơ bản của sự phát triển bền vững của các quốc gia, nằm trong "ba trụ cột phụ thuộc và hỗ trợ lẫn nhau của phát triển bền vững cũng chính là ba mục tiêu cơ bản của sự phát triển bền vững: kinh tế, xã hội nhân văn và sinh thái - môi trường" [141, tr.276], trong các mục tiêu của sự phát triển bền vững đó, tác giả chỉ ra thực hiện CBXH nằm ở mục tiêu xã hội nhân văn trong phát triển. Trong đó, tác giả nêu lên quan điểm về CBXH và thực hiện CBXH, đó là: Công bằng xã hội là sự ngang bằng nhau giữa người và người, nhưng đó là nhất quyết không phải là sự chia đều mọi của cải của xã hội cho mọi người một cách vô điều kiện...., là sự ngang bằng nhau trong mối quan hệ giữa người và người. Sự ngang bằng nhau đó, phải tuân thủ theo nguyên tắc về sự phù hợp giữa cống hiến và hưởng thụ [141, tr.279]. Tác giả khẳng định thực hiện CBXH với nội dung cơ bản là vấn đề phân phối và tiền đề quan trọng để thực hiện CBXH là vấn đề bình đẳng về cơ hội. Trong đó, tác giả chỉ ra việc xuất hiện thiếu sót, hiện tượng tiêu cực nảy sinh trong quá trình thực hiện CBXH gắn với việc kết hợp giữa mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội nhân văn. Có thể nói nội dung thực hiện CBXH mà tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm chỉ ra, mang đến những giá trị lý luận to lớn cho chúng tôi trong việc nghiên cứu về 9 thực hiện CBXH. Vấn đề đặt ra với chúng tôi trong nghiên cứu là, làm thế nào sử dụng nguyên tắc phân phối như những cách thức nhằm đảm bảo việc thực hiện CBXH đối với phát triển NNL trong thực tiễn kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Theo hướng tiếp cận chỉ ra vai trò của thực hiện CBXH thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội, trong cuốn sách: "Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội" của tác giả Nguyễn Minh Hoàn [55] chỉ ra vị trí, vai trò của CBXH trong tiến bộ xã hội. Tác giả đã khái lược lịch sử quan điểm về CBXH, từ quan niệm về CBXH trong xã hội nguyên thủy đến xã hội chiếm hữu nô lệ, đến xã hội phong kiến, đến xã hội tư bản chủ nghĩa và quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách thức thực hiện CBXH. Tác giả cho rằng, trong tiến trình phát triển lịch sử xã hội, ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất định, nội dung của thước đo CBXH luôn bị quy định bởi quan hệ phân phối và quan hệ trao đổi, mà các quan hệ này lại bị quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, đối với sức lao động của người lao động tham gia vào sản xuất. Trong đó, tác giả khẳng định tiêu chí thực hiện CBXH luôn bị quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất và đối với lao động. Tác giả Nguyễn Minh Hoàn chỉ ra thực hiện CBXH là: một nguyên tắc phân phối lợi ích vì nguyên tắc phân phối lợi ích công bằng dựa vào một thước đo để phân chia lợi ích xã hội. Nhưng khác với thước đo của nguyên tắc phân phối nói chung, thước đo của nguyên tắc phân phối lợi ích công bằng chính là sự bình đẳng giữa người với người trong mối quan hệ tương ứng giữa cống hiến và hưởng thụ theo nguyên tắc: cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau....khiến cho mỗi người sẵn sàng tự nguyện lao vào hoạt động "hơn nữa" và thông qua sự hoạt động "hơn nữa" ấy mà thúc đẩy xã hội vận động phát triển [55, tr.112]. Tác giả chỉ ra rằng việc thực hiện CBXH trong thực tiễn không chỉ tạo sự ổn định - điều kiện tối cần thiết cho sự phát triển theo hướng tiến bộ của xã hội mà còn tạo ra bầu không khí, tâm lý, xã hội lành mạnh, phấn khởi, có tác dụng kích thích tính tích cực, năng động của con người trong hoạt động kinh tế - xã 10 hội. Tác giả khẳng định tác dụng kích thích đó của CBXH được thực hiện trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội không kém bao nhiêu so với thực hiện CBXH trong lĩnh vực kinh tế. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Minh Hoàn chỉ ra những khía cạnh có giá trị lớn cho chúng tôi trong việc nghiên cứu. Tác giả đã chỉ ra rằng thực hiện CBXH sẽ kích thích tính tích cực của con người tham gia hoạt động kinh tế - xã hội. Nhưng trong những nội dung nghiên cứu đó, tác giả chưa chỉ ra vai trò của thực hiện CBXH đối với việc phát triển NNL. Tác giả chưa cho thấy làm thế nào để phát huy tác động của vai trò thực hiện CBXH nhằm thúc đẩy NNL phát triển đáp ứng yêu cầu của sự vận động cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế. Cùng với phân tích về thực hiện CBXH, trong bài "Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" của tác giả Nguyễn Duy Quý [122] đã phân tích cho thấy việc thực hiện CBXH trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tác giả chỉ ra rằng, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, cần phải thực hiện tốt các nguyên tắc phân phối, thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh, theo tác giả đây là những nguyên tắc phân phối công bằng phù hợp với điều kiện của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam và việc thực hiện các nguyên tắc này có tác dụng lôi cuốn mọi người tham gia tích cực vào sản xuất, kinh doanh. Và trong điều kiện thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trước nhu cầu cấp bách phải thu hút vốn đầu tư để có điều kiện mở rộng sản xuất, thực hiện các hình thức phân phối khác ngoài việc thực hiện phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế, việc thực hiện phân phối theo vốn và nguồn lực khác phải được coi là công bằng, đây là nội dung về thực hiện CBXH trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, tác giả chỉ ra khi tăng trưởng kinh tế nhanh trong điều kiện cơ chế thị trường sẽ xuất hiện mâu thuẫn giữa sự tăng trưởng kinh tế với phân phối các giá trị vật chất cũng như các giá trị tinh thần do tăng trưởng kinh tế đem lại. Tác giả chỉ ra vấn đề CBXH được đặt ra là vấn đề quan trọng nhất. 11 Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Duy Quý đã chỉ ra thực hiện CBXH thông qua nguyên tắc phân phối trong điều kiện tồn tại nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh tính tích cực của nó, việc thực hiện các hình thức phân phối đó làm xuất hiện những bất công. Trong luận án chúng tôi sẽ tiếp tục khai thác, làm rõ thêm vai trò của nguyên tắc phân phối nhằm thực hiện CBXH, nhưng yêu cầu đặt ra là làm thế nào để phát huy vai trò thực hiện CBXH nhằm thúc đẩy sự phát triển NNL trong điều kiện tồn tại kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và cần khai thác các nguyên tắc phân phối như thế nào để góp phần thực hiện CBXH nhằm tạo nhân tố khách quan thúc đẩy NNL phát triển. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực Thực hiện phát triển NNL là một trong ba khâu đột phá chiến lược, được khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng: "phát triển nhanh NNL, nhất là NNL CLC, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển NNL với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ" [35, tr.106]. Đề cập đến quan niệm NNL, phát triển NNL, trong tác phẩm, "Phát triển nguồn nhân lực: kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta" của Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm [149], trong đó các tác giả đã nêu khái quát về vai trò của NNL trong nền kinh tế và kinh nghiệm phát triển NNL dựa trên phát triển giáo dục ở một số nước trên thế giới. Theo các tác giả, vận dụng hiệu quả những kinh nghiệm quý báu đó vào thực tiễn nước ta sẽ góp phần thúc đẩy phát triển NNL và tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Trong nghiên cứu của mình, các tác giả đã phần nào chỉ ra một số khía cạnh khác nhau của việc thực hiện CBXH gắn với thực hiện phát triển giáo dục nhằm phát triển NNL. Một mặt, chúng tôi kế thừa những nội dung về việc phát triển NNL nói trên, nhưng mặt khác, trong nghiên cứu đặt ra đối với chúng tôi cần phải chỉ ra làm thế nào thúc đẩy phát triển NNL trên cơ sở phát huy vai trò của thực hiện CBXH trong lĩnh vực giáo dục. Với hướng tiếp cận nghiên cứu về NNL, về nguồn lực con người, trong cuốn "Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa " 12 của tác giả Phạm Minh Hạc [47] đã tập trung trình bày khái quát lịch sử hình thành và phát triển của ngành khoa học xã hội nghiên cứu con người trên thế giới và ở Việt Nam; cũng như quá trình nghiên cứu về NNL nhằm phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta; một số kết quả bước đầu trong chương trình nghiên cứu con người và NNL; từ đó, đưa ra một số đề xuất và kiến nghị về chiến lược và chính sách nhằm phát triển toàn diện con người và NNL ở Việt Nam trong điều kiện đất nước đang bước vào thực hiện CNH, HĐH. Trong đó, tác giả đã khẳng định rằng phát triển NNL là một mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển con người. Đứng về phương diện xã hội thì toàn bộ chiến lược phát triển con người cuối cùng hình thành NNL và NNL ngày nay đã trở thành một khái niệm công cụ để các quốc gia điều hành, thực thi chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, tác giả đã chỉ ra: Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao động được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung), bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH [47, tr.269]. Tác giả khẳng định rằng việc đầu tư vào con người (thông qua giáo dục, khoa học công nghệ và chăm lo sức khỏe...) chính là đầu tư cho phát triển và phải làm sao phát triển NNL, phát triển vốn con người để họ có đủ sức khỏe, trí tuệ, kỹ năng nghề nghiệp, lương tâm nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu công việc. Trước hết, những nội dung nghiên cứu của tác giả Phạm Minh Hạc đã cung cấp cho chúng tôi cơ sở lý luận tìm hiểu về phát triển NNL trong điều kiện Việt Nam đang thực hiện sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH. Nhưng trong nghiên cứu, tác giả chưa chỉ ra cách thức làm thế nào sử dụng có hiệu quả vai trò của thực hiện CBXH nhằm thúc đẩy phát triển NNL trong thực tiễn khi đất nước đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH. Bởi, một trong nhân tố góp phần vào đảm bảo thành công sự nghiệp CNH, HĐH là vai trò của 13 NNL, phát triển NNL là tất yếu, là yêu cầu đặt ra của sự nghiệp CNH, HĐH, nhưng làm cách nào để phát huy hiệu quả vai trò thực hiện CBXH tác động thúc đẩy phát huy vai trò của NNL ngay càng hiệu quả trong tiến trình CNH, HĐH đó thì chưa được tác giả đề cập đến, vậy, đặt ra nhiệm vụ đối với chúng tôi trong triển khai nội dung luận án là phải làm rõ vai trò thực hiện CBXH đối với phát triển NNL trong sự phát triển đất nước, trong tiến trình CNH, HĐH. Trong cuốn sách "Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực: Niên giám nghiên cứu số 3" của Phạm Minh Hạc, Phạm Thành Nghị và Vũ Minh Chi [49] đã khẳng định vai trò và thành tựu của việc thành lập viện nghiên cứu con người, nêu lên vấn đề nghiên cứu con người và NNL đầu thế kỷ XXI. Các tác giả đã chỉ ra những khía cạnh nghiên cứu về NNL và nguồn vốn xã hội. Đề cập đến NNL, tác giả Phạm Minh Hạc chỉ ra NNL là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương, là nguồn lao động được chuẩn bị sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, đề cập đến phát triển NNL, tác giả chỉ ra phát triển NNL là công việc đào tạo, đào tạo lại nguồn lao động xã hội, làm cho lực lượng này trở thành những lực lượng lao động hữu ích… từ đó, tác giả khẳng định: học vấn chính là điều kiện tiên quyết để phát triển NNL. Những nội dung nghiên cứu trên đây là những cơ sở lý luận quan trọng để chúng tôi kế thừa, tiếp tục triển khai nghiên cứu trong luận án, nghiên cứu của tác giả Phạm Minh Hạc cung cấp cho chúng tôi phương pháp để làm thế nào có thể phát triển NNL, trong điều kiện nhân loại và Việt Nam đang bước vào thế kỷ XXI. Trong nghiên cứu, các tác giả chỉ ra những khía cạnh nghiên cứu về con người, về việc hình thành NNL và tác động của môi trường tâm lý xã hội, của hoạt động kinh tế, của vấn đề dân chủ, của giáo dục đến việc phát triển NNL, cách thức sử dụng nhân tài,.... trong nội dung nghiên cứu của các tác giả chưa đề cập đến tác động vai trò của thực hiện CBXH nhằm thúc đẩy việc phát triển NNL, nhưng những nội dung đó cung cấp cho chúng tôi những nội dung cần thiết để chúng tôi kế thừa, khai thác, sử dụng trong quá trình triển khai những nhiệm vụ trong luận án của mình. 14 Trong đề tài khoa học: "Nghiên cứu văn hoá, con người, nguồn nhân lực đầu thế kỷ XXI" của Nhiều tác giả [111], trong đó có các công trình "Vấn đề nghiên cứu văn hóa - con người - nguồn nhân lực ở Việt Nam đầu thế kỷ XXI" tác giả Phạm Minh Hạc; đề tài "nghiên cứu và phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực đầu thế kỷ XXI" của tác giả Nguyễn Phú Trọng; đề tài "Khoa học xã hội Việt Nam với nhiệm vụ nghiên cứu văn hóa, con người, nguồn nhân lực đầu thế kỷ XXI" của tác giả Đỗ Hoài Nam; đề tài "Nghiên cứu nguồn nhân lực ở Việt Nam: khía cạnh kinh tế và khía cạnh văn hóa" của tác giả Phạm Văn Đức; đề tài "Để có nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong thế kỷ XXI" của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn. Các tác giả tham gia đề tài nghiên cứu cấp nhà nước đã chỉ ra và làm rõ vấn đề về phát triển NNL, vai trò phát triển NNL đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong những năm đầu thế kỷ XXI, mối quan hệ giữa phát triển văn hóa với việc phát triển con người ở Việt Nam. Đề tài khoa học này là tập hợp các công trình nghiên cứu về phát triển NNL, về gắn phát triển văn hóa với phát triển con người, về xây dựng NNL đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước khi bước vào thế kỷ XXI. Trong các công trình trong hệ thống đề tài nghiên cứu này đã chỉ ra vai trò của NNL, về việc phát triển NNL, về yêu cầu đặt ra đối với phát triển NNL và làm thế nào để phát triển NNL đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thế kỷ XXI. Mặc dù vậy, trong các đề tài nghiên cứu đó, chưa có đề tài nào trực tiếp bàn về việc phát huy vai trò của thực hiện CBXH đối với phát triển NNL, nhưng nội dung của các đề tài đó đã gợi ý cho chúng tôi những nội dung lý luận và thực tiễn to lớn, đó là làm cách nào thực hiện việc phát triển NNL trong những năm đầu thế kỷ XXI và đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Trong tác phẩm "Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam" của tác giả Đoàn Văn Khái [70] đã làm rõ một số vấn đề chung về CNH, HĐH như: khái lược quá trình công nghiệp hóa trên thế giới; nội dung, bản chất, tính tất yếu và đặc điểm của CNH, HĐH ở Việt Nam; làm rõ vai trò nguồn lực con người là yếu tố quyết định đem lại thành công sự nghiệp CNH, HĐH; thực trạng nguồn lực con người ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra của yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH. 15 Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những phương hướng và những giải pháp cơ bản: nhóm giải pháp về khai thác hợp lý, có hiệu quả nguồn lực con người; nhóm giải pháp về phát triển nguồn lực con người; nhóm giải pháp xây dựng môi trường xã hội thuận lợi nhằm khai thác và phát huy hiệu quả nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở Việt Nam. Mặc dù, tác giả chỉ ra những nhân tố cần có để phát triển NNL, giải pháp để khai thác hiệu quả nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH, nhưng trong nội dung nghiên cứu tác giả chưa chỉ ra cho thấy tác động của vai trò CBXH đối với phát triển NNL. Những nội dung của tác giả nêu ra gợi ý cho chúng tôi cơ sở để phân tích vai trò thực hiện CBXH tác động nhằm phát huy hiệu quả của NNL trong tiến trình CNH, HĐH đất nước. Các công trình nghiên cứu về NNL, về phát triển NNL đã chỉ ra các góc độ khác nhau nhằm phát triển NNL, những nhân tố tác động đến sự phát triển NNL trong tiến trình CNH, HĐH, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và cách thức quản lý, sử dụng có hiệu quả NNL. Các công trình nghiên cứu về NNL đã cung cấp cho chúng tôi cơ sở lý luận và thực tiễn làm thế nào có thể phát triển NNL trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, nhiệm vụ đặt ra cho chúng tôi cần xác định rõ, phân tích cho thấy vai trò thực hiện CBXH tác động đến sự phát triển NNL, góp phần thúc đẩy NNL phát triển, góp phần phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay. 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỰC TRẠNG VAI TRÒ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM Công trình nghiên cứu về thực trạng vai trò của thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển NNL, có thể khẳng định chưa có công trình khoa học nào trực tiếp bàn về vấn đề này và mặc dù vậy khi đề cập đến thực hiện CBXH tác động đến NNL, đã được nói đến trong một số nội dung các bài viết, các công trình nghiên cứu về công bằng xã hội, về nguồn nhân lực. Thông qua nội dung những công trình đề cập đến việc thực hiện CBXH và đến phát triển NNL, các tác giả nghiên cứu về thực hiện CBXH, về phát triển NNL đã phần nào chỉ ra thực trạng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan