Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực trạng tiền đái tháo đường và hiệu quả can thiệp có bổ sung metformin ở ngườ...

Tài liệu Thực trạng tiền đái tháo đường và hiệu quả can thiệp có bổ sung metformin ở người có bmi ≥ 23 kg m2 tại thành phố hải phòng năm 2012 – 2014

.PDF
131
325
80

Mô tả:

1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƢƠNG -----------------*------------------- BỘ Y TẾ PHAN HƢỚNG DƢƠNG THỰC TRẠNG TIỀN ĐÁI THÁO ĐƢỜNG VÀ HIỆU QUẢ CAN THIỆP CÓ BỔ SUNG METFORMIN Ở NGƢỜI CÓ BMI ≥ 23 kg/m2 TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÕNG NĂM 2012 - 2014 LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC HÀ NỘI – 2016 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƢƠNG -----------------*------------------- BỘ Y TẾ PHAN HƢỚNG DƢƠNG THỰC TRẠNG TIỀN ĐÁI THÁO ĐƢỜNG VÀ HIỆU QUẢ CAN THIỆP CÓ BỔ SUNG METFORMIN Ở NGƢỜI CÓ BMI ≥ 23 kg/m2 TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÕNG NĂM 2012 - 2014 Chuyên ngành: Vệ sinh xã hội học và Tổ chức y tế Mã số: 62 72 01 64 LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Nguyễn Trần Hiển 2. PGS.TS. Hoàng Trung Vinh HÀ NỘI – 2016 3 ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh đái tháo đường typ 2 là một trong những bệnh mạn tính phổ biến trên thế giới, đang gia tăng nhanh chóng và trở thành một vấn đề sức khỏe cộng đồng đáng quan tâm, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Theo Liên đoàn đái tháo đường thế giới (IDF), năm 2011 số người bị đái tháo đường trên toàn thế giới là 366 triệu người, dự đoán số người mắc bệnh sẽ tăng lên 552 triệu người vào năm 2030, tập trung ở các nước đang phát triển do sự tăng lên nhanh chóng của việc tiêu thụ thực phẩm giầu năng lượng, của lối sống ít vận động và sự đô thị hóa. Tại các nước này, tỷ lệ người béo phì, đái tháo đường ngày càng tăng lên, trong khi đó lứa tuổi mắc bệnh ngày càng trẻ hóa. Đây thực sự là hồi chuông báo động đối với các nước đang phát triển [117]. Tiền đái tháo đường bao gồm rối loạn glucose máu lúc đói (Fasting plasma glucose – FPG ) và rối loạn dung nạp glucose (impaired glucose tolerance-IGT) là giai đoạn trung gian của chuyển hóa bất thường glucose máu giữa bình thường và đái tháo đường [110]. Giai đoạn tiền đái tháo đường đã xuất hiện kháng insulin, là giai đoạn khởi đầu trong tiến trình tiến triển thành đái tháo đường typ 2. Nhiều nghiên cứu cho thấy, ngay giai đoạn tiền đái tháo đường đã xuất hiện nhiều biến chứng của bệnh đái tháo đường [22]. Người tiền đái tháo đường có nguy cơ bị đái tháo đường typ 2 cao gấp 3-10 lần người bình thường. Sự phát hiện và can thiệp sớm người tiền đái tháo đường có khả năng làm giảm hoặc làm chậm lại sự tiến triển thành đái tháo đường, các biến chứng mạch máu nhỏ và tim mạch [66]. Nhằm ngăn chặn sự gia tăng của bệnh đái tháo đường trên toàn thế giới, đã có nhiều nghiên cứu can thiệp phòng, chống bệnh ở những đối tượng có nguy cơ cao bị đái tháo đường, đặc biệt người thừa cân, béo phì và tiền đái tháo đường. Các biện pháp can thiệp bao gồm: dinh dưỡng, luyện tập và sử dụng thuốc [6]. Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển kinh tế, mô hình bệnh tật đang thay đổi, từ các bệnh lây nhiễm sang các bệnh không lây nhiễm. Tỷ lệ đái tháo đường cũng đang gia tăng nhanh chóng [16]. Theo kết quả điều tra của Bệnh viện Nội tiết Trung ương, 4 trong vòng 10 năm từ năm 2002 đến 2012 tỷ lệ đái tháo đường ở đối tượng 30-64 tuổi đã tăng 200% từ 2,7% lên 5,4%, tiền đái tháo đường từ 7,3% lên 13,7% [2],[48]. Chúng ta cũng đã có những nghiên cứu can thiệp phòng bệnh bằng thay đổi lối sống trên những đối tượng có yếu tố nguy cơ cao mắc bệnh đái tháo đường. Từ nhiều năm nay, Dự án Phòng chống bệnh đái tháo đường quốc gia đã tiến hành sàng lọc phát hiện sớm đái tháo đường, tiền đái tháo đường và thực hiện công tác tư vấn phòng bệnh đối tượng tiền đái tháo đường sau sàng lọc tại cộng đồng. Biện pháp can thiệp phòng bệnh chủ yếu hiện nay là dinh dưỡng và luyện tập không sử dụng thuốc. Tuy nhiên, hiệu quả công tác tư vấn thay đổi lối sống cho người tiền đái tháo đường chưa đạt hiệu quả như mong muốn do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng chủ yếu do sự khó khăn trong việc chấp nhận và duy trì sự thay đổi lối sống của người tiền đái tháo đường. Do vậy, yêu cầu đặt ra là cần thiết nghiên cứu can thiệp bổ sung thuốc kết hợp thay đổi lối sống đối với các đối tượng có nguy cơ cao bị đái tháo đường nhằm tăng cường hiệu quả công tác phòng bệnh, phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam. Thuốc được lựa chọn nghiên cứu là metformin. Đây là thuốc duy nhất hiện nay được Liên đoàn Đái tháo đường thế giới và Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ khuyến cáo sử dụng phòng bệnh ở những người thừa cân, béo phì mắc tiền đái tháo đường [69]. Hải Phòng là một thành phố lớn có tốc độ phát triển kinh tế nhanh, bệnh béo phì, đái tháo đường cũng đang gia tăng nhanh chóng. Theo các kết quả điều tra dịch tễ học, Hải Phòng là một trong những thành phố có tỷ lệ đái tháo đường cao của cả nước [53]. Vì vậy, yêu cầu thực tiễn cần có sự đánh giá chính xác mức độ ảnh hưởng của các yếu tố nguy cơ tiền đái tháo đường ở người thừa cân, béo phì cũng như xây dựng kế hoạch và biện pháp phòng chống bệnh đái tháo đường tại cộng đồng hiệu quả, phù hợp hơn. Từ nhu cầu thực tiễn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với các mục tiêu sau: 1. Mô tả thực trạng và một số yếu tố liên quan đến tiền đái tháo đường ở đối tượng 30 – 59 tuổi có BMI ≥ 23 kg/m2 tại một số phường thành phố Hải Phòng năm 2012. 2. Đánh giá hiệu quả can thiệp có bổ sung metformin vào chế độ dinh dưỡng, tập luyện ở đối tượng 30 – 59 tuổi có BMI ≥ 23 kg/m2 có tiền đái tháo đường. 5 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN 1. 1. TIỀN ĐÁI THÁO ĐƢỜNG VÀ ĐÁI THÁO ĐƢỜNG 1.1.1. Định nghĩa và chẩn đoán bệnh Năm 1550 trước Công nguyên, Georg Ebers đã phát hiện ra tình trạng tiểu nhiều tại Ai Cập. Thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, Aretateus là người đầu tiên dùng từ “diabetes” (đái tháo) để gọi căn bệnh này. Bệnh cũng được ghi nhận ở Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ từ thế kỷ thứ 3 đến thứ 6 sau công nguyên với nước tiểu ngọt [101], [116]. Tại Châu Âu, bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) đã không được biết đến, cho đến khi Thomas Willis (1621 – 1675) sử dụng từ (Diabetes) để gọi căn bệnh này [101]. Năm 1674, AD. Thomas Willis là người đầu tiên so sánh vị ngọt của đường trong nước tiểu giống như mật. Từ đó thuật ngữ diabetes mellitus (tiếng latinh, với nghĩa tiếng anh là ngọt như mật ong) được sử dụng phổ biến cho đến ngày nay [6]. Đối với tiền đái tháo đường (tiền ĐTĐ), trước đây người ta thường dùng các thuật ngữ như “Đái tháo đường tiềm tàng”, “Đái tháo đường sinh hóa”, “Đái tháo đường tiền lâm sàng” để chỉ các trường hợp rối loạn dung nạp glucose (RLDNG) mà chưa có biểu hiện lâm sàng [6]. Năm 1979, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã nêu khái niệm RLDNG. RLDNG được WHO và Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA) xem là giai đoạn tự nhiên của rối loạn chuyển hóa carbohydrate. Năm 1999, rối loạn glucose máu lúc đói (RLGMLĐ) là thuật ngữ mới được giới thiệu. Cả hai trạng thái này đều có tăng glucose máu nhưng chưa đạt tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường [21]. Năm 2003, ADA đưa ra khái niệm tiền đái tháo đường (Pre-diabetes) bao gồm RLGMLĐ và RLDNG. Năm 2006, tình trạng rối loạn glucose máu trên được ADA có sự đồng thuận của WHO đặt tên chính thức là tiền đái tháo đường (Pre-diabetes) [128]. * Định nghĩa đái tháo đƣờng: Theo Tổ chức Y tế thế giới, đái tháo đường là một rối loạn chuyển hóa do nhiều nguyên nhân. Bệnh được đặc trưng bởi tăng glucose máu mãn cùng với những rối loạn chuyển hóa carbohydrate, lipid và protein do hậu quả của 6 sự suy giảm bài tiết insulin, hoạt động của insulin hoặc kết hợp cả hai [129]. * Định nghĩa tiền đái tháo đƣờng: Tiền đái tháo đường là tình trạng glucose máu cao hơn mức bình thường nhưng chưa đến mức chẩn đoán bệnh ĐTĐ khi làm xét nghiệm glucose máu lúc đói hoặc nghiệm pháp dung nạp glucose. Tiền đái tháo đường bao gồm RLGMLĐ và RLDNG [65]. Rối loạn glucose máu lúc đói và rối loạn dung nạp glucose là giai đoạn trung gian của sự bất thường chuyển hóa glucose giữa bình thường và đái tháo đường [110]. * Chẩn đoán và phân loại đái tháo đƣờng, tiền đái tháo đƣờng Dựa trên khuyến cáo chẩn đoán ĐTĐ của ADA năm 1997 và những báo cáo của WHO về nguy cơ bệnh lý võng mạc ở nhiều mức glucose máu khác nhau; năm 1999, WHO đã công bố tiêu chuẩn chẩn đoán mới ĐTĐ dựa vào glucose máu lúc đói và glucose máu 2 giờ sau làm nghiệm pháp dung nạp glucose (NPDNG) uống 75 g đường glucose [129]. Bảng 1.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đƣờng và rối loạn glucose máu [129] Chẩn đoán Đái tháo đường Nồng độ glucose huyết tƣơng tĩnh mạch Glucose máu lúc đói ≥ 7,0 mmol/l (126 mg/dl) Hoặc Glucose máu 2 giờ sau nghiệm pháp ≥ 11,1 mmol/l (200 mg/dl) Hoặc Glucose máu thời điểm bất kỳ ≥ 11,1 mmol/l (200 mg/dl) và bệnh nhân có các triệu chứng cấp tính của tăng glucose máu như gầy sút cân, khát nước, tiểu nhiều. Rối loạn glucose dung nạp Glucose máu lúc đói < 7,0 mmol/l (126 mg/dl) và Glucose máu 2 giờ sau nghiệm pháp ≥ 7,8 và < 11,1 mmol/l (140-200 mg/dl) Rối loạn glucose máu Glucose máu lúc đói: 6,1 – 6,9 mmol/l (100-125 mg/dl)* lúc đói và (nếu đo) Glucose máu 2 giờ sau nghiệm pháp: < 7,8 mmol/l (140 mg/dl) * Năm 2003, ADA khuyến cáo: glucose máu lúc đói từ 5,6 – 6,9 mmol/l 7 * Phân loại bệnh đái tháo đƣờng Theo Tổ chức Y tế thế giới, bệnh ĐTĐ được phân thành 4 loại sau [129]: - Đái tháo đường typ 1: do quá trình tự miễn dịch phá hủy tế bào bê ta của tụy dẫn đến sự thiếu hụt insulin tuyệt đối. Bệnh ĐTĐ type 1 ước tính chiếm khoảng 5-10% bệnh ĐTĐ. - Đái tháo đường typ 2: hậu quả kháng insulin hoặc/và suy giảm tăng dần bài tiết insulin của tuyến tụy. Bệnh ĐTĐ typ 2 ước tính chiếm khoảng 80-90 % bệnh ĐTĐ. Bệnh ĐTĐ typ 2 là sự tác động giữa yếu tố gen và môi trường sống. Có rất nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến sự tiến triển của bệnh. Phần lớn bệnh nhân ĐTĐ typ 2 là bệnh nhân béo phì. Những bệnh nhân không bị béo phì có thể có sự tăng lên tỷ lệ phân bố mỡ nội tạng tập trung ở vùng bụng. - Đái tháo đường khác do nhiều nguyên nhân khác nhau : khiếm khuyết gen của tế bào bê ta hoặc rối loạn quá trình chuyển hóa glucose (thể MODY), đột biến gen ảnh hưởng đến hoạt động của insulin, bệnh lý tụy, thuốc, hóa chất… - Đái tháo đường thai kỳ : đái tháo đường được phát hiện khi mang thai. Do bệnh ĐTĐ typ 2 chiếm tỷ lệ lớn trong số bệnh nhân bị ĐTĐ (80-90%) và bệnh ĐTĐ typ 2 cũng là bệnh có thể phòng hoặc làm chậm lại sự tiến triển thành bệnh ở những người có nguy cơ cao bị bệnh. Vì vậy, trong nội dung nghiên cứu của luận văn này chỉ nghiên cứu về ĐTĐ typ 2 và tiền ĐTĐ là những đối tượng có nguy cơ cao tiến triển thành ĐTĐ typ 2 trong tương lai. 1.1.2. Tiến triển của tiền đái tháo đƣờng Bệnh ĐTĐ typ 2 liên quan đến 2 cơ chế bệnh sinh chủ yếu là kháng insulin ở mô ngoại biên và suy giảm chức năng tế bào bê ta của tiểu đảo Langerhans. Các nghiên cứu cho thấy bệnh sinh ĐTĐ typ 2 là quá trình suy giảm của tế bào bê ta và tăng lên của kháng insulin. Hai quá trình này cùng song song tồn tại và ít nhiều có liên quan với nhau trong quá trình tiến triển thành bệnh ĐTĐ typ 2. Ở những người béo phì sự kháng insulin nổi trội hơn, còn ở những người gầy thì suy giảm chức năng tế bào bê ta rõ ràng hơn [33]. Kháng insulin là bất thường đầu tiên dẫn đến tăng insulin sau ăn và insulin lúc đói như là sự tăng tiết insulin của tế bào bê ta của tuyến tụy để thắng lại sự kháng 8 insulin của ở mức độ mô. Chỉ khi chức năng của tế bào bê ta không thể đáp ứng được nhu cầu tăng bài tiết insulin, lúc đó glucose máu sẽ tăng, RLDNG và ĐTĐ phát triển [136]. RLGMLĐ và RLDNG là giai đoạn ban đầu của sự rối loạn glucose máu, trước khi tiến triển thành bệnh ĐTĐ typ 2 thực sự. Hiện nay, tình trạng rối loạn glucose máu được coi là tiền đái tháo đường [65]. Bất thường chuyển hóa đầu tiên ở tiền ĐTĐ là tình trạng kháng insulin ở nhiều mô của cơ thể, cụ thể ở gan, mô mỡ, mô cơ. Tiền ĐTĐ bắt đầu bằng sự tích tụ acid béo tự do ở mô mỡ cũng như các mô khác (tích tụ mỡ nội tạng). Sự tích lũy mỡ nội tạng sẽ tăng giải phóng các adipocytokin của mô mỡ, các chất này góp phần tăng đề kháng insulin [22]. Các yếu tố ảnh hưởng bất lợi đến chức năng tế bào bê ta bao gồm : tăng glucose máu, tăng a.béo tự do, kháng insulin, tổn thương trục tiết incretin… hậu quả gây chết tế bào bê ta, mất phase sớm bài tiết insulin và suy giảm đáp ứng tiết insulin pha muộn của tiểu đảo…[102]. Nghiên cứu UKPDS đã chứng minh rằng, tại thời điểm chẩn đoán ĐTĐ typ 2, chức năng tiết insulin của tuyến tụy đã suy giảm 50% và sự suy giảm chức năng tế bào bê ta đã diễn ra trong vòng 10 – 12 năm trước khi xuất hiện bệnh [124]. Người tiền ĐTĐ có nguy cơ rất cao tiến triển thành ĐTĐ typ 2 trong tương lai nếu không có các biện pháp can thiệp kịp thời. Ngay tại giai đoạn tiền ĐTĐ, một số mức độ tăng biến chứng mạch máu lớn và mạch máu nhỏ đã được mô tả [125]. Nghiên cứu của Phan Long Nhơn, Đặng Xuân Hào và Hoàng Thị Kim Nhung tại Bình Định, cho thấy trong số đối tượng bị tiền ĐTĐ đã có 30,15% THA, suy tim: 9,52%, bệnh mạch vành: 1,58% và tai biến mạch máu não: 7,9% [41]. Người tiền ĐTĐ có nguy cơ bị ĐTĐ typ 2 cao gấp 3-10 lần người bình thường. Sự phát hiện và điều trị sớm người tiền ĐTĐ có khả năng làm giảm hoặc làm chậm lại sự tiến triển thành ĐTĐ, các biến chứng mạch máu nhỏ và tim mạch [66]. Trong trường hợp tiền ĐTĐ không được phát hiện và can thiệp, bệnh thường diễn biến đến ĐTĐ thật sự. Tình trạng bắt đầu bằng tăng glucose máu ở tiền ĐTĐ sẽ diễn biến đồng thời với tổn thương chức năng tế bào bêta và tăng đề kháng insulin ở mô ngoại biên. Khi glucose máu được kiểm soát sớm, chức năng tế bào bêta sẽ được bảo vệ [22]. 9 Sự tiến triển thành ĐTĐ typ 2 ở người RLDNG từ 6-10% mỗi năm, người bị cả RLDNG và RLGMLĐ thì tần số mắc bệnh ĐTĐ tích lũy trong 6 năm đến 65% (so với mức 5% ở người có mức glucose máu bình thường tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu) [105]. Nghiên cứu the Insulin Resistance Atherosclerosis Study–Hoa Kỳ cho thấy những bệnh nhân được chẩn đoán RLGMLĐ, RLDNG hoặc hội chứng chuyển hóa thì tỷ lệ tiến triển thành ĐTĐ là 8-10%/năm, nhưng nếu người bệnh có cả 3 chẩn đoán trên thì tỷ lệ tiến triển thành ĐTĐ vượt xa 10%/năm [70]. Nghiên cứu tại Thượng Hải (Trung Quốc) trong thời gian 3 năm, cho thấy những người bị RLDNG và RLGMLĐ hoặc bị cả hai thì có nguy cơ bị ĐTĐ cao gấp 11,7 lần người có dung nạp glucose bình thường [93]. 1.1.3. Sàng lọc phát hiện bệnh đái tháo đƣờng typ 2 và tiền đái tháo đƣờng: Bệnh ĐTĐ typ 2 thường tiến triển âm thầm, một giai đoạn dài “không triệu chứng” hay giai đoạn tiền lâm sàng nên người bệnh không được phát hiện kịp thời. Ngay tại giai đoạn tiền ĐTĐ bệnh nhân đã có thể có những biến chứng của bệnh. Tỷ lệ người bệnh ĐTĐ không được chẩn đoán tại cộng đồng thay đổi giữa các nước từ 20% 80%. Tại Hà Lan khi tiến hành sàng lọc phát hiện bệnh ĐTĐ, kết quả cho thấy tỷ lệ biến chứng mắt là 7,6%, giảm nhậy cảm bàn chân là 48,1%, microalbumin niệu 17,2%, nhồi máu cơ tim 13,3%, thiếu máu cơ tim 39,5% và bệnh động mạch ngoại biên là 10,6% trong số bệnh nhân lân đầu tiên phát hiện bị bệnh ĐTĐ. Bệnh lý võng mạc mắt liên quan đến thời gian bị bệnh ĐTĐ, như vậy có thể ước đoán rằng bệnh ĐTĐ đã xuất hiện 12 năm trước khi chẩn đoán lâm sàng [90]. Chính vì vậy, IDF đã khuyến cáo tiến hành sàng lọc ngoài cộng đồng những đối tượng có nguy cơ cao bị ĐTĐ typ 2 nhằm phát hiện những người bị ĐTĐ và những người tiền ĐTĐ nhằm có các biện pháp quản lý, can thiệp kịp thời ngăn chặn sự xuất hiện và tiến triển của bệnh, biến chứng của bệnh ĐTĐ [66]. Do sự gia tăng nhanh chóng của bệnh ĐTĐ, Dự án Phòng chống bệnh đái tháo đường thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia đã được thành lập theo Quyết định số 172/2008/QĐ-TT của Thủ tướng Chính phủ ngày 19/12/2008. Một trong những hoạt động trọng tâm của Dự án Phòng chống đái tháo đường là sàng lọc phát hiện sớm 10 người mắc bệnh ĐTĐ, tiền đái ĐTĐ trên những đối tượng có nguy cơ cao theo khuyến cáo của IDF và ADA. Các tiêu chuẩn sàng lọc phát hiện sớm ĐTĐ, tiền ĐTĐ bao gồm: Tất cả các đối tượng ≥ 45 tuổi có thêm ≥ 1 yếu tố nguy cơ sau: Thừa cân, béo phì (BMI ≥ 23 kg/m2); tăng vòng eo (≥ 90 cm đối với nam, ≥ 80 cm đối với nữ); THA: huyết áp > 130/80 mmHg; rối loạn chuyển hóa lipid; tiền sử gia đình bị bệnh ĐTĐ; đã từng được chẩn đoán RLGMLĐ, RLDNG; phụ nữ có tiền sử đái tháo đường thai kỳ hoặc sinh con > 3,6 kg [1]. Hàng năm, Dự án Quốc gia phòng chống đái tháo đường đã tiến hành sàng lọc trên phạm vi toàn quốc, phát hiện hàng nghìn người bệnh ĐTĐ và tiền ĐTĐ. 1.2. THỰC TRẠNG VÀ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TIỀN ĐÁI THÁO ĐƢỜNG 1.2.1. Dịch tễ học tiền đái tháo đƣờng 1.2.1.1. Trên thế giới Tiền ĐTĐ, giai đoạn đầu tiến triển của bệnh ĐTĐ, đang tăng nhanh trên toàn thế giới. Tiền ĐTĐ tập trung ở các nước đang phát triển, đặc biệt những nước có tốc độ phát triển nhanh như Ấn Độ, Trung Quốc. Do sự tăng lên của việc tiêu thụ thực phẩm giầu năng lượng, của lối sống ít vận động và quá trình đô thị hóa làm gia tăng số lượng người tiến triển thành ĐTĐ typ 2 [117]. Theo Liên đoàn đái tháo đường thế giới (IDF), năm 2010, ước tính trên toàn thế giới có khoảng 344 triệu người (chiếm 7,9%) trong lứa tuổi 20-79 tuổi có RLDNG. Sự bất thường dung nạp glucose thường đi kèm theo béo bụng, tăng huyết áp và rối loạn mỡ máu hay còn gọi là hội chứng chuyển hóa. Những người có hội chứng chuyển hóa có nguy cơ cao bị ĐTĐ và bệnh lý mạch vành [117]. Năm 2011, ước tính trên thế giới tỷ lệ tiền ĐTĐ là 6,5% lứa tuổi 20 – 79 tuổi, tương ứng 280 triệu người. Tỷ lệ tiền ĐTĐ sẽ tăng lên 6,7%, tương ứng 398 triệu người vào năm 2030 [89]. Tỷ lệ tiền ĐTĐ tại một số nước châu Phi thay đổi theo sự phát triển của kinh tế. Ai Cập là nước Bắc Phi có tỷ lệ tiền ĐTĐ ở người trên 20 tuổi là 10%, trong khi đó tỷ lệ RLDNG ở Cameroon (Tây Phi) ở người lứa tuổi 24-74 tuổi chỉ là 1,8%, còn tại Nam Phi, tỷ lệ RLDNG là 7% [117]. Tại Hoa Kỳ, nghiên cứu 2005-2006, tỷ lệ RLGMLĐ là 25,7% và RLDNG là 11 13,8%, tương ứng khoảng 30% người bị tiền ĐTĐ ở lứa tuổi ≥ 20 tuổi [110]. Năm 2008, ước tính có 57 triệu người bị tiền ĐTĐ, nhiều người đã có các biến chứng mạch máu nhỏ [75], năm 2010, có 79 triệu người lứa tuổi ≥ 20 tuổi bị tiền ĐTĐ [65]. Tại Châu Âu, kết quả của nhiều cuộc điều tra cho thấy tỷ lệ tiền ĐTĐ của các nước khác nhau, cao nhất là Ba Lan (16,9%), Đan Mạch (15,2%), Thụy Điển (9%), Phần Lan (8,8%)… thấp nhất là Anh (5,0%), Albani (2,4%) và Ailen (1,9%) [117]. Tại Châu Á, điều tra 6 thành phố lớn của Ấn Độ năm 2001 cho thấy tỷ lệ RLDNG là 14% [113]. Tại Trung Quốc, điều tra quốc gia năm 2000-2001, tỷ lệ RLDNG là 7,3% [96],[115]. Còn tại Australia (2000), tỷ lệ tiền ĐTĐ ở những người ≥ 25 tuổi là 16% (nam giới là 17% và nữ giới là 15%) [117]. Khu vực Trung Đông, Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất có tỷ lệ RLDNG ở nam là 14,4%, nữ là 13,9%; Iran tỷ lệ tương ứng ở nam là 8,9% trong khi nữ là 14,9%; O man tỷ lệ ở nữ là 12,9% còn nam là 8,1% [117]. Các nước khu vực Đông Á, tỷ lệ RLDNG tại Nhật Bản ở nam là 12%, nữ là 16,5%; trong khi tại Hàn Quốc đã trở nên báo động khi tỷ lệ này là 23,9% [117]. Tỷ lệ tiền ĐTĐ tại các nước khu vực Đông Nam Á cũng tương đối cao. Tại Philippine, năm 2008, tỷ lệ RLDNG là 6,5% và RLGMLĐ là 2,1% [74]. Tỷ lệ ĐTĐ tại Indonesia năm 2008 là 5,7%, tỷ lệ RLDNG là 10,2% ở lứa tuổi trên 15 tuổi [97]. 1.2.1.2. Việt Nam Năm 2001, lần đầu tiên điều tra dịch tễ học bệnh ĐTĐ tại Việt Nam theo quy chuẩn quốc tế, Bệnh viện Nội tiết Trung ương (Bệnh viện Nội tiết TW) đã tiến hành điều tra ĐTĐ tại 4 thành phố lớn: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh ở lứa tuổi từ 30 -64 tuổi. Kết quả, tỷ lệ RLDNG là 5,1% [11]. Năm 2002, Bệnh viện Nội tiết TW điều tra toàn quốc bệnh ĐTĐ cho thấy tỷ lệ RLDNG và RLGMLĐ toàn quốc tương ứng là 7,3% và 1,9%; tỷ lệ tương ứng tại khu vực miền núi là 7,1% và 2,2%; khu vực đồng bằng: 7,0% và 1,4%, khu vực trung du và ven biển: 8,3% và 2,4% và khu vực thành phố là 6,5% và 1,8% [11]. Hoàng Kim Ước, Lê văn Xanh và cs nghiên cứu trên 2,700 người tuổi từ 30-64 tuổi tại tỉnh Kiên Giang năm 2004, kết quả cho thấy tỷ lệ RLGMLĐ là 4,1% và RLDNG là10,7% [56]. 12 Tiêu Văn Linh, Trần Thanh Bình, Võ Việt Dũng nghiên cứu 2543 đối tượng tuổi từ 30-64 tuổi tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu năm 2005, kết quả cho thấy tỷ lệ RLDNG là 4,6%, tỷ lệ RLGMLĐ là 2,3%. Tính theo khu vực thì tỷ lệ RLDNG khu vực thành thị là 5,2%, khu vực nông thôn là 4,3% [37]. Nghiên cứu tại thành phố Thái Nguyên ở 1185 đối tượng 30-75 tuổi có nguy cơ cao năm 2006, kết quả cho thấy tỷ lệ RLGMLĐ là 16,1%, tỷ lệ RLDNG là 10,4% [57]. Nguyễn Văn Hoàn, Hồ Văn Hiệu và cs nghiên cứu ở đối tượng 30-64 tuổi tại Nghệ An. Kết quả cho thấy: tỷ lệ tiền ĐTĐ đã tăng từ 13,1% năm 2005 lên 19,3% năm 2010. Có sự khác biệt giữa các khu vực. Trong đó cao nhất là khu đô thị 15,4% năm 2005 và 21,3% năm 2010, tiếp theo là khu vực miền núi: 14,3% (2005) và 18,0% (2010) và cuối cùng là khu vực đồng bằng: 11,7% (2005) và 17,2% (2010) [29]. Cao Mỹ Phượng, Đinh Thanh Huề và Nguyễn Hải Thủy điều tra 775 đối tượng dân tộc Khmer tuổi ≥ 45 tuổi tại huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, kết quả tỷ lệ tiền ĐTĐ là 17,0% [44]. Các nghiên cứu trong những năm gần đây cho thấy tỷ lệ tiền ĐTĐ tại một số tỉnh/thành phố như sau: Yên Bái là 4,4% [19]; Quảng Bình là 14,8% [3]; Quảng Ngãi là 21,4%, trong đó khu vực Hải đảo: 17,6%, miền núi: 19,2% và đồng bằng là 22,9% [52]; thành phố Biên Hòa, Đồng Nai là 9,4% [61]; tỷ lệ RLGMLĐ tại thành phố Hồ Chí Minh là 9,2% [34]; Thái Bình: tỷ lệ RLDNG: 5,8% và RLGMLĐ: 5,7% [24]; Nam Định là 23,9%, Thanh Hóa là 11,7%, Phú Thọ là 9,6% và Sơn La: 7,9% [13]. Năm 2012, điều tra toàn quốc của Bệnh viện Nội tiết TW cho thấy tỷ lệ RLDNG là 13,7%. Tỷ lệ RLDNG tại các khu vực như sau: miền núi phía Bắc: 10,7%, đồng bằng sông Hồng: 11,2%, duyên hải miền Trung: 13%, Tây Nguyên: 10,7%, miền Đông Nam Bộ: 17,5% và đồng bằng sông Cửu Long: 13,6% [48]. Năm 2014, Chu Thị Hà và cs điều tra tỷ lệ ĐTĐ thành phố Hà Nội trên 2402 đối tượng tuổi từ 30-69 tuổi cho thấy tỷ lệ tiền ĐTĐ là 27,4%. Tỷ lệ tiền ĐTĐ khu vực nội thành và khu vực ngoại thành xấp xỉ nhau tương ứng là 27,7% và 27% [25]. 1.2.2. Yếu tố nguy cơ của tiền đái tháo đƣờng Tiền ĐTĐ là giai đoạn trung gian của sự tiến triển thành bệnh ĐTĐ typ 2. Vì vậy, 13 các yếu tố nguy cơ (YTNC) của bệnh ĐTĐ typ 2 cũng là những YTNC làm tăng nguy cơ mắc tiền ĐTĐ. ĐTĐ typ 2 là hậu quả của sự tác động qua lại phức tạp giữa yếu tố gen và các yếu tố lối sống (life-style factors). YTNC của bệnh ĐTĐ typ 2 bao gồm các yếu tố không thay đổi được và các yếu tố có thể thay đổi được. Những YTNC không thay đổi được bao gồm: gen, tuổi (tuổi càng cao nguy cơ bị ĐTĐ càng tăng) và ĐTĐ thai kỳ. Người mẹ bị ĐTĐ thai kỳ mặc dù sau sinh glucose máu đã trở về bình thường nhưng người mẹ này vẫn có nguy cơ cao bị ĐTĐ typ 2 trong tương lai [9]. Những YTNC thay đổi được bao gồm: béo phì, ít hoạt động thể lực, chế độ ăn dư thừa năng lượng, RLGMLĐ, RLDNG… Bảng 1. 2. Các yếu tố nguy cơ bị đái tháo đƣờng typ 2 (IDF – 2007) [66] Yếu tố thay đổi đƣợc Yếu tố không thay đổi đƣợc - Thừa cân, béo phì - Dân tộc - Lối sống tĩnh tại, ít vận động - Tiền sử gia đình bị ĐTĐ typ 2 - Rối loạn glucose máu lúc đói, rối loạn dung nạp glucose - Tuổi - Tiền sử ĐTĐ thai kỳ Hội chứng chuyển hóa: - Hội chứng buồng trứng đa nang - THA Giảm HDL-c Tăng triglycerides - Yếu tố dinh dưỡng - Viêm nhiễm 1.2.2.1. Yếu tố nguy cơ không thay đổi đƣợc:  Dân tộc ĐTĐ typ 2 kết hợp mạnh với yếu tố gen. Hiện tại, chúng ta chưa xác định được hết những gen có quan hệ với sự liên kết này. Tuy nhiên, tỷ lệ bị bệnh của các nhóm chủng tộc khác nhau khi tiếp xúc với cùng điều kiện môi trường đã cho thấy mối liên quan này [66]. Bảng 1.3. Tỷ lệ đái tháo đƣờng trong cộng đồng có lối sống phƣơng tây [66] 14 Dân tộc Tỷ lệ đái tháo đƣờng - Người thổ dân Bắc Mỹ và Australia - 20-30% - Những đảo Thái Bình Dương và người - 20-30% Aboriginies ở Australia - Ấn Độ và Trung Đông - 10-20% - Châu Âu và Bắc Mỹ - 5-10% - Châu Phi - 3,1% Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ ĐTĐ cao ở người Mỹ gốc latine và người Mỹ gốc Phi. Điều tra năm 1991 cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ở người da trắng là 6%, người Cuba là 9%, người Mỹ gốc Phi là 10% và gốc Mexico là 13% [117]. Kháng insulin và ĐTĐ typ 2 thường gặp hơn ở người Mỹ gốc Mexico và người Mỹ gốc Nam Á [99]. Nghiên cứu tại Tây Âu cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ ở người da vàng cao hơn người da trắng từ 2-4 lần, tuổi mắc bệnh ở người da vàng trẻ hơn, thường trên 30 tuổi, ở người da trắng thường trên 50 tuổi [32]. Nghiên cứu của Bệnh viện Nội tiết TW năm 2012 cho thấy tỷ lệ RLDNG ở dân tộc kinh là 13,1% cao hơn các dân tộc khác là 11,2% có ý nghĩa thống kê với p<0,05 [48]. Nghiên cứu của Lê Quang Tòa, Phạm Hồng Phương và cs cho thấy tỷ lệ tiền ĐTĐ dân tộc kinh cao hơn dân tộc khác tương ứng là 22,5% và 17,5%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 [53].  Giới Nguy cơ mắc tiền ĐTĐ theo giới hiện vẫn còn tranh luận, chưa rõ ràng. Theo các nghiên cứu ở Mỹ thì tỷ lệ ĐTĐ ở nữ cao hơn nam, ngược lại có nghiên cứu cho rằng sự khác biệt về giới không có ý nghĩa thống kê hoặc tỷ lệ nam còn cao hơn nữ [18]. Một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ RLDNG ở nam và nữ tại một số nước khác nhau: tại phía bắc Phần Lan: tỷ lệ ở nam là 29% cao hơn ở nữ giới là 27% [111]; Uzbekistan: nam là 5% thấp hơn ở nữ là 6% [98]; Oman: nam là 7,1%, nữ là 5,1% [100]; Ả Rập Xê Út: nam là 14,4% và nữ là 13,9% [67]. Tại Việt Nam, các nghiên cứu cho kết quả khác nhau về tỷ lệ mắc tiền ĐTĐ theo giới. Có những nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tiền ĐTĐ ở nữ cao hơn ở nam [27],[43], 15 nhưng có những nghiên cứu tỷ lệ mắc bệnh ở nam cao hơn ở nữ [61] hoặc sự khác biệt giữa hai giới không có ý nghĩa thống kê [50],[56],[57].  Tuổi Khi cơ thể già đi, chức năng nội tiết cũng suy giảm và khả năng tiết insulin của tụy cũng bị giảm. Khi khả năng tiết insulin của tụy giảm thì nồng độ glucose máu có xu hướng tăng, đồng thời giảm sự nhạy cảm của tế bào với các kích thích của insulin, giảm khả năng tiết insulin. Khi tế bào tụy không còn khả năng tiết insulin đủ với nhu cầu cần thiết của cơ thể, glucose máu sẽ tăng và bệnh ĐTĐ thực sự xuất hiện [54]. Các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ ĐTĐ tăng lên đáng kể theo lứa tuổi. Tuổi từ 45 tuổi trở lên là một yếu tố nguy cơ quan trọng của bệnh. Chính vì vậy theo khuyến cáo của IDF, tại Việt Nam, Dự án Phòng chống đái tháo đường đã tiến hành sàng lọc phát hiện sớm bệnh ĐTĐ, tiền ĐTĐ ở những người ≥ 45 tuổi và có thêm 1 yếu tố nguy cơ khác như: thừa cân, béo phì, tiền sử rối loạn glucose máu, tiền sử gia đình bị ĐTĐ…[2]. Năm 2002, nghiên cứu của Bệnh viện Nội tiết TW cho thấy tỷ lệ tiền ĐTĐ tăng theo nhóm tuổi. Cụ thể tỷ lệ RLDNG ở nhóm tuổi 30-34, 35-39, 40-44, 45-49, 50-54, 55-59 và 60-64 tuổi tương ứng là 3,9%, 6,1%; 7,9%; 7,5%; 10,1%; 11,4% và 12,5% (p<0,001) [2]. Sau 10 năm (năm 2012), kết quả nghiên cứu của Bệnh viện Nội tiết TW vẫn cho thấy tỷ lệ tiền ĐTĐ tăng theo nhóm tuổi. Cụ thể tỷ lệ RLDNG ở nhóm tuổi 30-39, 4049, 50-59 và 60-69 tuổi tương ứng là 8,6%, 11,7%; 13,0% và 18,1% (p<0,01) [48]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Huyền, Tạ Văn Bình và cộng sự tại thành phố Hà Nội cho thấy tỷ lệ RLDNG tăng theo nhóm tuổi, tỷ lệ RLDNG thấp nhất là 3,8% ở nhóm tuổi 30-39 tuổi, 3,8% ở nhóm 40-49 tuổi, tiếp theo là 7,8% ở nhóm 50-59 tuổi, 10,9% ở nhóm 60-70 tuổi và cao nhất là 18,7% ở nhóm tuổi > 70 tuổi [31]. Tuy nhiên trong vài thập kỷ gần đây, tuổi mắc bệnh đang giảm xuống, gặp ở người trẻ tuổi, thậm chí cả thiếu niên, đặc biệt ở những nước đang phát triển do có sự mất cân bằng lớn giữa mức năng lượng hấp thụ vào cơ thể và tiêu thụ năng lượng [117]. Đây cũng là đặc điểm tình hình mắc bệnh hiện nay tại Việt Nam.  Tiền sử gia đình bị đái tháo đƣờng 16 Những người có mối liên quan huyết thống với người bị bệnh ĐTĐ như bố, mẹ, anh chị em ruột bị bệnh ĐTĐ có nguy cơ bị bệnh ĐTĐ cao gấp 4 – 6 lần người bình thường (gia đình không có ai mắc bệnh ĐTĐ) [2],[54]. Di truyền đóng vai trò quan trọng trong bệnh ĐTĐ. Khi bố hoặc mẹ bị bệnh ĐTĐ thì con có nguy cơ bị bệnh ĐTĐ là 30%. Khi cả bố và mẹ đều bị bệnh ĐTĐ thì nguy cơ con mắc bệnh là 50%. Sự trùng hợp bệnh ở những người sinh đôi cùng trứng là 90%. Tuy nhiên không phải tất cả 2 thành viên sinh đôi đồng hợp tử đều mắc bệnh ĐTĐ typ 2 nếu một người mắc bệnh [109]. Theo nghiên cứu của Đoàn Duy Hậu và Nguyễn Thị Thịnh, người có tiền sử gia đình có người mắc bệnh ĐTĐ thì nguy cơ mắc bệnh cao gấp 19,5 lần so với người không có tiền sử gia đình mắc bệnh ĐTĐ [26]. Nghiên cứu của Bệnh viện Nội tiết TW năm 2002 cho thấy, nhóm có tiền sử gia đình mắc bệnh ĐTĐ thì có nguy cơ bị RLDNG gấp 1,65 lần nhóm không có tiền sử gia đình có người bị bệnh ĐTĐ [2]. Nghiên cứu của Tạ Văn Bình, Hoàng Kim Ước, Nguyễn Minh Hùng và cs cho thấy tỷ lệ tiền ĐTĐ ở nhóm có tiền sử gia đình bị ĐTĐ là 18,3% cao hơn nhóm không có tiền sử gia đình bị ĐTĐ là 13,0% (p<0,001) [13].  Đái tháo đƣờng thai kỳ Đái tháo đường thai kỳ là người phụ nữ mắc bệnh ĐTĐ khi đang mang thai. Thể ĐTĐ này liên quan đến vai trò của kháng thể kháng insulin và sự biến đổi các hormone hoặc các rối loạn chuyển hóa khi có thai, là nguyên nhân của các biến chứng lúc đẻ, tăng nguy cơ phát triển thành bệnh ĐTĐ sau này. Đối với người phụ nữ ĐTĐ thai kỳ, RLDNG trở về bình thường sau khi sinh, tuy nhiên, những người phụ nữ này vẫn có nguy cơ cao bị ĐTĐ typ 2 trong cuộc sống sau này [6],[70]. Theo nghiên cứu, 50% phụ nữ có tiền sử ĐTĐ thai kỳ có nguy cơ trở thành ĐTĐ typ 2 trong khoảng thời gian từ 5 – 10 năm, 80% trong khoảng thời gian còn lại của cuộc đời. Vì vậy ĐTĐ thai kỳ là yếu tố nguy cơ cao của bệnh ĐTĐ type [9]. Theo ADA, năm 2007, trên thế giới có khoảng 3% - 14% phụ nữ có thai bị ảnh hưởng bởi bệnh ĐTĐ, trong đó số đái tháo đường thai kỳ là 90% còn 10% là phụ nữ bị 17 bệnh ĐTĐ mang thai. Tại Hoa Kỳ, hàng năm có khoảng 170,000 phụ nữ mắc ĐTĐ thai kỳ. 30-50% phụ nữ mắc ĐTĐ thai kỳ sẽ bị lại khi mang thai sau này. Khoảng 20-50% phụ nữ ĐTĐ thai kỳ sẽ tiến triển thành ĐTĐ typ 2 trong vòng 5-10 năm [110]. Việt Nam chưa có số liệu toàn quốc, tuy nhiên nghiên cứu tại một số tỉnh/thành phố như sau: tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội thì tỷ lệ ĐTĐ thai kỳ là 3,6% [9],[49], Bệnh viện Bạch Mai là 7,9% [38], Đồng Nai là 8,5% [40], Bệnh viện A Thái Nguyên là 9,4% [39]. Phạm Thị Lan, Tạ Văn Bình và cs nghiên cứu 1611 phụ nữ mang thai quản lý tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Bệnh viện Phụ sản Hà Nội từ năm 2002 – 2004: tỷ lệ ĐTĐ thai kỳ là 3,9% [10]. 1.2.2.2. Yếu tố nguy cơ thay đổi đƣợc:  Béo phì Béo phì là sự thái quá mô mỡ của cơ thể dẫn đến ảnh hưởng bất lợi đối với sức khỏe. Béo phì được coi như là bệnh lý vì nó có thể gây ảnh hưởng tới tâm sinh lý và cuộc sống xã hội của người béo phì. Trên lâm sàng, chỉ số khối cơ thể BMI (Body Mass Index) đã được sử dụng phổ biến nhất để chẩn đoán béo phì . Theo WHO, người thừa cân khi có BMI ≥ 25 kg/m2, còn đối với người Châu Á, thừa cân khi BMI ≥ 23 kg/m2 [84],[132]. Bảng 1.4. Phân loại thừa cân, béo phì theo BMI - ngƣời trƣởng thành Châu Á (WHO 1998) [36] Phân loại BMI (kg/m2) Yếu tố nguy cơ mắc bệnh Gầy < 18,5 Thấp (nhưng tăng YTNC các bệnh khác) Bình thường 18,5 – 22,9 Bình thường Thừa cân ≥ 23 Bắt đầu có nguy cơ 23 – 24,9 Tăng nguy cơ Béo độ I 25 – 29,9 Tăng nguy cơ trung bình Béo độ II ≥ 30 Tăng nguy cơ cao Ở người lớn, béo bụng kết hợp với những biến chứng chuyển hóa và tim mạch. 18 Vòng bụng là chỉ số đơn giản nhất để đánh giá tầm quan trọng của khối mỡ nội tạng [95]. Béo phì hiện đã trở thành nạn dịch trên toàn thế giới, không chỉ ở các nước phát triển và các nước đang phát triển mà thậm chí còn ở các nước chậm phát triển. Béo phì là yếu tố nguy cơ lớn đối với bệnh ĐTĐ typ 2. Các nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ chặt chẽ giữa khối lượng mỡ của cơ thể và nguy cơ bị bệnh ĐTĐ. Tỷ lệ béo phì ở người bị ĐTĐ typ 2 thay đổi giữa các khu vực trên thế giới: 60 – 80% ở Nam Mỹ, Châu Âu đến 100% ở người Da đỏ Pima, các đảo Thái Bình Dương [84]. Nhiều nghiên cứu cho thấy các dạng rối loạn lipid máu khác nhau thường tăng lên trong béo phì, nhất là các a xít béo tự do. Béo phì, đặc biệt là béo tạng, đóng vai trò quan trọng trong kháng insulin [95]. Mối liên quan giữa béo phì và ĐTĐ typ 2 ngày càng được hiểu biết hơn nhưng cũng ngày càng phức tạp hơn. Rõ ràng nhất đó là Hội chứng chuyển hóa bao gồm các yếu tố đan xen có liên quan tới nhau như: béo phì và rối loạn hoạt động của mô mỡ, tình trạng kháng insulin, tăng HA, tăng cholesterol máu, hạ thấp nồng độ HDLcholesterol, tăng nồng độ glucose máu (RLDNG hoặc ĐTĐ) [77]. Nguy cơ bị bệnh tăng khi BMI > 24 kg/m2, còn đối với người Châu Á, nguy cơ bị bệnh xuất hiện ở mức BMI thấp hơn [84]. Béo trung tâm (béo bụng được đánh giá bằng vòng bụng ≥ 90 cm đối với nam và ≥ 80 cm đối với nữ) là YTNC mạnh phát triển bệnh. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng vòng eo hoặc chỉ số eo/hông có thể là YTNC phát triển thành ĐTĐ hơn là BMI [79]. Nghiên cứu INTERHEART đã cho thấy béo phì, đặc biệt là béo bụng còn làm tăng nguy cơ bệnh lý tim mạch [82]. Nghiên cứu EPIC Potsdam cho thấy ở lứa tuổi 25 - 40 tuổi cứ tăng 1 đơn vị BMI thì nguy cơ bị ĐTĐ typ 2 tăng 25% và tỷ lệ còn lớn hơn ở lứa tuổi 40 – 55 tuổi. Điều này cho thấy béo phì là yếu tố nguy cơ rất mạnh của ĐTĐ typ 2 [84]. Một nghiên cứu tiến cứu ở các nữ y tá ở Mỹ có BMI từ 23- 24,9 kg/m2 trong vòng 14 năm cho thấy tăng nguy cơ ĐTĐ typ 2 từ 4-5 lần so với nữ y tá có BMI < 22 kg/m2. Những phụ nữ có BMI 29 – 30,9 kg/m2 có nguy cơ bị ĐTĐ cao gấp 27,6 lần [84]. Các nghiên cứu tại Việt Nam cũng đã cho thấy mối liên quan giữa tiền ĐTĐ và thừa cân, béo phì. Nghiên cứu tại Kiên Giang cho thấy tỷ lệ RLDNG tăng theo BMI, 19 BMI <23 kg/m2 là 6,3%, BMI từ 23-29,9 kg/m2 là 13,8% và BMI trên 30 là 15,9%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001 [56]. Nghiên cứu tại Nghệ An cho thấy tỷ lệ RLDNG và RLGMLĐ ở nhóm có vòng eo cao là 12,7% và 5,8% cao hơn nhóm vòng eo bình thường: 8,3% và 4,2% [27]. Nghiên cứu của Lê Minh Sứ tại Thanh Hóa cho thấy tỷ lệ tiền ĐTĐ ở nhóm BMI<23 kg/m2 là 3,7%, nhóm BMI từ 23 đến <25 kg/m2 là 7,95%, nhóm BMI ≥25 kg/m2 là 11,1% (p<0,001). Tỷ lệ tiền ĐTĐ ở nhóm tỷ lệ vòng eo/vòng hông to là 7,72% cao hơn nhóm tỷ lệ vòng eo/vòng hông bình thường là 3,65% (p<0,05) [50] Nghiên cứu của Hoàng Kim Ước, Nguyễn Minh Hùng, Tô Văn Học và cs cho thấy tỷ lệ rối loạn glucose máu ở người gầy là 6,1%; người bình thường là 9,1%, người béo phì độ 1là 14,1% và người béo phì độ 2 là 20,7%. Tỷ lệ rối loạn glucose máu chung ở nhóm có vòng eo cao là 13,2%, nhóm vòng eo bình thường là 8,0% với p<0,01. Tỷ lệ mắc bệnh ở nhóm tỷ lệ vòng eo/vòng hông bình thường là 3,7%; tỷ lệ mắc bệnh ở nhóm tỷ lệ vòng eo/vòng hông cao là 12,0% [57]. Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển kinh tế, trong những năm qua tỷ lệ thừa cân béo phì ngày càng tăng. Tại thành phố Hồ Chí Minh, một điều tra cắt ngang cũng đã chỉ ra tỷ lệ thừa cân, béo phì (BMI ≥ 23 kg/m2) ở người trưởng thành là 33,6% đối với nữ và 31,6% đối với nam. Tỷ lệ béo phì trẻ em 6-11 tuổi tăng từ 12,2% năm 1997 lên 22,7% năm 2003 [131].  Lối sống ít vậnđộng Mức độ vận động đang giảm đi trong những thập kỷ gần đây ở rất nhiều dân tộc, đây là yếu tố góp phần chủ yếu trong việc gia tăng bệnh béo phì hiện nay trên toàn thế giới. Các nghiên cứu đều chỉ ra ít vận động là YTNC độc lập của bệnh ĐTĐ ở cả nam và nữ [103]. Người ít vận động thể lực có nguy cơ bị ĐTĐ cao gấp 2,3 lần so với người hoạt động thể lực bình thường [65]. Nhiều nghiên cứu cho thấy mối liên quan béo phì với ít vận động và ăn quá nhiều ở những trẻ em trải qua hàng giờ trong xã hội hiện đại để xem ti vi và chơi games [96]. Nghiên cứu của Bệnh viện Nội tiết TW năm 2002, cho thấy nhóm đối tượng ít vận động thể lực có nguy cơ bị mắc RLDNG là 1,4 lần so với nhóm hoạt động thể lực 20 nhiều (p<0,001) [2]. Nghiên cứu của Lê Minh Sứ cho thấy tỷ lệ tiền ĐTĐ ở nhóm hoạt động thể lực nhẹ nhàng, tĩnh tại là 6,08%, nhóm hoạt động thể lực vừa và nặng là 4,38% (p<0,05) [50]. Nghiên cứu của Tạ Văn Bình, Nguyễn Thị Ngọc Huyền và cs cho thấy tỷ lệ ĐTĐ, RLDNG liên quan đến tính chất nghề nghiệp, nhóm lao động trí óc, lao động nhẹ có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn nhóm có tính chất lao động nặng và vừa [31]. Nghiên cứu của Lê Phong cho thấy nhóm không thường xuyên đi bộ có nguy cơ mắc tiền ĐTĐ cao gấp 7,5 lần nhóm thường xuyên đi bộ [42].  Hội chứng chuyển hóa Hội chứng chuyển hóa là tên gọi một loạt những chuyển hóa bất thường kết hợp với tăng nguy cơ mắc ĐTĐ và các bệnh tim mạch. Năm 1998, WHO lần đầu tiên đưa ra định nghĩa quốc tế về Hội chứng chuyển hóa, bao gồm: Giảm dung nạp glucose của ĐTĐ và/hoặc kháng insulin và ít nhất 2 yếu tố sau: THA, tăng TG, béo trung tâm, microalbumin niệu [7]. Năm 2001, NCEF/ATP III (the National Cholesterol Education Program’s Adult Treatment Panel III) thêm vào định nghĩa cũ béo trung tâm, bao gồm: ba hoặc nhiều hơn những yếu tố nguy cơ sau: tăng vòng eo, tăng TG, giảm HDL-c, THA, tăng glucose máu [118]. Cả hai định nghĩa này đều thống nhất về những thành phần cơ bản, nhưng khác nhau về xác định yếu tố bất thường cơ bản nhất. WHO xác định là kháng insulin còn ATP III lại là béo trung tâm. Năm 2005, IDF phát triển định nghĩa mới thống nhất trên toàn thế giới được xây dựng dựa trên định nghĩa của WHO và ATP III. Định nghĩa mới này coi cả béo trung tâm và kháng insulin như là những yếu tố nguyên nhân quan trọng. Định nghĩa mới bao gồm: béo trung tâm (xác định bởi vòng eo) và thêm vào bất kỳ 2 yếu tố sau: tăng TG, giảm HDL-c, THA, tăng glucose máu hoặc đã chẩn đoán ĐTĐ [118]. Rối loạn glucose máu lúc đói và rối loạn dung nạp glucose là sự bất thường chuyển hóa glucose của Hội chứng chuyển hóa. Nhiều nghiên cứu đã đánh giá sự nhậy cảm và đặc trưng của Hội chứng chuyển hóa trong việc dự báo sự tiến triển thành ĐTĐ typ 2 trong tương lai. Một nghiên cứu so sánh Hội chứng chuyển hóa với model dự báo
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan