Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tiến trình vận động của văn học trung đại việt nam thế kỷ xviii – xix từ ý thức ...

Tài liệu Tiến trình vận động của văn học trung đại việt nam thế kỷ xviii – xix từ ý thức nghệ thuật đến thực tiễn sáng tác

.PDF
223
800
95

Mô tả:

MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Lý do lựa chọn đề tài ...........................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề .....................................................................................................2 3. Mục đích nghiên cứu .........................................................................................22 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .....................................................................23 5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................23 6. Đóng góp của luận án ........................................................................................24 7. Cấu trúc luận án .................................................................................................25 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỐI TƯỢNG ...........................................................26 1.1. Ý thức nghệ thuật và sự vận động của ý thức nghệ thuật...............................26 1.1.1. Khái niệm ý thức nghệ thuật ....................................................................26 1.1.2. Những phương diện biểu hiện của ý thức nghệ thuật ..............................31 1.1.2.1. Ý thức về chức năng nghệ thuật của văn học ...................................31 1.1.2.2. Ý thức về chất liệu nghệ thuật của văn học ......................................32 1.1.2.3. Ý thức về cấu trúc nghệ thuật của văn học .......................................33 1.1.3. Sự vận động của ý thức nghệ thuật và sự vận động của văn học ............33 1.2. Các tác nhân của sự vận động ý thức nghệ thuật trong văn học thế kỷ XVIII – XIX .................................................................37 1.2.1. Bối cảnh lịch sử – xã hội .........................................................................37 1.2.2. Bối cảnh văn hoá .....................................................................................40 1.2.3. Bối cảnh tư tưởng ....................................................................................49 1.2.4. Sự ảnh hưởng của văn học Trung Quốc ..................................................58 1.3. Tính khả thủ và triển vọng của việc nghiên cứu đối tượng ............................63 1.3.1. Tính khả thủ .............................................................................................63 1.3.2. Triển vọng ................................................................................................63 Tiểu kết chương 1 ..............................................................................................64 CHƯƠNG 2. SỰ VẬN ĐỘNG TRONG Ý THỨC VỀ CHỨC NĂNG NGHỆ THUẬT CỦA VĂN HỌC ..........................................66 2.1. Sự vận động trong ý thức về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực ...........66 2.1.1. Ý thức về “đạo” và “tình” ........................................................................66 2.1.1.1. Ý thức về “đạo”.................................................................................66 2.1.1.2. Ý thức về “tình” ................................................................................69 2.1.2. Ý thức về “thực” và “hư” ........................................................................74 2.1.2.1. Ý thức về “thực” ...............................................................................74 2.1.2.2. Ý thức về “hư” ..................................................................................78 2.2. Sự vận động trong ý thức về mối quan hệ giữa tác giả, tác phẩm và người đọc ...................................................................................................84 2.2.1. Ý thức về cái tôi cá tính trong quá trình sáng tác ....................................84 2.2.2. Ý thức về cách đọc “hướng tình” trong quá trình tiếp nhận ....................95 2.3. Sự vận động trong ý thức về các chức năng nghệ thuật ...............................104 2.3.1. Chức năng “tải đạo”...............................................................................104 2.3.2. Chức năng “ngôn tình” ..........................................................................110 Tiểu kết chương 2 ............................................................................................122 CHƯƠNG 3. SỰ VẬN ĐỘNG VỀ CHẤT LIỆU VÀ CẤU TRÚC NGHỆ THUẬT TRONG THỰC TIỄN SÁNG TÁC VĂN HỌC .................................................124 3.1. Sự biến đổi về ngôn ngữ nghệ thuật .............................................................124 3.1.1. Sự biến đổi trong cấu trúc song thể ngữ ................................................124 3.1.2. Từ ngôn ngữ cao nhã đến ngôn ngữ có tính thế tục ..............................129 3.2. Sự biến đổi về hình tượng nghệ thuật ..........................................................134 3.2.1. Hình tượng nghệ thuật với tính “duy tình” ............................................134 3.2.2. Hình tượng nghệ thuật với tính “duy mỹ” .............................................142 3.2.3. Hình tượng nghệ thuật với tính “dị biệt” ...............................................149 3.3. Sự biến đổi về thể loại ..................................................................................153 3.3.1. Sự biến đổi của hệ thống thể loại...........................................................153 3.3.2. Hiện tượng phá vỡ quy phạm thể loại ...................................................160 3.3.2.1. Chủ thể phát ngôn trong những vai mới .........................................160 3.3.2.2. Sự mở rộng và biến đổi của kết cấu trần thuật................................170 Tiểu kết chương 3 ............................................................................................179 KẾT LUẬN ............................................................................................................181 NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN..............................................................................187 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................188 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Truyện thơ Việt Nam và tiểu thuyết Trung Hoa ......................................98 Bảng 3.1. Hệ thống thể loại.....................................................................................154 Bảng 3.2. Đào hoa mộng ký ....................................................................................177 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài 1.1. Từ đầu thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX, văn học trung đại Việt Nam ghi nhận sự xuất hiện của nhiều hiện tượng đặc biệt. Trên phương diện sáng tác, văn học dân tộc đã đạt đến trình độ cổ điển với thành tựu ở nhiều thể loại từ thơ, phú, ngâm khúc, truyện thơ đến hát nói,v.v. Nhiều tác giả như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ,... bộc lộ cá tính sáng tạo độc đáo. Trên phương diện lý luận phê bình, những bàn luận, tranh luận về văn chương phản ánh sự va chạm, giằng co giữa ý thức sáng tác, ý thức tiếp nhận cũ và mới. Các bài tựa, bạt của Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Chú, Ngô Thế Lân, Cao Bá Quát,v.v., thư từ qua lại giữa các tác giả như Thư gửi Trần Đức Anh (Nguyễn Văn Siêu), Thư gửi Ngô Huy Phan (Nguyễn Văn Siêu), Thư gửi bạn bàn về văn thơ (Nguyễn Miên Trinh), Thư gửi Trọng Cung bàn về từ khúc (Nguyễn Miên Trinh)..., ý kiến khen – chê xung quanh Truyện Kiều, tất cả đều cho thấy văn học đang vận động. Từ thế kỷ XV – XVII chuyển sang thế kỷ XVIII – XIX, cái mới phi chính thống chiếm lĩnh đời sống văn học. Mọi mặt của văn học biến đổi một cách sâu sắc. Điều đó đặt ra câu hỏi về sự vận động của ý thức nghệ thuật ở bề sâu văn học, đồng thời chứng tỏ rằng ý thức nghệ thuật là một vấn đề có tầm quan trọng đối với việc nghiên cứu tiến trình vận động của văn học. 1.2. Xác định ý thức nghệ thuật của một giai đoạn văn học là vấn đề hết sức khó giải quyết. Với văn học trung đại Việt Nam nói chung, văn học giai đoạn hậu kỳ trung đại (thế kỷ XVIII – XIX) nói riêng, độ khó lại càng gia tăng vì tác giả thời kỳ này ít chú trọng đến việc xây dựng một hệ thống lý luận chặt chẽ theo kiểu phương Tây. Mối liên hệ giữa lý luận phê bình và thực tiễn sáng tác có lúc rất mờ nhạt, gây khó khăn cho việc khảo sát. Tuy nhiên, nếu vượt qua khó khăn, chúng ta có thể chạm đến những vấn đề liên quan đến bản chất và quy luật vận động của văn học giai đoạn. Chính vì thế, đây là hướng tiếp cận được giới nghiên cứu quan tâm từ lâu và cho đến nay, cũng chưa phải là đã cũ. Đối với một giai đoạn văn học phức 2 tạp, tồn tại nhiều khuynh hướng đan xen như văn học giai đoạn hậu kỳ, vẫn còn nhiều phương diện của ý thức nghệ thuật cần được làm sáng tỏ. 1.3. Trả lại giá trị cho di sản lý luận của ông cha, đồng thời lý giải văn học trung đại từ chính ý thức của người trung đại là nhiệm vụ quan trọng mà nhiều nhà nghiên cứu đã và đang theo đuổi. Chúng tôi hy vọng đóng góp một phần sức lực vào công việc có ý nghĩa ấy bằng cách tập trung khảo sát ý thức nghệ thuật của văn học giai đoạn hậu kỳ. Được thúc đẩy bởi những lý do như trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài Tiến trình vận động của văn học trung đại Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX: từ ý thức nghệ thuật đến thực tiễn sáng tác. Qua luận án, chúng tôi mong muốn khảo sát một cách hệ thống các phương diện biểu hiện của ý thức nghệ thuật, từ đó phân tích, giải thích những vấn đề cốt lõi, đồng thời chỉ ra quy luật vận động của một giai đoạn văn học vừa sinh động vừa bề bộn. Thiết nghĩa đề tài này thật sự cần thiết, có thể phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy văn học trung đại Việt Nam. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Tranh luận về ''tính văn học'' là cuộc tranh luận phức tạp kéo dài trong lịch sử. Từ phương Tây đến phương Đông, từ cổ đại đến hiện đại từng xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau về cái gọi là bản chất của văn học, về ranh giới phân biệt giữa văn bản văn học và các loại văn bản khác. Mỗi cộng đồng tùy theo giai đoạn, thời đại, hoàn cảnh sở hữu những định nghĩa bất đồng về khái niệm "văn học". Như vậy, tiến trình văn học có thể hiểu là quá trình vận động của ý thức về bản chất, chức năng của văn học, của ý thức sáng tạo và tiếp nhận. Và những khác biệt từ trong ý thức tác giả sẽ được cụ thể hóa thành phương thức tổ chức tác phẩm. Đây chính là định hướng mà chúng tôi sử dụng để nhìn lại văn học trung đại Việt Nam từ đầu thế kỷ XVIII đến cuối XIX. Từ trước đến nay, giới nghiên cứu đã đưa ra nhiều cách nhìn nhận về văn học thế kỷ XVIII – XIX. Qua việc áp dụng những tiêu chí phân kỳ khác nhau, các nhà nghiên cứu cho thấy quan niệm của mình về diễn tiến và đặc trưng của văn học trung đại trong hai thế kỷ cuối cùng. Việt Nam văn học sử yếu (1943) của Dương 3 Quảng Hàm tách văn học thế kỷ XVIII – XIX thành hai giai đoạn. Ông gọi văn học thế kỷ XVII – XVIII là văn học Nam Bắc phân tranh và văn học thế kỷ XIX là văn học cận kim. Ông đã dùng các yếu tố như yếu tố tôn giáo – tư tưởng, yếu tố văn tự, yếu tố nội dung, yếu tố chính trị, yếu tố học thuật… làm căn cứ cho việc xác lập ranh giới giữa các giai đoạn văn học. Cuối những năm 50 của thế kỷ XX, ở miền Bắc, việc viết văn học sử được quan tâm nhiều hơn. Bộ Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam của nhóm Lê Quí Đôn phân chia văn học thế kỷ XVIII – XIX thành các giai đoạn như sau: văn học thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, văn học đầu XIX đến giữa XIX, văn học từ 1858 đến 1930. Bộ Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam của Ban Văn Sử Địa xem văn học thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX là một giai đoạn. Bộ sách dừng lại ở đó. Bộ Lịch sử văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX (xuất bản năm 1979) do nhóm tác giả Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương, Nguyễn Lộc – cán bộ giảng dạy của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội biên soạn – đưa ra một quan điểm phân kỳ mà về sau quan điểm này trở nên phổ biến trong giới trung đại. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương nghiên cứu văn học từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVIII thành một giai đoạn, lấy mốc là những năm thịnh đạt cuối cùng của triều Lê sơ và sự bùng nổ của phong trào khởi nghĩa nông dân vào những năm 40 của thế kỷ XVIII. Nguyễn Lộc biên soạn phần còn lại gồm hai giai đoạn gồm văn học nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX và văn học nửa cuối thế kỷ XIX với cột mốc quan trọng là cuộc xâm lược của thực dân Pháp năm 1858. Ở các bộ sách trên, diễn tiến của văn học tương đồng với diễn tiến lịch sử, xã hội. Sau các biến cố lịch sử - chính trị, các phương diện của văn học như lực lượng sáng tác, công chúng văn học, điều kiện sáng tác văn học thay đổi, từ đó, nội dung và hình thức văn học có bước phát triển mới. Từ thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, những cách tiếp cận khác đối với văn học thế kỷ XVIII – XIX vẫn tiếp tục được đề xuất. Để trình bày về tư tưởng văn học Việt Nam, tác giả Lê Trí Viễn trong Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996) chia văn học trung đại Việt Nam thành hai giai đoạn lớn là: thượng kỳ trung đại (thế kỷ X – XV) và hạ kỳ trung đại (thế kỷ 4 XVI – XIX). Lã Nhâm Thìn trong bài viết mở đầu sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 10 (Nxb Giáo dục, 2006) quan niệm văn học trung đại có hai giai đoạn lớn, trong đó giai đoạn thứ nhất từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII và giai đoạn hai từ thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX. Trần Nho Thìn trong giáo trình Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX (Nxb Giáo dục, 2012) cũng có cách phân kỳ tương tự nhằm chỉ ra sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người. Đoàn Lê Giang trong Luận án tiến sĩ Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam (2001) theo dõi sự phát triển của tư tưởng văn học trung đại Việt Nam theo ba giai đoạn, trong đó văn học thế kỷ XVIII – XIX là một giai đoạn (giai đoạn hậu kỳ). Mỗi cách phân kỳ đều dựa trên tiêu chí riêng và có cơ sở khoa học. Việc lựa chọn một cách phân chia nào đó tùy thuộc vào mục đích và đối tượng nghiên cứu của người đứng ra phân kỳ. Trong luận án này, chúng tôi nhìn văn học thế kỷ XVIII – XIX từ góc độ ý thức nghệ thuật, nghĩa là xem xét sự thay đổi về mặt ý thức của tác giả đối với chức năng và đặc trưng văn học và tương ứng với nó là những thay đổi về thi pháp, thể loại, ngôn ngữ kéo dài từ đầu thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX. Vì lý do đó, chúng tôi lựa chọn khảo sát văn học của hai thế kỷ này như một tiến trình. 2.2. Công tác sưu tầm và dịch thuật tài liệu có ý nghĩa rất lớn đối với việc nghiên cứu ý thức của tác giả trung đại về văn học, bao gồm văn học thế kỷ XVIII XIX. Năm 1963, trên Tạp chí Văn học số 12, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Vân đã dịch và công bố Quan niệm văn học của một số nhà nho Việt Nam. Từ năm 1968 đến 1984, những bài dịch lời bạt, lời tựa, thư từ trao đổi giữa các nhà thơ, nhà văn xuất hiện rải rác trên Tạp chí Văn học. Nguyễn Huệ Chi, Trần Thị Băng Thanh giới thiệu về Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Sĩ; Hoàng Lê về Ninh Tốn, Phạm Thị Tú về Nguyễn Văn Siêu, Ngô Thì Chí; Trần Lê Sáng về Lê Thúc Hoạch; Chương Thâu về Cao Xuân Dực; Hồ Sĩ Hiệp về Miên Trinh, v.v. Công việc khó khăn ấy vẫn đang được tiếp nối. Cuốn Từ trong di sản (những ý kiến về văn học từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX ở nước ta) do Nguyễn Minh Tấn chủ biên (Nxb. Thế giới mới, năm 1981) và cuốn Người xưa bàn về văn chương (Tập 1) của Đỗ Văn Hỷ (Nxb. Khoa học xã 5 hội, năm 1993) đã tập hợp nhiều ý kiến bàn luận về văn chương thời trung đại. Đây là hai tập tư liệu quý giá cho bất kỳ nhà khoa học nào muốn nghiên cứu về ý thức nghệ thuật trong văn học trung đại Việt Nam. Năm 2007, nhóm tác giả Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Vũ Thanh, Trần Nho Thìn một lần nữa sưu tầm, tuyển chọn, sắp xếp và giới thiệu các bài tựa, bạt, thư từ trao đổi của các tác giả từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX trong cuốn 10 thế kỷ bàn luận về văn chương (tập 1, Nxb. Giáo dục). Khác với hai bộ sách trước, công trình ngoài giá trị về mặt tư liệu, còn có giá trị về mặt nghiên cứu. Sau phần giới thiệu các lời tựa, bạt là phần nhận xét, bình luận của người biên soạn nhằm chỉ ra những biểu hiện mới của ý thức nghệ thuật. Đó mới là cái xác định sự vận động của văn học qua các giai đoạn. Thành tựu của công tác sưu tầm, dịch thuật đã cung cấp những bằng chứng thuyết phục nhất về sự tồn tại của một nền lý luận cổ điển trong văn học trung đại Việt Nam, cung cấp cho giới nghiên cứu tư liệu để nhìn nhận, đánh giá chính xác hơn về ý thức nghệ thuật của người xưa. Quan niệm văn học, quan niệm thẩm mỹ từng xuất hiện vào thế kỷ XVIII – XIX là những vấn đề được quan tâm trong nhiều công trình nghiên cứu, từ các bài báo đến các bộ văn học sử, giáo trình, chuyên luận, luận văn, luận án... Nội dung nghiên cứu có thể giới hạn trong phạm vi một tác gia, một giai đoạn, hoặc một thể loại. Trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 4, năm 1960, Trần Thanh Mại viết bài “Tìm hiểu quan điểm văn học của Lê Quý Đôn”. Thời gian sau, Trần Nghĩa viết bài “Góp phần tìm hiểu quan niệm “Văn dĩ tải đạo” trong văn học cổ Việt Nam” (Tạp chí Văn học (TCVH) số 2/1970), Vũ Đình Liên viết bài “Từ nhân sinh quan đến thẩm mỹ quan của Nguyễn Đình Chiểu” (TCVH số 1/1972), Trần Lê Sáng viết về “Thi ngôn chí” (TCVH số 1/1973), Đỗ Đức Dục viết bài “Tuyên ngôn sáng tác của Nguyễn Du” (TCVH số 2/1984), v.v. Về công trình nghiên cứu, năm 1964, giáo trình Văn học cổ Việt Nam của Đinh Gia Khánh có viết một phần về quan niệm “Văn dĩ tải đạo”. Năm 1970, công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Lê Đình Kỵ được xuất bản, trong đó đặt ra vấn đề về quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Du. Nguyễn Lộc trong bộ sách Văn học Việt Nam nửa cuối 6 thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX gồm 2 tập do Nxb. Đại học Trung học chuyên nghiệp xuất bản lần đầu năm 1976, 1978 (khi Nxb. Giáo dục xuất bản lại, được in chung với bộ Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX và lấy nhan đề Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII – hết thế kỷ XIX)) đã xác định rõ đặc trưng cơ bản của văn học giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX là “sự khám phá ra con người và khẳng định những giá trị chân chính của con người” [122, tr.46]. Ông nhấn mạnh: “Đối với văn học giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, nói đặc trưng cơ bản có tính lịch sử của nó là khám phá ra con người, khẳng định những giá trị chân chính của con người, có nghĩa là nói đến giai đoạn này con người với tất cả sự phong phú của nó mới trở thành đối tượng chủ yếu, hàng đầu trong nhận thức của văn học, và điều đó đem lại cho văn học sự đổi mới về nhiều mặt” [122, tr.47]. Đây là một ý kiến quan trọng xác lập sự khác biệt về chất giữa văn học thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX với văn học các giai đoạn khác. Cũng qua bộ sách này, nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc đã phân tích quan điểm sáng tác của nhiều tác giả thuộc văn học thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX như Ngô Thì Vị, Lê Quý Đôn, Cao Bá Quát, Bùi Dương Lịch. Ông viết: “Nếu tìm hiểu kỹ quan điểm văn học của các tác giả đương thời cũng có thể thấy được chừng mực nào sự chuyển biến trong quan niệm của họ. Khá nhiều nhà thơ trong giai đoạn này hay nói đến quan niệm "người cùng thì thơ mới hay”” [122, tr.85]. Nhà nghiên cứu chỉ ra đề cao tình cảm là một biểu hiện độc đáo trong quan điểm sáng tác của nhiều nhà thơ: “Một quan điểm nữa cũng được các nhà thơ giai đoạn này nói đến là thơ phải biểu hiện tình cảm, phải có cảm xúc” [122, tr.86]. “Lê Quý Đôn chủ trương làm thơ phải chú trọng đến ba phương diện là "tình, cảnh và sự". […]. Có thể nói quan niệm này về thực chất trái với quan niệm thi ngôn chí của Nho giáo” [122, tr.87]. 7 “Cao Bá Quát không phải chỉ làm nhiều thơ mà còn phát biểu nhiều suy nghĩ của mình về thơ nữa. […]. Ông quan niệm thơ có quy củ của nó, nhưng cơ sở của sáng tác thơ bao giờ cũng là tình cảm, là cảm xúc. Có tình cảm chân thực, có cảm xúc dồi dào, thơ mới hay, chứ bắt chước người khác, cảm xúc giả tạo thì dù có công phu đến mấy cũng không thể làm thơ hay được” [122, tr.543 - 544]. Năm 1980, trong công trình Cao Bá Quát – con người và tư tưởng (Nxb. Khoa học xã hội), Nguyễn Tài Thư cũng đã chú ý đến quan niệm nghệ thuật của nhà thơ. Điểm chung ở các công trình nghiên cứu được triển khai theo lí luận Marxist là đều nhìn nhận tiến trình văn học như sự thay thế của các phương pháp sáng tác nghệ thuật. Quan niệm văn học, quan niệm thẩm mỹ là cơ sở để lý giải sự xuất hiện của phương pháp sáng tác mới, tiến bộ, vì thế, chúng gắn với nhân dân lao động, với chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo. Chẳng hạn, Lê Đình Kỵ nhận xét về Nguyễn Du như sau: “Mỹ học xưa lấy “văn dĩ tải đạo” làm mục đích và phương châm sáng tác. Truyện Kiều cũng làm cái việc tải đến cho người đọc cái đạo của nó, đó là cái đạo lý làm người, con người sống thực với những thăng trầm, vinh nhục trần thế. [...]. Trong giới hạn của thời đại mình, và với những ràng buộc không tránh khỏi của mỹ học đương thời, Nguyễn Du dám nhìn thẳng vào thực tế và từ cái dòng đời có trong có đục, đã dũng cảm, trung thực làm việc gạn đục khơi trong, làm toát lên cái đẹp sinh động về cuộc sống và con người” [106, tr.112]. Năm 1982, Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh tổ chức hội nghị khoa học nhân kỷ niệm 160 năm ngày sinh của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Thu hút gần 120 bài tham luận, hội thảo đánh dấu một bước tiến mới đối với việc nghiên cứu hệ thống, toàn diện cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Trong hội nghị, Mai Cao Chương qua bài viết “Tìm hiểu quan điểm văn học của Nguyễn Đình Chiểu và sự vận dụng quan điểm đó vào thực tiễn sáng tác của ông” khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức của nhà thơ và thực tiễn 8 sáng tác, đồng thời đánh giá cao tính chiến đấu và tính nhân dân trong quan niệm “Văn dĩ tải đạo” của Đồ Chiểu: “Có thể kết luận rằng quan niệm “đạo” trong thơ văn yêu nước chống Pháp của Nguyễn Đình Chiểu thực chất là yêu nước thương dân” [254, tr.312]. “Quan điểm “chở đạo” của Nguyễn Đình Chiểu gắn rất chặt với thực tiễn sáng tác của ông, và được khái quát lên từ thực tiễn sáng tác ấy. Nhưng thực tiễn sáng tác lại không phải là cái gì đó tồn tại độc lập. Trái lại, nó có quan hệ chặt chẽ với nhà thơ, nó là sản phẩm tinh thần của người cầm bút” [254, tr.312]. Lê Trí Viễn trong chuyên luận Nguyễn Đình Chiểu: Ngôi sao càng nhìn càng sáng (Nxb. TP Hồ Chí Minh, 1982) cũng đưa ra nhận định tương tự. Phương pháp xã hội học đã giúp chỉ ra những khía cạnh tiến bộ về lịch sử và nhân sinh trong quan niệm văn học, quan niệm thẩm mỹ thuộc giai đoạn văn học hậu kỳ. Các nhà nghiên cứu theo phương pháp này thống nhất với nhau ở chỗ là đều sử dụng mô hình đồng nhất diễn tiến văn học với diễn tiến của các hình thái xã hội, các cuộc đấu tranh giai cấp. Trên tạp chí Nghiên cứu Văn – Sử – Địa số 11/1955, Nguyễn Đổng Chi, tác giả cuốn Việt Nam cổ văn học sử (1942), đã viết: “Văn học sử là những thiên lịch sử ghi lại những phong trào văn học phản ánh quá trình đấu tranh của con người. Văn học sử là lịch sử của cả nhân loại hay của riêng một dân tộc về phương diện văn học. Nó đòi hỏi người viết phải có một quan điểm duy vật lịch sử và đứng trên lập trường giai cấp vô sản” [265, tr.403]. Quan điểm này chi phối cách đánh giá, phân loại mọi hiện tượng văn học và có lúc trở nên rất cực đoan. Những thay đổi ở lực lượng sáng tác chỉ được hình dung là sự thay đổi vị trí giữa các tầng lớp, giai cấp trong xã hội. Tuy nhiên, ngoài phương pháp và mô hình trên, còn có những phương pháp và mô hình nghiên cứu khả thủ khác. Ở miền Nam, Phạm Thế Ngũ soạn bộ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (3 tập, Quốc học tùng thư xuất bản, 1961 - 1965), trong đó phần “Văn học lịch triều” được chia thành hai bộ phận Hán văn và Việt văn. Với cách chia như vậy, Phạm Thế Ngũ đã chứng tỏ với người đọc rằng văn học chữ Hán và chữ Nôm có sự phát triển riêng. Để lý giải sự phát triển ấy, nhà nghiên cứu cần dựa trên nhiều yếu 9 tố từ văn chương đến văn hóa, tư tưởng, học thuật…Trong Bảng lược đồ văn học Việt Nam (Nxb. Trình bày, 1967), Thanh Lãng áp dụng mô hình thế hệ nhà văn. Tiêu chí phân biệt các thế hệ, tiêu chí chọn thế hệ nào làm đại diện cho một giai đoạn văn học có thể chưa thật ổn [30, tr.958 - 993] nhưng đây là một mô hình mới, góp phần khẳng định văn học cũng trải qua quá trình “động đạt”, “thăng trầm”, không phải chỉ phát triển theo đường thẳng. Sự nỗ lực của các nhà nghiên cứu như Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ... cho thấy sự vận động của văn học rất phức tạp và cần được soi chiếu từ nhiều góc nhìn. Năm 1985, cuộc thảo luận về phân kì văn học đưa ra nhận thức mới về tiến trình vận động của văn học, “hạn chế tình trạng xã hội học dung tục, giản đơn, nhằm quán triệt sâu sắc hơn đặc trưng bản chất của văn học” (Đỗ Đức Hiểu) [76, tr.52]. Trần Đình Hượu trong bài viết Vấn đề chọn năm mốc trong việc phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX đã chứng minh rằng chưa thể xem nửa cuối thế kỷ XIX là thời kỳ mới chỉ vì sự đổi mới của nội dung tư tưởng mà cần phải xét đến tính độc lập của văn học. Cái mới thật sự phải gắn với quan niệm văn học và hệ thống thể loại. Mối quan hệ giữa hệ tư tưởng và văn học được Trần Đình Hượu giải quyết một cách thấu đáo và thỏa đáng hơn trước. Hệ tư tưởng như Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo tác động đến văn học khi nó hình thành nên ở tác giả quan niệm văn học, quan niệm cái đẹp. Trong bài viết “Nho giáo và văn học nghệ thuật” (1981), Trần Đình Hượu nhiều lần nhấn mạnh nghiên cứu quan niệm văn học, quan niệm cái đẹp để chỉ ra sự vận động của văn học là một nhiệm vụ cấp thiết: “Văn nghệ hiện đại gián đoạn với văn chương vì được viết theo quan niệm văn học khác, hệ thống thể loại khác, tiêu chuẩn cái đẹp khác” [88, tr.40]. “...Chứng tích ảnh hưởng của Nho giáo trong văn học không chỉ ở mô típ nội dung, hình ảnh, từ ngữ mà sâu xa hơn là ở quan niệm văn học, quan niệm cái đẹp” [88, tr.40]. Qua các công trình của mình, Trần Đình Hượu đã đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa định hướng, làm thay đổi cách tiếp cận đối với văn học trung đại Việt Nam. Từ sự phát triển của Trần Đình Hượu, “nhà nho tài tử” trở thành một khái niệm có tính công cụ giúp giải thích sự vận động của văn học. Trước Trần Đình Hượu, nhà 10 nghiên cứu Nguyễn Bách Khoa – Trương Tửu trong công trình Tâm lí và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (Tạp chí Văn mới, Hà Nội, 1944) đã sớm dùng khái niệm “người tài tử”, “nhà nho tài tử”. Ông viết: “Quan niệm “cầm kỳ thi tửu” là một quan niệm tài tử. Bằng danh từ này người ta thường chỉ thị hạng nho sĩ lơ đãng với công việc kinh bang tế thế (hành đạo) mà thiên trọng về văn học, về sự vui sống cầu kỳ (hành lạc). Đỗ Phủ, Lý Bạch, Lưu Linh… là những nhà nho tài tử vậy. Họ không sống cho Tổ quốc, không sống vì đạo lý. Họ sống cho họ, sống vì nghệ thuật, sống vì đẹp. Suốt đời họ chỉ tìm cái đẹp. Cái ý vị của cuộc sống, theo quan niệm tài tử, không phải ở chỗ phụng sự mà là ở chỗ hưởng thụ, ở uống rượu, ở làm thơ, ở gẩy đàn, ở đánh cờ, ở giăng gió, ở sông núi. Nếu không biết thưởng thức những trò chơi ấy một cách mỹ thuật thì dù có sống đến nghìn tuổi cũng như là chết non mà thôi (thiên tuế diệc vi thương)” [189, tr.621 - 622]. Đến lượt mình, nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu phát triển và đưa ra những nhận định sâu sắc, có tính “chiến lược” (chữ dùng của Trần Nho Thìn) về nhà nho tài tử. Trong công trình Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại (Nxb Văn hóa Thông tin, 1995), ông xác định nhà nho tài tử là một trong ba mẫu nhà nho: nhà nho hành đạo, nhà nho ẩn dật, nhà nho tài tử. Ông nhận định: “Xét về mặt tác giả văn học hình như có một sự khác biệt rõ rệt giữa ba mẫu nhà nho: người hành đạo, người ẩn dật và người tài tử. Người hành đạo và người ẩn dật là con sinh đôi, thay thế nhau xuất hiện trong những tình thế khác nhau của xã hội nông thôn – cung đình cố hữu. Còn người tài tử ra đời chậm, gắn chặt với sự phát triển eo hẹp của đô thị. Nhà nho tài tử đối lập Tài và Đức, Tình và Tính, coi trọng thích thú cá nhân, đòi tự do, phóng khoáng và hưởng thụ lạc thú trần tục. Chính họ là chủ nhân của nền văn học có mầm mống chống Nho giáo, có xu hướng nhân đạo chủ nghĩa như ngâm khúc, truyện Nôm (chỉ tính các truyện tình yêu tài tử - giai nhân) và hát nói” [88, tr.39]. Như vậy, Trần Đình Hượu đã dùng các phạm trù Tài và Đức, Tình và Tính để phân loại nhà nho. Và từ những khái niệm này, người đi sau có cơ sở để nhìn 11 nhận lại sự phát triển của văn học thế kỷ XVIII – XIX trên các phạm trù mỹ học. Trần Nho Thìn trong “Một số quan điểm nghiên cứu văn học của Trần Đình Hượu” khẳng định: “Đây rõ ràng là một cách nhìn mới, soi rọi một ánh sáng mới vào thực tế văn học vốn như đã được nhiều người cùng thời ông phân tích cạn kiệt” [88, tr.758]. Khái niệm “nhà nho tài tử” tiếp tục được Trần Ngọc Vương, Nguyễn Đức Mậu…, những nhà nghiên cứu thuộc thế hệ học trò của Trần Đình Hượu vận dụng, phát triển, đào sâu. Trần Ngọc Vương đã kế thừa và làm rõ hơn quan niệm của thầy Trần Đình Hượu trong luận án Tiến sĩ, sau đó xuất bản thành sách chuyên luận Loại hình học tác giả văn học nhà nho tài tử và văn học Việt Nam (Nxb. Giáo dục, 1995). Ông nghiên cứu sự hình thành và phát triển của loại hình nhà nho tài tử trong “xã hội phi cổ truyền” [273, tr.68], dưới “sự hậu thuẫn của nền kinh tế đô thị tuy còn yếu ớt nhưng đã được hình thành và dần lớn mạnh” [273, tr.103]. Ông phân tích cặn kẽ vấn đề này như sau: “Chính sự khác biệt từ cơ sở kinh tế này đã tạo nên tính đặc thù của loại hình nhà nho tài tử. Và theo Phan Ngọc, những con người tài tử lại là những người học đạo thánh hiền nhưng suy nghĩ theo lối thị dân. Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đều tự xưng là tài tử. Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đều tự xưng là tài tử. Con người tài tử là điển hình của thời đại mới. Con người quân tử bị chế giễu, đạo đức sống khắc kỉ phục lễ bị mạt sát. Một trào lưu tư tưởng mới manh nha trong những chàng trai tài giỏi nhất thời đại” [273, tr.103]. Bên cạnh khái niệm “nhà nho tài tử”, Trần Đình Hượu trong Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại cũng đã phân tích một cách khoa học, thấu đáo về quan niệm văn học và quan niệm cái đẹp của Nho giáo: “Nho giáo ảnh hưởng tới văn học (kể cả văn học Việt Nam) với tư cách là một học thuyết tức là một hệ thống các quan điểm về thế giới, về xã hội, về con người, về lý tưởng,… cho nên cũng có một cách quan niệm văn học riêng. Với quan niệm đó, người ta hiểu thực chất văn học là gì? Những cái gì được xếp vào văn học? Thế nào là văn chương? Theo quan niệm văn học của Nho giáo, văn học có một 12 nguồn gốc linh thiêng, một chức năng xã hội cao cả, tổ chức, hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội” [88, tr.36]. “Quan niệm cái đẹp, cái hay của Nho giáo cũng chi phối ngòi bút. Văn chương phải để giáo hóa, có quan hệ đến thế đạo, nhân tâm, có tác dụng di dưỡng tính tình nên phải có nội dung đạo lý. Không những về nội dung không được nói cái vô đạo, cái thiếu trang nhã mà về hình thức biểu đạt cũng phải thấm nhuần tinh thần khoan thứ, nhân nghĩa” [88, tr.38]. Tiếp thu những nhận định trên của Trần Đình Hượu và các thế hệ nhà nghiên cứu học trò của Trần Đình Hượu, chúng tôi nhận thức được rằng sự biến đổi của văn học trung đại gắn chặt với sự xuất hiện của con người tài tử, đồng thời muốn cắt nghĩa được văn học trung đại Việt Nam thì không thể không tìm hiểu quan niệm văn học, quan niệm cái đẹp của Nho giáo. Từ cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, trong không khí học thuật cởi mở hơn, việc nghiên cứu quan niệm nghệ thuật trung đạt được thành tựu mới. Giới nghiên cứu khảo sát quan niệm văn học trung đại từ nhiều góc độ, nỗ lực thay đổi cái nhìn xã hội học đang dần trở nên cực đoan. Cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 thi pháp học và những thành tựu của M.Bakhtin được giới thiệu ở Việt Nam, sau đó công trình cơ bản của các nhà Hình thức luận (Formalism) như R.Jakobson, B.Eikhenbaum, V.Shklovski, J.Tynianov… được chuyển ngữ. Khi ứng dụng thi pháp học vào nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, Trần Đình Sử trong Mấy vấn đề về thi pháp văn học trung đại Việt Nam (Nxb. Giáo dục, 1999) quan niệm tiến trình văn học là “tiến trình tự ý thức của con người trong văn học” [193, tr.49]. Thi pháp học trên cấp độ vĩ mô sẽ nghiên cứu “những nguyên tắc nghệ thuật – thẩm mỹ lớn chi phối sáng tạo văn học và hiện diện trong văn học” [193, tr.24]. Trên cấp độ này, “quan niệm nghệ thuật là phạm trù có tầm quan trọng trung tâm, có tác dụng chi phối các bình diện hình thức nghệ thuật khác” [193, tr.25]. Không chỉ vậy, “ý thức về hình thức văn học cũng là một vấn đề hết sức quan trọng, bao gồm ý thức thể loại, ý thức ngôn ngữ và nói chung, ý thức về bản thân văn học” [193, tr.29]. 13 Trên cơ sở vận dụng thi pháp học để phân tích trường hợp tác phẩm của một tác giả cụ thể, Nguyễn Huệ Chi qua bài viết “Trường hợp Nguyễn Khuyến – dấu hiệu chuyển mình của tư duy thơ dân tộc” (in lần đầu trong phần “Dẫn luận” Thi hào Nguyễn Khuyến – đời và thơ, Nxb. Giáo dục, 1994) đi đến khái quát sự vận động trong tư tưởng nghệ thuật của nhà thơ: “...từ những đổi thay chưa thật tự giác và hệ thống trong hệ tư tưởng, trong quan điểm xã hội, nhân sinh, trực giác thiên tài đã sớm dẫn dắt ông đến những đổi thay trong tư tưởng nghệ thuật, góp phần hình thành nên ở ông những nhận thức vô ngôn về một phương thức tư duy nghệ thuật mới” [31, tr.1066]. Với Hình thức luận, sự tiến triển của văn học được quan niệm như là một quá trình chống lại sự “tự động hóa”. Mỗi hệ thống được hợp thành bởi nhiều thể loại văn học, vận động theo quy luật chuyển các thể loại từ ngoại vi vào trung tâm. Chịu ảnh hưởng từ thi pháp thể loại của M.Bakhtin, Nguyễn Phạm Hùng trong quyển Văn học Việt Nam (từ thế kỷ X đến thế kỷ XX) (Nxb. ĐH Quốc gia Hà Nội, 1999) dùng mô hình thể loại để nghiên cứu tiến trình vận động của văn học: “Những sự xuất hiện, biến đổi, phát triển của thể loại văn học, của các phương thức nghệ thuật trong các thời kỳ lịch sử khác nhau chính là biểu hiện sự phát triển của lịch sử văn học” [83, tr.6]. Từ góc độ văn hóa, trong công trình Văn học trung đại Việt Nam: dưới góc nhìn văn hóa (Nxb. Giáo dục, 2013), ông cho rằng “miêu tả lịch sử biến chuyển, vận động của văn học cần dựa vào khung hệ thống khái niệm hình thành trong giai đoạn đầu tiên của chính nền văn học đã được viết chứ không phải là những khái niệm do chúng ta ngày nay nghĩ ra” [213, tr.65]. Tiến trình văn học có tính hệ thống, vì thế phải được xác lập thông qua một hệ thống khái niệm tương ứng. Nhiệm vụ của nhà văn học sử phải là phân tích hệ thống khái niệm đó qua tác phẩm văn học và “theo dõi chúng biến đổi qua thời gian như thế nào, đi tìm những căn cứ lịch sử xã hội để giải thích sự biến đổi ấy” [213, tr.66]. Bộ sách này tập hợp các bài viết có giá trị của nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn. Trong bài viết “Trường hợp Nguyễn Du: Văn học trung đại từ chủ nghĩa dân bản đến chủ nghĩa nhân bản (Về ý nghĩa hiện 14 đại của Nguyễn Du)” (đã in trên Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 12/2005, tr.36-44), ông phân tích sự thay đổi trong ý thức của Nguyễn Du về con người: “Nhận thức về con người là một vấn đề có tính lịch sử. Nhận thức này đã diễn ra trong văn học trung đại như là một quá trình quan sát con người, lúc đầu từ góc độ con người “thần dân”, như là đối tượng thuần túy của nhà chính trị, cuối cùng đi đến chỗ nhìn nhận con người như là một đối tượng của chủ nghĩa nhân bản, con người “tự nó”, con người nhìn từ bản thể luận. Nguyễn Du là trường hợp điển hình nhất cho chặng cuối, là người đánh dấu sự hoàn thiện của ý thức về con người nhân bản” [213, tr.265]. Trên cơ sở này, tác giả khẳng định “thành công của Nguyễn Du bắt nguồn từ chủ nghĩa nhân bản sâu sắc của ông” [213, tr.274]. Trong bài viết “Trào lưu chủ tình của văn học Việt Nam thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX và dấu vết ảnh hưởng của sách Thế thuyết tân ngữ” (đã in trên Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 1/2007, tr.78-104), Trần Nho Thìn đã khảo sát, phân tích, biện luận một cách công phu về khái niệm “tình”. Theo tác giả, ở Việt Nam thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX xuất hiện trào lưu chủ tình. Theo ông, “hai đặc điểm về lối sống của danh sĩ phong lưu Ngụy Tấn là lấy rượu để đạt được cảnh giới lưỡng vật ngã vong và sống theo tình, theo cảm hứng chống lại danh giáo, chống lại cái duy lý của Nho học đã ảnh hưởng khá mạnh đến văn học Việt Nam thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, góp phần tạo nên một trào lưu chủ tình đặc sắc” [213, tr.541]. Về trào lưu chủ tình, ông định nghĩa: “Trào lưu chủ tình” trong văn học thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX là một khái niệm chúng tôi sử dụng theo một nghĩa ước lệ, nhằm định danh một xu hướng văn học chiếm vị trí nổi bật nhất, làm nên thành tựu quan trọng nhất của văn học giai đoạn này: trào lưu văn học đề cao tình (emotions), tức thiên về xúc cảm thay vì lí trí tỉnh táo của nhà nho truyền thống” [213, tr.548]. Xem “tình” là khái niệm cơ bản của văn học giai đoạn, nhà nghiên cứu xem xét sự tác động của “tình” đến mọi mặt của văn học: 15 “Các nhà thơ thế kỷ XVIII và XIX trân trọng tình cảm con người trên triết lý căn bản xem con người là giống có tình, là “nòi tình” (tình chủng), “giống hữu tình” chứ không phải là cỏ cây, gỗ đá” [213, tr.543]. “Có thể mô tả trào lưu này từ nhiều góc độ khác nhau. Trên phương diện quan niệm về con người (nhân vật), ta thấy mẫu nhân vật sống chủ tình, “việt danh giáo nhiệm tự nhiên rất rõ nét” [213, tr.548]. “Về phương diện thể loại, những thể loại quan trọng của giai đoạn văn học này như ngâm khúc, truyện thơ, hát nói đều chuyên chở nội dung đề cao tình cảm con người tự nhiên, trần thế” [213, tr.548]. “Về phương diện quan niệm văn học, Lê Quý Đôn viết về vai trò của tình trong thơ (theo ông, thơ có ba yếu tố căn bản: tình, cảnh, sự). Cao Bá Quát nhắc đến “tính linh” (khái niệm của Viên Mai dùng trong Tùy Viên thi thoại) để chỉ về tình cảm chân thật trong thơ” [213, tr.549]. Đi sâu hơn lý luận cổ điển là hướng nghiên cứu ngày càng được chú ý bởi tính cấp thiết của nó. Một loạt bài viết, công trình ra đời. Nguyễn Ngọc Quận viết “Quan niệm của Cao Bá Quát về văn học” (Tập san Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM, số 6/1999). Nguyễn Đăng Na viết “Hoa Nguyên thi thảo và lời bình của thi hào Nguyễn Du” (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 3/2005). Nguyễn Thanh Tùng viết “Nhìn lại quan niệm về thơ của học giả Lê Quý Đôn trong Vân Đài loại ngữ” (Tạp chí Khoa học ĐHSP Hà Nội, số 2/2006), “Tìm hiểu quan niệm thi học của Cao Bá Quát” (Kỉ yếu Hội thảo Khoa học Cán bộ trẻ Trường ĐHSP Hà Nội, 2010), thực hiện thành công luận án tiến sĩ đề tài Sự phát triển tư tưởng Thi học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2010). Nguyễn Đình Phức viết “Về bài Tự tự Tĩnh phố thi tập của Miên Trinh” (Tạp chí Hán Nôm, số 3/2006), “Nguyễn Miên Thẩm dữ thần vận thi học” (Ngoại vực Hán tịch nghiên cứu tập san, Đệ nhất tập, Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh, 2006), “Luận thi thi, một hình thức phê bình trong văn học Việt Nam cần được chú ý khai thác” (Tạp chí Hán Nôm, số 5(96)/2009). Trần Đình Sử viết bài “Đôi điều về quan niệm văn học của Cao Bá Quát” (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 16 11/2008). Phạm Văn Ánh viết bài “Quan niệm từ học của Miên Trinh” (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 12/2011). Hoàng Ngọc Cương giới thiệu và phân tích bài tựa Ninh Tĩnh thi tập tự qua bài viết “Quận vương Vĩnh Tường:Vị hoàng tử hay thơ qua bài tựa của Quảng Khê Trương Đăng Quế” (Tạp chí Sông Hương, số 331/2016)... Theo một định hướng khác, tư duy hiện đại và các khái niệm lý luận hiện đại như “tâm lý sáng tạo”, “quy luật sáng tạo nghệ thuật”, “bản chất thẩm mỹ”,v.v. được vận dụng để lý giải về quan niệm văn học trung đại. Năm 1996, Phạm Quang Trung hoàn thành luận án tiến sĩ đề tài Tìm hiểu quan niệm thơ cổ Việt Nam (Trường Đại học Sư phạm T.P. Hồ Chí Minh), sau đó xuất bản những công trình khảo cứu như Văn chương với Lê Quý Đôn (Nxb. Giáo dục, 1994), Thơ trong con mắt người xưa (Nxb. Hội nhà văn, 1999), Quan niệm văn chương cổ Việt Nam – từ một góc nhìn (Nxb. Khoa học xã hội, 2011)… Có thể thấy, ngoài quan niệm văn học nói chung, quan niệm từ học, thi học của nhiều tác giả, nhất là những tác giả để lại sự nghiệp văn chương hoặc sự nghiệp lý luận, phê bình phong phú, có giá trị cao như Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Lê Quý Đôn, Miên Thẩm, Miên Trinh,v.v., ngày càng được chú ý. Mỗi công trình nghiên cứu là một mảnh ghép dần hợp thành một bức tranh rộng lớn hơn, làm phát lộ ra sự vận động trong quan niệm văn học ở từng tác giả hoặc từng nhóm tác giả thuộc thế kỷ XVIII – XIX. Nhìn chung, quan niệm văn học của thế kỷ XVIII – XIX thường được đề cập đến như một bộ phận trong mười thế kỷ văn học trung đại. Tác phẩm Góp phần xác lập hệ thống quan niệm của văn học trung đại Việt Nam (Nxb Giáo dục, 1997) của Phương Lựu là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống các quan niệm từng xuất hiện trong văn học trung đại Việt Nam. Quan niệm văn học, theo lý giải của nhà nghiên cứu, “là hoạt động văn học bước đầu được ý thức một cách tổng quát trên bình diện lý thuyết” [125, tr.88]. Các quan niệm văn học được ông trình bày theo hai hệ thống như sau: Phần 1: Hệ thống những quan niệm văn học cơ bản
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan