Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tiếp xúc ngôn ngữ ê đê việt ở tỉnh dak lăk trên bình diện từ vựng ngữ nghĩa...

Tài liệu Tiếp xúc ngôn ngữ ê đê việt ở tỉnh dak lăk trên bình diện từ vựng ngữ nghĩa

.PDF
155
909
131

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Lưu Thị Dịu TIẾP XÚC NGÔN NGỮ Ê ĐÊ - VIỆT Ở TỈNH DAK LĂK TRÊN BÌNH DIỆN TỪ VỰNG - NGỮ NGHĨA LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC TP. Hồ Chí Minh - 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Lưu Thị Dịu TIẾP XÚC NGÔN NGỮ Ê ĐÊ - VIỆT Ở TỈNH DAK LĂK TRÊN BÌNH DIỆN TỪ VỰNG - NGỮ NGHĨA Chuyên ngành Mã số : Ngôn ngữ học : 60 22 01 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. DƯ NGỌC NGÂN TP. Hồ Chí Minh - 2013 LỜI CẢM ƠN Để có thể hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi xin đặc biệt gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS. TS Dư Ngọc Ngân, cô đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô, đồng nghiệp ở Trường Đại học Tây Nguyên - nơi tôi đang công tác đã tạo điều kiện thuận lợi, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến toàn thể gia đình và bạn bè đã tạo mọi điều kiện về vật chất và tinh thần cho tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện đề tài này. Xin chân thành cảm ơn! Dak Lăk, ngày 2 tháng 11 năm 2013 Học viên thực hiện Lưu Thị Dịu MỤC LỤC Lời cảm ơn Mục lục PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA SỰ TIẾP XÚC NGÔN NGỮ Ê ĐÊ – VIỆT Ở TỈNH DAK LĂK ....................................... 10 1.1. Cơ sở lí luận ...................................................................................................... 10 1.1.1. Tiếp xúc ngôn ngữ .......................................................................................... 10 1.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................................... 25 1.2.1. Khái quát về người Ê đê ở tỉnh Dak Lăk ........................................................ 25 1.2.2. Khái quát về ngôn ngữ Việt, Ê đê ................................................................... 28 1.3. Tiểu kết............................................................................................................... 37 CHƯƠNG 2. TỪ VỰNG TIẾNG Ê ĐÊ VAY MƯỢN TIẾNG VIỆT ..... 39 2.1. Khảo sát và thống kê lớp từ ngữ tiếng Ê đê vay mượn của tiếng Việt .............. 39 2.1.1. Lớp từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ, lĩnh vực và vị trí công tác .................. 39 2.1.2. Lớp từ ngữ chỉ cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp.................................... 44 2.1.3. Lớp từ ngữ chỉ khoa học kĩ thuật .................................................................... 46 2.1.4. Lớp từ ngữ chỉ động - thực vật........................................................................ 53 2.1.5. Lớp từ ngữ chỉ đồ vật ...................................................................................... 55 2.1.6. Lớp từ ngữ chỉ tên người................................................................................. 58 2.2. Các phương thức tiếng Ê đê vay mượn từ ngữ tiếng Việt ................................. 62 2.2.1. Phương thức dịch nghĩa .................................................................................. 62 2.2.2. Phương thức kết hợp phiên âm với dịch nghĩa ............................................... 64 2.2.3. Phương thức phiên âm ................................................................................... 66 2.2.4. Phương thức mượn nguyên dạng .................................................................... 70 2.3. Tiểu kết............................................................................................................... 71 CHƯƠNG 3. TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT VAY MƯỢN TIẾNG Ê ĐÊ ..... 73 3.1. Khảo sát và thống kê lớp từ ngữ tiếng Việt vay mượn của tiếng Ê đê .............. 73 3.1.1. Lớp từ ngữ chỉ địa danh .................................................................................. 73 3.1.2. Lớp từ ngữ chỉ nhà ở, đồ dùng, dụng cụ lao động .......................................... 74 3.1.3. Lớp từ ngữ chỉ không gian văn hóa, lễ hội, phong tục tập quán ..................... 78 3.2. Các phương thức tiếng Việt vay mượn từ ngữ tiếng Ê đê ................................. 84 3.2.1. Phương thức dịch nghĩa .................................................................................. 84 3.2.2. Phương thức phiên âm .................................................................................... 85 3.2.3. Phương thức mượn nguyên dạng .................................................................... 87 3.3. Vấn đề địa danh của tỉnh Dak Lăk trong sự tiếp xúc ngôn ngữ ......................... 87 3.3.1. Đặc điểm dân cư và văn hóa...........................................................................87 3.3.2. Vài nét về thực trạng ....................................................................................... 89 3.3.3. Một số ý kiến đề xuất ...................................................................................... 98 3.4. Tiểu kết............................................................................................................. 100 KẾT LUẬN .................................................................................................. 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 105 PHỤ LỤC 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ và đa văn hóa. Vùng Tây Nguyên nói chung và tỉnh Dak Lăk nói riêng là mảnh đất tiêu biểu cho sự phong phú, đa dạng ấy. Hiện nay, ở Dak Lăk có tới 44 dân tộc anh em sinh sống. Ngoài người Kinh thì có thể nói người Ê đê là dân tộc bản địa, có số lượng dân cư đông nhất. Theo Báo cáo kết quả chính thức tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, số người Ê đê ở Dak Lăk là 298.534 người chiếm 17.2% dân số toàn tỉnh và 90,1% số người Ê đê tại Việt Nam. Trong bối cảnh đa dân tộc, đa ngôn ngữ tất yếu sẽ xảy ra hiện tượng tiếp xúc ngôn ngữ giữa các dân tộc. Tiếp xúc ngôn ngữ có thể diễn ra trên tất cả các bình diện khác nhau của ngôn ngữ như từ vựng, ngữ âm, ngữ pháp. Riêng ở bình diện từ vựng - ngữ nghĩa, sự tiếp xúc sẽ giúp các ngôn ngữ làm giàu thêm vốn từ ngữ của mình. Người Ê đê đã xây dựng được hệ thống ngôn ngữ và chữ viết riêng của dân tộc mình. Hiện nay, tiếng Ê đê đã được đưa vào giảng dạy ở bậc Tiểu học cho học sinh (từ lớp 3 đến lớp 5) tại những vùng có người Ê đê sinh sống nhằm góp phần nâng cao năng lực song ngữ Ê đê - Việt cho họ. Hơn thế nữa, nhu cầu học tập và sử dụng tiếng Ê đê của người Kinh cũng như tiếng Kinh của người Ê đê ở những vùng này đang trở nên hết sức cấp thiết. Việc so sánh đối chiếu các ngôn ngữ trong tiếp xúc sẽ chỉ ra sự tương tác cũng như những nét tương đồng và dị biệt giữa các ngôn ngữ tiếp xúc. Cụ thể trong trường hợp này, sự tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Ê đê trên phương diện từ vựng - ngữ nghĩa sẽ làm giàu cho cả hai ngôn ngữ nhờ sự vay mượn vốn từ vựng của nhau. Tiếng Ê đê đã vay mượn một số lượng từ vựng tương đối lớn của tiếng Việt và tiếng Việt cũng đã mượn của tiếng Ê đê một số 2 lượng từ vựng nhất định. Nghiên cứu và xác định rõ số lượng những từ ngữ mà hai ngôn ngữ Việt, Ê đê đã vay mượn của nhau sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục ngôn ngữ nói chung, việc dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc Ê đê và dạy tiếng Ê đê cho người Kinh nói riêng. Hơn nữa, là một người đang sinh sống và công tác tại tỉnh Dak Lăk, bản thân tôi cũng luôn có ý thức tìm hiểu, học tập để sử dụng được tiếng Ê đê vào công việc của mình. Vì những lí do khách quan và chủ quan trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Tiếp xúc ngôn ngữ Ê đê – Việt ở tỉnh Dak Lăk trên bình diện từ vựng - ngữ nghĩa” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học. Hi vọng những đóng góp của đề tài sẽ giúp ích cho những ai đang quan tâm đến vấn đề này. 2. Lịch sử vấn đề Tiếp xúc ngôn ngữ xảy ra khi con người sử dụng hai hay nhiều ngôn ngữ. Tức là nó xảy ra khi có hiện tượng song ngữ hoặc đa ngữ do những nguyên nhân kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội, địa lý,… khác nhau. Những người sử dụng các ngôn ngữ khác nhau có nhu cầu giao lưu, tiếp xúc với nhau. Để có thể gao tiếp được, họ cần phải học tập ngôn ngữ của nhau. Xuất phát từ việc học tập này, cộng đồng đã hình thành nên rất nhiều người có thể sử dụng hai hay nhiều ngôn ngữ. Có thể nói, tiếp xúc ngôn ngữ là một hiện tượng phổ biến trong mọi ngôn ngữ trên thế giới. Cho tới nay, vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến: Công trình Tiếng Việt trong tiếp xúc ngôn ngữ từ giữa thế kỷ XX của nhà nghiên cứu Vương Toàn đã đề cập đến hiện tượng tiếp xúc ngôn ngữ giữa tiếng Việt với các ngoại ngữ phổ biến mà cụ thể là tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Trung; giữa tiếng Việt với một số ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở nước ta trong quá trình giao lưu văn hóa và phát triển ở Việt Nam từ giữa thế kỉ XX đến nay. Theo ông, “hiện tượng tiếp nhận các yếu tố ngôn ngữ mới 3 thể hiện rõ nhất và chủ yếu nhất là ở cấp độ từ vựng. Thật vậy, việc bổ sung các yếu tố từ vựng mới thường xảy ra khi có sự tiếp xúc giữa các ngôn ngữ” [29, tr.15] Hai tác giả Phan Ngọc và Phạm Đức Dương trong cuốn sách Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á cũng trình bày những vấn đề lí thuyết chung nhất về hiện tượng tiếp xúc ngôn ngữ. Hai ông khẳng định: “Nói đến tiếp xúc ngôn ngữ là nói đến những thay đổi rất sâu sắc diễn ra ngay trong cấu trúc của A do B đưa đến, hay nói khác đi, nếu trong quá trình phát triển lịch sử, A không tiếp xúc với B thì tự nó không có cái diện mạo ngày nay, hay muốn có phải chờ đợi một thời gian lâu dài hơn rất nhiều, và kết quả cũng không thể hệt như ngày nay được”. Công trình này cũng đi sâu tìm hiểu sự ảnh hưởng ngữ nghĩa giữa tiếng Việt và tiếng Hán, nghiên cứu sự tiếp xúc về ngữ pháp mà cụ thể là những ảnh hưởng của ngữ pháp châu Âu tới ngữ pháp tiếng Việt. Trong công trình Từ ngoại lai tiếng Việt, tác giả Nguyễn Văn Khang đã khẳng định: “Vay mượn từ vựng là hệ quả của sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các ngôn ngữ có nguyên nhân từ tiếp xúc ngôn ngữ. Vì thế, khi xem xét vay mượn từ vựng không thể không nói đến tiếp xúc ngôn ngữ”. Trong cuốn sách này, tác giả đã trình bày vấn đề lí thuyết về vay mượn từ vựng, các bình diện vay mượn của từ và các cách vay mượn từ vựng. Từ đó, ông đi vào khảo sát hoạt động của các từ ngoại lai trong tiếng Việt, bao gồm từ mượn tiếng Hán, từ mượn tiếng Anh và từ mượn tiếng Pháp được sử dụng trong tiếng Việt. Luận án Tiếp xúc ngôn ngữ giữa tiếng Khmer với tiếng Việt của tác giả Nguyễn Thị Huệ đã trình bày tổng quan các vấn đề liên quan đến lí thuyết tiếp xúc ngôn ngữ. Từ đó, tác giả đi sâu vào nghiên cứu quá trình tiếp xúc ngôn ngữ Việt, Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh Trà Vinh nói riêng trên cả ba phương diện từ vựng, ngữ âm và ngữ pháp. Đây là một công trình nghiên cứu khá điển hình về hiện tượng tiếp xúc ngôn ngữ giữa tiếng 4 Việt với ngôn ngữ của một dân tộc thiểu số. Ngoài ra, tìm hiểu về vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ còn có nhiều nhà nghiên cứu khác như tác giả Vương Toàn với đề tài khoa học cấp Bộ “Tiếp xúc ngôn ngữ và đời sống của các lớp từ vay mượn trong tiếng Việt từ nửa cuối thế kỉ XX” và bài viết “Tiếp xúc ngôn ngữ: vay mượn và sao phỏng”; công trình “Tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Kiên Trường,… Tất cả những nghiên cứu trên giúp cho những người quan tâm thấy được một cách khái quát toàn cảnh bức tranh về lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ. Nghiên cứu về tiếng Ê đê mà cụ thể là vấn đề từ vựng đã có một số công trình tiêu biểu: Công trình Từ vựng các phương ngữ Ê đê của tác giả Đoàn Văn Phúc – nhà nghiên cứu chuyên sâu về tiếng Ê đê của Việt Nam - đã giới thiệu rất tỉ mỉ một bức tranh tổng quát về các phương ngữ Ê đê. Cuốn sách được trình bày thành hai phần với hai nội dung lớn. Trong phần đầu, tác giả miêu tả hệ thống âm vị học tiếng Êđê và nói khái quát về sự phân chia các phương ngữ. Phần thứ hai, ông đã cung cấp một vốn tư liệu phong phú (9000 từ vựng) và chính xác giúp người nghiên cứu có thể so sánh giữa các phương ngữ Ê đê. Nội dung mà tác giả trình bày trong cuốn sách này là tài liệu rất quan trọng, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu về sự tiếp xúc ngôn ngữ giữa tiếng Việt và tiếng Ê đê của luận văn. Luận án Hệ thống từ ngữ chỉ người trong tiếng Ê đê của tác giả Đoàn Thị Tâm nghiên cứu hệ thống từ ngữ chỉ người về phương diện cấu tạo và ngữ nghĩa. Nghiên cứu về hệ thống chỉ người tiếng Ê đê, tác giả đã phân chia và đi vào tìm hiểu các nhóm từ ngữ như: đại từ nhân xưng, từ chỉ nghề nghiệp, từ chỉ chức vụ, từ chỉ quan hệ xã hội. Qua đó, tác giả đã đi sâu để phân tích và phát hiện ra những đặc trưng văn hóa của dân tộc Ê đê ẩn sau lớp từ ngữ đó. 5 Trong luận án Từ loại danh từ trong tiếng Ê đê, tác giả Nguyễn Minh Hoạt đi sâu làm rõ đặc điểm của từ loại danh từ trong tiếng Ê đê về các phương diện như cấu tạo, đặc điểm định danh, phương thức kết hợp, chức vụ cú pháp và đặc trưng văn hóa của người Ê đê qua việc sử dụng danh từ. Trong công trình này, nhà nghiên cứu cũng đi phân chia danh từ tiếng Ê đê ra làm hai loại là danh từ chung và danh từ riêng. Luận án đặc biệt đi sâu vào nhóm danh từ chỉ người trong tiếng Ê đê, trong đó có các tiểu loại như: danh từ chỉ quan hệ thân tộc; danh từ chỉ quan hệ xã hội... Bên cạnh đó, luận án khẳng định trong hệ thống từ vựng tiếng Ê đê không có các từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp, khoa học công nghệ, người Ê đê phải mượn tiếng Việt để giao tiếp. Về từ điển tiếng Ê đê chúng ta có thể kể tới các công trình sau: Đầu tiên phải kể đến cuốn Từ điển Việt – Ê đê do Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Dak Lăk phối hợp với Viện Ngôn ngữ học biên soạn. Các tác giả của công trình này đã xây dựng và đối chiếu rất công phu, tỉ mỉ hệ thống 10.000 đơn vị từ vựng cơ bản và thông dụng Việt – Ê đê. Cuốn từ điển rất hữu ích, tạo điều kiện để đồng bào Ê đê nâng cao trình độ tiếng Việt cũng như cho đối tượng người Kinh cần học tập tiếng Ê đê. Đây cũng là công trình rất hữu ích cho việc tra cứu tư liệu về dân tộc Ê đê của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Tiếp đến là cuốn Từ điển Êđê - Việt được nhóm chuyên viên Ban nghiên cứu giáo dục học sinh dân tộc thuộc Sở Giáo dục & Đào tạo Dak Lăk phối hợp với các trí thức người Ê đê biên soạn. Cuốn từ điển đã hệ thống hóa được hơn 4.200 từ dựa trên nhóm ngôn ngữ của người Ê đê Kpă, đây được xem là dòng ngôn ngữ phổ biến, thông dụng hiện nay ở hầu hết buôn làng người dân tộc Ê đê. Công trình có sự đầu tư bảo đảm về mặt chuyên môn, đáp ứng được nhu cầu học tập, nghiên cứu và bảo tồn văn hóa của người Ê đê trên địa bàn Tây nguyên. Ngoài ra, nghiên cứu và biên soạn từ điển về tiếng Ê đê còn có thể kể 6 tới tác giả Shintani Tadahico với công trình Từ vựng Ê đê – Việt – Nhật. Đây là tài liệu đầu tiên xây dựng từ điển đối chiếu những từ vựng cơ bản trong tiếng Ê đê với tiếng Việt và tiếng Nhật. Cuốn từ điển giúp người sử dụng ba ngôn ngữ này có thể dễ dàng học tập và tra cứu từ vựng. Điểm qua các công trình nghiên cứu chúng tôi thấy rằng chưa có một tác giả nào nghiên cứu về vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ mà cụ thể là trên bình diện từ vựng – ngữ nghĩa giữa tiếng Việt và tiếng Ê đê ở tỉnh Dak Lăk. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài: tổng quan về lí thuyết tiếp xúc ngôn ngữ, khái quát đặc điểm của tiếng Ê đê và tiếng Việt. - Thu thập, thống kê các từ ngữ thuộc lớp từ mà tiếng Ê đê vay mượn của tiếng Việt và ngược lại. - Khảo sát, phân tích và miêu tả các phương thức vay mượn từ vựng của tiếng Việt và tiếng Ê đê qua quá trình tiếp xúc, vay mượn giữa hai ngôn ngữ. - Khảo sát hiện tượng sử dụng từ ngữ vay mượn giữa tiếng Ê đê và tiếng Việt ở tỉnh Dak Lăk - Bước đầu tìm hiểu và khám phá những nét đặc trưng về văn hóa của người Ê đê ẩn sâu dưới lớp ngôn ngữ. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu sự tiếp xúc ngôn ngữ Ê đê – Việt trên bình diện từ vựng - ngữ nghĩa. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Khi hai ngôn ngữ tiếp xúc với nhau, sự tác động qua lại giữa chúng có thể diễn ra trên tất cả các bình diện của ngôn ngữ: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Hệ quả của sự tiếp xúc này là xảy ra các hiện tượng như vay mượn ngôn ngữ, 7 lai tạp ngôn ngữ, chuyển di ngôn ngữ, trộn mã và chuyển mã trong giao tiếp,… Trong phạm vi đề tài này chúng tôi đi vào nghiên cứu hệ thống từ vựng tiếng Ê đê và hệ thống từ vựng tiếng Việt, đặc biệt là lớp từ ngữ vay mượn do quá trình giao lưu, tiếp xúc giữa cộng đồng người Ê đê và người Kinh. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu sự tiếp xúc ngôn ngữ của tiếng Ê đê (cụ thể là nhóm tiếng Ê đê kpă) và tiếng Việt ở tỉnh Dak Lăk. 5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 5.1. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đây là phương pháp chúng tôi sử dụng chủ yếu để viết cơ sở lí luận của đề tài thông qua đọc sách, các tài liệu tham khảo, các khóa luận, luận văn, luận án để tìm hiểu những nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu. - Phương pháp thống kê ngôn ngữ học: Sử dụng phần mềm Ms. Excel để thống kê và phân loại số lượng các từ vay mượn giữa hai ngôn ngữ. - Phương pháp phân tích, miêu tả: xem xét từng trường hợp vay mượn từ vựng và xác định rõ phương thức vay mượn của các trường hợp đó. 5.2. Nguồn ngữ liệu Ngữ liệu mà chúng tôi khảo sát trong luận văn này mà cụ thể là các từ ngữ mà hai ngôn ngữ Việt, Ê đê vay mượn của nhau được thu thập từ các từ điển sau: - Từ điển Êđê - Việt được nhóm chuyên viên Ban nghiên cứu giáo dục học sinh dân tộc thuộc Sở Giáo dục & Đào tạo Dak Lăk phối hợp với các trí 8 thức người Ê đê biên soạn năm 2006. - Từ điển Việt – Ê đê do Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Dak Lăk phối hợp với Viện Ngôn ngữ học biên soạn năm 1993. Ngoài nhóm từ ngữ được thu thập từ hai cuốn từ điển trên, chúng tôi còn tiến hành điền dã, sưu tầm các từ ngữ được sử dụng trong thực tế giao tiếp của người Ê đê và người Việt ở tỉnh Dak Lăk. 6. Đóng góp của đề tài - Luận văn thu thập và thống kê được những từ ngữ mà tiếng Ê đê vay mượn của tiếng Việt và những từ ngữ mà tiếng Việt vay mượn của tiếng Ê đê. - Xác định được các phương thức vay mượn từ vựng giữa hai ngôn ngữ: tiếng Việt và tiếng Ê đê. - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tư liệu cho người Việt học tiếng Ê đê và ngược lại. - Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần vào việc bảo tồn tiếng nói và chữ viết của dân tộc Ê đê. - Trên cơ sở ngữ liệu khảo sát được từ sự tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Ê đê, luận văn có thể góp thêm cứ liệu làm minh chứng cho lí thuyết tiếp xúc ngôn ngữ. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của sự tiếp xúc ngôn ngữ Ê đê – Việt ở tỉnh Dak Lăk Trong chương này chúng tôi trình bày những cơ sở lí luận (hiện tượng tiếp xúc ngôn ngữ và hiện tượng vay mượn từ vựng) và cơ sở thực tiễn (vài nét giới thiệu về người Ê đê, tiếng Ê đê trong sự so sánh với tiếng Việt) liên quan đến đề tài. 9 Chương 2: Từ vựng tiếng Ê đê vay mượn tiếng Việt Nội dung chính được trình bày trong chương 2 là các lớp từ ngữ tiếng Ê đê vay mượn của tiếng Việt. Thống kê rõ số lượng từ ngữ trong mỗi lớp; phân tích, mô tả để tìm ra các phương thức mà tiếng Ê đê sử dụng để vay mượn từ ngữ của tiếng Việt. Chương 3: Từ vựng tiếng Việt vay mượn tiếng Ê đê Thống kê các lớp từ ngữ tiếng Việt vay mượn của tiếng Ê đê. Làm rõ các phương thức mà tiếng Việt sử dụng khi vay mượn từ ngữ tiếng Ê đê. Ngoài ra, chương 3 còn đề cập đến vấn đề tên địa danh ở tỉnh Dak Lăk trong sự tiếp xúc ngôn ngữ. 10 Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA SỰ TIẾP XÚC NGÔN NGỮ Ê ĐÊ – VIỆT Ở TỈNH DAK LĂK 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Tiếp xúc ngôn ngữ 1.1.1.1. Thuật ngữ “tiếp xúc ngôn ngữ” Giao tiếp là nhu cầu thiết yếu, không thể thiếu được của con người trong xã hội. Để thực hiện hoạt động giao tiếp, con người sử dụng nhiều phương tiện khác nhau nhưng ngôn ngữ là phương tiện quan trọng và hiệu quả nhất. “Nhu cầu giao lưu đã khiến cho những người nói một ngôn ngữ nào đó tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp với những người nói những ngôn ngữ lân cận hay có ưu thế về mặt văn hóa. Sự giao lưu có tính chất hữu nghị hay thù địch. Nó có thể diễn ra trên bình diện thường của những quan hệ kinh doanh hay buôn bán, hoặc có thể là một sự vay mượn hay trao đổi những giá trị tinh thần, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo” (Ed. Sapir, 1949, tr237) (Dẫn theo Nguyễn Văn Khang) [14, tr.9]. Thuật ngữ “tiếp xúc ngôn ngữ” do André Martinet là người đưa ra đầu tiên. Cho tới khi tác phẩm “Languages in contact” của U. Weinrich ra đời thì thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi. Theo (O.S. Akhmanova) thì “tiếp xúc ngôn ngữ (language contact) được hiểu là sự tiếp hợp lẫn nhau giữa các ngôn ngữ do những điều kiện cận kề nhau về mặt địa lý, sự tương cận về mặt lịch sử, xã hội dẫn đến nhu cầu của các cộng đồng người vốn nói những thứ tiếng khác nhau phải giao tiếp với nhau”. Truyền thống ngôn ngữ học xác định, tiếp xúc ngôn ngữ về bản chất là “học ngôn ngữ”. Muốn biết nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế gới thì con 11 người phải học tập. Và khi có hai hoặc hơn hai ngôn ngữ tồn tại trong não bộ của một con người thì sẽ tạo ra sự tiếp xúc. Vì thế, tiếp xúc ngôn ngữ được coi là bắt đầu và xuất phát từ sự học tập. Tiếp xúc ngôn ngữ đầu tiên được xảy ra ở một bộ phận thành viên trong xã hội có tham gia học tập ngôn ngữ thứ hai. Sau đó, kết quả tiếp xúc sẽ được các thành viên này mở rộng ra toàn xã hội. Sự tiếp xúc dựa trên việc học tập của một bộ phận thành viên xã hội vẫn được coi là tiếp xúc ngôn ngữ mà không cần đòi hỏi tất cả mọi người tham gia học một ngôn ngữ khác. Khi nói đến tiếp xúc ngôn ngữ với tư cách là một thuật ngữ ngôn ngữ học, người ta không muốn nói đến những chứng tích về văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị còn lại trong ngôn ngữ L1 mà ngôn ngữ L2 đã đưa đến. Tiếp xúc ngôn ngữ xét đến vấn đề căn bản nhất của ngôn ngữ là cấu trúc ngôn ngữ. Nói đến tiếp xúc ngôn ngữ là nói đến những thay đổi hết sức sâu sắc diễn ra ngay trong cấu trúc của L1 do L2 đưa đến; nói đến cái cơ chế vận hành của ngôn ngữ ở đằng sau vô số hiện tượng cụ thể. Tức là nói đến cái điều mà chỉ nhà ngôn ngữ học mới có thể nhận thấy được và lí giải được. Khi nghiên cứu vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ, chúng tôi nhận thấy có hai cách tiếp cận khác nhau của các nhà ngôn ngữ học: Thứ nhất, theo cách tiếp cận đơn ngữ luận, sự tiếp xúc ngôn ngữ thu hẹp vào sự vay mượn từ vựng và cách diễn đạt, không có sự tác động đến cấu trúc ngôn ngữ. Bởi vì, theo quan điểm này, cấu trúc của một ngôn ngữ, dù là cấu trúc ngữ âm, ngữ pháp hay ngữ nghĩa đều khép kín trong bản thân nó, do những quan hệ nội tại qui định. Tiếp xúc được xem như là một hiện tượng ngoài ngôn ngữ và bị gạt bỏ. Đây là hiện tượng tiếp xúc bên ngoài của ngôn ngữ, hay còn gọi là sự tiếp xúc ở mặt ứng dụng. Đó là hiện tượng một người sử dụng hai hoặc hơn hai ngôn ngữ làm nên hiện tượng song ngữ và đa ngữ trong sử dụng. Cách nhìn nhận này thống trị trong giới ngôn ngữ học cho đến 12 những năm 60 của thế kỉ XX. Cách tiếp cận đơn ngữ luận không những là có lí mà còn cần thiết ở giai đoạn đầu khi cấu trúc luận đang lo xây dựng cho nó một hệ thống thao tác để miêu tả ngôn ngữ một cách khách quan. Thứ hai, theo cách tiếp cận song ngữ luận thì một ngôn ngữ là một thể thống nhất biện chứng giữa cái cấu trúc nội tại đã có với những khả năng phát triển do một cấu trúc khác đưa lại. Vì vậy, theo cách tiếp cận này, bên cạnh việc thừa nhận tính cấu trúc của ngôn ngữ và sự phát triển theo những qui luật nội tại của nó còn tính đến cả sự tiếp xúc ngôn ngữ. Trước hết là sự tiếp xúc ở mặt cấu trúc hay còn gọi là sự tiếp xúc trong nội bộ ngôn ngữ. Đây là mối quan hệ tương tác, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai hoặc hơn hai ngôn ngữ trong bộ óc con người. Sự tiếp xúc này làm ảnh hưởng đến cấu trúc ngôn ngữ. Hệ quả của sự tiếp xúc này là sự vay mượn, hay sự thẩm thấu các thành phần, các phương thức, thậm chí làm thay đổi các qui tắc, thay đổi hệ thống và cấu trúc, đến mức có thể gây nên sự pha trộn giữa hai ngôn ngữ làm nảy sinh một ngôn ngữ mới. Lối tiếp cận này chỉ được thừa nhận khi sự tiếp xúc ngôn ngữ là có thực, tức là có hiện tượng một ngôn ngữ L1 thay đổi cấu trúc vì tiếp xúc với một ngôn ngữ L2. Đây là một hiện tượng chung của ngôn ngữ loài người chứ không phải là ngoại lệ, mặc dầu có sự khác nhau ở cách biểu hiện của mỗi loại hình ngôn ngữ. Cách tiếp cận song ngữ luận hiện nay được đa số các nhà ngôn ngữ học tin tưởng. Bởi vì, cách tiếp cận song ngữ luận không phải là đối lập lại cách tiếp cận đơn ngữ luận mà chỉ là giúp cho cách nhìn này càng thêm chặt chẽ. Theo Phan Ngọc, “chấp nhận song ngữ luận không phải là dùng nó để thay thế đơn ngữ luận mà trái lại, dùng nó để bổ sung cho quan điểm đơn ngữ luận càng thêm chặt chẽ” [20, tr.14]. Một yếu tố do tiếp xúc nếu đã nhập vào cấu trúc của nó là vận hành theo cái cấu trúc của ngôn ngữ, nó gây nên những biến đổi trong cấu trúc này là do những quan hệ bên trong của ngôn ngữ chứ 13 không phải do tiếp xúc. Tiếp xúc chỉ đóng vai trò là một áp lực đẩy nhanh sự chuyển biến của cấu trúc chứ không phải đóng vai người điều khiển cấu trúc. Bởi vì, muốn là một hệ thống tín hiệu, ngôn ngữ trước hết phải nhất quán với chính nó. 1.1.1.2. Hệ quả của tiếp xúc ngôn ngữ Trong xã hội đa ngữ, các ngôn ngữ tiếp xúc lẫn nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. Hệ quả của sự ảnh hưởng này được biểu hiện chủ yếu ở giao thoa, vay mượn và pha trộn (lai tạp) ngôn ngữ. Giao thoa (interference) vốn là một thuật ngữ vật lí được dùng trong ngôn ngữ. Trong lĩnh vực ngôn ngữ học, giao thoa được hiểu “là hiện tượng chệch chuẩn của tiếng mẹ đẻ dưới tác động của ngôn ngữ thứ hai hoặc hiện tượng chệch chuẩn của ngôn ngữ thứ hai dưới tác động của tiếng mẹ đẻ ở những người song ngữ / đa ngữ” [14, tr.35]. Với quan niệm này, giao thoa dùng để chỉ hiện tượng tác động qua lại giữa cấu trúc và các yếu tố của cấu trúc của hai hoặc hơn hai ngôn ngữ trong môi trường song ngữ, đa ngữ. Giao thoa chỉ xảy ra trong các ngôn ngữ có sự tiếp xúc trực tiếp với nhau. Vay mượn từ vựng cũng là một hiện tượng xảy ra khi có sự tiếp xúc giữa hai hay nhiều ngôn ngữ. Khi ngôn ngữ L1 bất kì tiếp xúc với ngôn ngữ L2 thì hai ngôn ngữ này có thể vay mượn từ vựng của nhau bằng nhiều phương thức khác nhau như dịch nghĩa, phiên âm, chuyển tự hay mượn nguyên dạng. Vay mượn xảy ra có thể là do thiếu, do ngôn ngữ L1 không có vốn từ chỉ một khái niệm nào đó trong khi ngôn ngữ L2 lại có. Nhưng có khi mặc dù không thiếu, đã có sẵn nhưng các ngôn ngữ vẫn vay mượn của nhau nhằm làm phong phú thêm vốn từ vựng của mình. Nếu như giao thoa chỉ có thể xảy ra khi có sự tiếp xúc trực tiếp, lâu dài của cư dân khác ngôn ngữ thì vay mượn lại có thể xảy ra ngay cả khi không có sự tiếp xúc trực tiếp của hai 14 cư dân ngôn ngữ. Khi hai ngôn ngữ tiếp xúc với nhau thì phát sinh một hện tượng nữa gọi là lai tạp mà “tiếng bồi” là hình thức chủ yếu nhất của hiện tượng này. “Tiếng bồi là một thứ ngôn ngữ được dùng theo thói quen của những người có tiếng mẹ đẻ khác nhau, nhằm làm dễ dàng trong giao tiếp giữa họ”. Hay nói cách khác, tiếng bồi ra đời như là biến dạng của sự tiếp xúc ngôn ngữ. Tiếng bồi ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu giao tiếp mang tính lâm thời trong một cộng đồng xã hội có các thành viên nói các ngôn ngữ khác nhau: khi tiếp xúc nhau, họ đã không thể giao tiếp được, vì thế họ phái tìm đến một ngôn ngữ giao tiếp chung bằng cách tạo ra một ngôn ngữ phụ trợ dựa trên cơ sở các ngôn ngữ của họ. Vì thế tiếng bồi được hình thành do sự lai tạp của ít nhất hai ngôn ngữ. Do chỉ để thỏa mãn sự giao tiếp trong nội bộ nên phạm vi sử dụng của tiếng bồi thường rất hẹp và mang tính lâm thời. Tuy nhiên, tiếng bồi cũng có thể được lan tỏa, khuyếch tán ra toàn xã hội và được sử dụng rộng rãi. Hệ quả mà tiếng bồi để lại chính là sự xâm nhập các yếu tố của nó vào ngôn ngữ cơ sở. Cách nhìn nhận này giúp ta có thể giải thích các hiện tượng ngôn ngữ đã và đang xuất hiện do tiếp xúc ngôn ngữ tạo nên. 1.1.1.3. Tiếp xúc ngôn ngữ là hiện tượng phổ biến trong các ngôn ngữ Mỗi quốc gia, dân tộc khác nhau trên thế giới có những đặc trưng văn hóa, ngôn ngữ làm nên bản sắc riêng của họ. Trên thế giới, theo thống kê chỉ có trên 200 quốc gia nhưng có tới hơn 6 800 ngôn ngữ. Các quốc gia, dân tộc không sống cô lập mà luôn có sự tiếp xúc, giao lưu với các dân tộc, quốc gia khác. Hiện tượng một tộc người nói ngôn ngữ L1 phải tiếp xúc, giao lưu với một tộc người nói ngôn ngữ L2 là hết sức tự nhiên. Do dó, ngôn ngữ này có sự giao lưu tiếp xúc với ngôn ngữ khác là chuyện rất bình thường và mang tính phổ biến. Tiếp xúc ngôn ngữ là hiện tượng ngôn ngữ phổ biến trong đời sống xã hội giao tiếp của con người và vì thế nó được coi là hiện tượng phổ 15 biến đối với mọi ngôn ngữ trên thế giới. Tiếp xúc ngôn ngữ xảy ra khi con người sử dụng hai hay nhiều ngôn ngữ. Tức là nó xảy ra khi có hiện tượng song ngữ hoặc đa ngữ do những nguyên nhân kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội, địa lý,… khác nhau. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà sự tiếp xúc ngôn ngữ không chỉ trong ngày một, ngày hai mà nó kéo dài hàng thế kỉ. Trong sự tiếp xúc đó, đương nhiên các ngôn ngữ tiếp xúc phải có sự tác động qua lại, chịu ảnh hưởng lẫn nhau. Có những ảnh hưởng nhất thời, chỉ biểu hiện trong một thời gian nhất định với một nhóm người hạn chế, rồi sau đó không còn lại nữa. Nhưng lại có những ảnh hưởng lâu dài, phổ biến, và được duy trì trong ngôn ngữ cho dù sự giao tiếp đã thay đổi. Sự tiếp xúc giữa các tộc người có thể bị ngừng lại vì một lí do nào đó nhưng những ảnh hưởng của sự tiếp xúc ngôn ngữ này vẫn còn tồn tại hàng ngàn năm sau như một chứng tích cho dù sự giao tiếp thực tế không còn nữa. Trong tiếp xúc, ngôn ngữ tự nhiên có khả năng sử dụng các phương thức vay mượn để bổ sung cho những thiếu hụt trong hệ thống ngữ âm – chữ viết, từ vựng - ngữ nghĩa và ngữ pháp của mình, khiến nó ngày càng thêm phong phú, đủ sức đảm nhiệm chức năng là phương tiện giao tiếp quan trọng của con người trong những điều kiện kinh tế xã hội mới. Khi các nhóm người dùng ngôn ngữ khác nhau tồn tại cạnh nhau thì ngôn ngữ mà họ sử dụng có điều kiện tiếp xúc. Trong tác động thâm nhập qua lại, ngôn ngữ của nhóm có ưu thế về xã hội – chính trị, kinh tế - văn hóa, khoa học – kĩ thuật,… tất có ảnh hưởng mạnh hơn, song không phải là không có chiều ngược lại. Ngay cả khi con người ít có sự tiếp xúc trực tiếp với nhau, ngôn ngữ của họ vẫn có thể vay mượn các yếu tố của nhau, có thể thông qua một ngôn ngữ trung gian, nhờ hoạt động của những người làm công tác phiên dịch, biên
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan