Lời mở đầu
Ttck Việt Nam ra đời đã gần 8 năm, có những khi thị trường lên cao,
có khi xuống thấp. Những tháng cuối 2007 và đầu 2008, TTCK có nguy cơ
quay trở lại mốc chỉ số những năm đầu. Do tính cấp thiết của vấn đề cũng
như mong muốn tìm hiểu sau thị trường, em xin chọn đề tài : Nguyên nhân
thị trường chứng khoán VN sụt giảm trong thời gian gần đây và những định
hướng trong thời gian tới” làm báo cáo tổng hợp trình lên thầy. Mong thầy
cho nhận xét để chuyên đề được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
Chương I: Tổng quan về thị trường chứng
khoán (TTCK) và TTCK Việt Nam
1.1 Tổng quan về TTCK
1.1.1
Khái niệm TTCK
Thị trường chứng khoán: là một thị trường mà ở nơi đó người ta mua
bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời. Tuy
nhiên, đó có thể là TTCK tập trung hoặc phi tập trung.
Tính tập trung ở đây là muốn nói đến việc các giao dịch được tổ chức
tập trung theo một địa điểm vật chất.Hình thái điển hình của TTCK tập trung
là Sở giao dịch chứng khoán ( Stock exchange). Tại Sở giao dịch chứng khoán
(SGDCK), các giao dịch được tập trung tại một địa điểm; các lệnh được
chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh để hình thành
nên giá giao dịch.
TTCK phi tập trung còn gọi là thị trường OTC (over the counter). Trên
thị trường OTC, các giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty
chứng khoán phân tán trên khắp quốc gia và được nối với nhau bằng mạng
điện tử. Giá trên thị trường này được hình thành theo phương thức thoả thuận.
1.1.2
Vai trò của TTCK
Thứ nhất, TTCK, với việc tạo ra các công cụ có tính thanh khoản cao,
có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù hợp
với yêu cầu phát triển kinh tế.
TTCK tạo ra một sự cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường tài chính,
điều này buộc các ngân hang thương mại và các tổ chức tài chính phải quan
tâm tới hoạt động của chính họ và làm giảm chi phí tài chính.
Việc huy động vốn trên TTCK có thể làm tăng vốn tự có của các công
ty và giúp họ tránh các khoản vay có chi phí cao cũng như sự kiểm soát chặt
2
chẽ của các ngân hàng thương mại. TTCK khuyến khích tính cạnh tranh của
các công ty trên thị trường. Sự tồn tại của TTCK là yếu tố quyết định để thu
hút vốn đầu tư nước ngoài .Đây chính là yếu tố đảm bảo cho sự phân bổ có
hiệu quả nguồn lực trong một quốc gia cũng như trong phạm vi quốc tế.
Thứ hai,TTCK góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông
qua việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công
chúng,giải tỏa sự tập trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn nhưng vẫn tập
trung vốn cho phát trển kinh tế.
Thứ 3,TTCK tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý
doanh nghiệp. Khi quy mô của doanh nghiệp tăng lên, môi trường kinh doanh
trở nên phức tạp hơn.TTCK tạo điều kiện cho việc tiết kiệm vốn và chất xám,
tạo điều kiện thúc đẩy quá trình cổ phần hóa danh nghiệp Nhà nước. Cơ chế
thong tin hoàn hảo tạo khả năng giám sát chăt chẽ của TTCK đã làm giảm tác
động của các tiê cực trong quản lý, tạo điều kiện kết hợp lợi ích của chủ sở
hữu, nhà quản lý và nhưng người làm công.
Thứ 4, hiệu quả của quốc tế hóa thị trường chứng khoán.Việc mở cửa
TTCK làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều này cho
phép các công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn, tăng cường đầu tư từ
nguồn tiết kiệm bên ngoài, đồng thời tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế
và mở rộng cơ hội kinh doanh của các công ty quốc tế.
Thứ 5, Chính phủ có thể huy động các nguồn tài chính mà không phải
chịu áp lực về lạm phát.
Thứ 6,Cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kì kinh doanh trong
tương lai.
1.2 Tổng quan về TTCK Việt Nam năm 2007
3
“Trải qua nhiều thăng trầm, TTCKVN năm 2007 vẫn đạt được mức
tăng trưởng vượt bậc, giá trị vốn hóa thị trường đạt 43,7% GDP - một con số
không nhỏ so với một thị trường còn non trẻ như Việt Nam.”
Với những thành công đạt được trong năm 2006, một tương lai tươi
sáng đã được vẽ ra cho TTCKVN ngay từ thời điểm đầu năm. Tuy nhiên,
trước những tác động đa chiều của các yếu tố vĩ mô, ảnh hưởng của tâm lý…
cung cầu của TTCKVN trong năm 2007 đã có những thay đổi mang tính căn
bản. Biến động của TTCK trong năm 2007 vì thế trở nên khó lường và không
còn đi đúng với kịch bản của năm 2006. Tuy nhiên, xét một cách toàn diện,
TTCKVN năm 2007 vẫn được đánh giá là thành công, với sự trưởng thành của
tất cả các chủ thể tham gia thị trường và sự tăng lên của giá trị vốn hóa thị
trường đã tạo đà cho sự phát triển của thị trường trong năm 2008 và các năm
tiếp theo, đưa TTCK dần trở thành một kênh đầu tư phổ biến.
Tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2007 đạt mức cao nhất trong 11 năm trở lại đây.
Với mức 8,48%, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đã đứng thứ 3 châu Á (sau Trung
Quốc: 11,3% và Ấn Độ: khoảng 9%). Nền kinh tế dịch chuyển theo hướng tăng mạnh về
dịch vụ và công nghiệp, giảm bớt tỷ trọng nông nghiệp.
Tuy nhiên, năm 2007 cũng là năm lạm phát tại VN đạt mức cao nhất trong vòng 11
năm qua với mức 12,6% - vượt qua cả tốc độ tăng trưởng GDP. Nguyên nhân của vấn đề
này là do độ mở cao của nền kinh tế VN, chính sách định giá đồng VND theo USD và sự
tăng giá hàng hóa trao đổi thương mại trên thị trường thế
Với vai trò là một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, TTCK đã
thực sự đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế VN. Mặc dù chưa thực sự trở thành
“phong vũ biểu” phản ánh mọi động thái của nền kinh tế 1 cách nhạy bén và chính xác
nhất, nhưng những thay đổi của tình hình kinh tế vĩ mô – cả ở hướng thành tựu và hạn chế của nền kinh tế Việt Nam trong năm vừa qua đã ảnh hưởng lớn và được phản ánh phần nào
thông qua
bức tranh TTCK năm 2007.
1.2.1
các chủ thể tham gia thị trường
4
Năm 2007, TTCKVN đạt được những thành công đáng kể: quy mô hoạt động của
thị trường không ngừng mở rộng; nhiều loại cổ phiếu và trái phiếu mới được niêm yết trên
thị trường; các chủ thể quan trọng của thị trường như các tổ chức niêm yết; các công ty
chứng khoán; các nhà đầu tư đã thực sự thích nghi với môi trường hoạt động của một thể
chế tài chính bậc cao – Thị trường chứng khoán
1.2.1.1
Cơ quan quản lý
Trung tâm giao dịch chứng khoán TPHCM chính thức được chuyển đổi thành Sở
giao dịch chứng khoán TPHCM vào giữa năm 2007
Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội cũng thay đổi thời gian giao dịch để tạo
điều kiện cho nhà đầu tư có thêm nhiều thời gian và cơ hội để đầu tư. Với sự đổi mới này,
sự “tắc nghẽn” của thị trường trong những phiên giao dịch “nóng” đã được giảm tải
Bên cạnh đó, cũng còn tồn tại một số điểm hạn chế trong cách thức quản lý của các
cơ quan quản lý. Điển hình là sự chỉ đạo còn thiếu đồng bộ trong việc điều tiết cung cầu
giữa Bộ tài chính và NHNN:
trong khi lượng cung tăng mạnh do việc phát hành cổ phiếu còn mang tính tràn lan,
IPO các doanh nghiệp lớn có phần dày đặc, thì cầu có phần bị kìm hãm bởi Chỉ thị 03, động
thái không mua USD vào của NHNN, ảnh hưởng tâm lý từ việc thông qua luật thuế thu
nhập cá nhân đánh vào hoạt động kinh doanh chứng khoán…
1.2.1.2
Công ty chứng khoán
Nếu tính đến cuối năm 2006, toàn thị trường chỉ có 22 CTCK chính thức đi vào hoạt
động thì tính đến thời điểm 31/12/2007, có tổng cộng 80 CTCK được UBCKNN cấp giấy
phép hoạt động, trong đó có 69 công ty đã chính thức đi vào hoạt động (59 công ty hoạt
động dưới hình thức công ty cổ phần và 10 công ty TNHH trực thuộc các ngân hàng thương
mại cổ phần và quốc doanh).
Dịch vụ của các CTCK cũng ngày càng hoàn thiện và phát triển. Nhiều CTCK đã
ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại để mang lại nhiều dịch vụ tiện ích cho khách hàng:
đặt lệnh qua điện thoại, trading online, tra cứu kết quả qua SMS… Sự cải tiến trong việc
cung cấp dịch vụ đã thu hút sự tham gia nhiệt tình của các nhà đầu tư. Chính vì thế, có thể
nói, vai trò của các CTCK trong việc tạo cầu và kích cầu cho TTCK trong năm vừa qua là
rất lớn.
1.2.1.3
Công ty niêm yết
5
Tính đến thời điểm ngày 31/12/2007, TTCKVN đã có sự góp mặt của 253 chứng
khoán niêm yết trên cả 2 sàn HOSE và HASTC. Theo báo cáo sơ bộ về kết quả kinh doanh
của các Công ty niêm yết Quý IV/2007 và lũy kế của cả năm 2007, phần lớn các công ty
đều đạt và vượt kế hoạch đề ra trong năm vừa qua, thậm chí nhiều công ty vượt gấp nhiều
lần kế hoạch ban đầu.
Tiêu biểu trong số đó là các tên tuổi quen thuộc trên thị trường như CTCP FPT, CTP
Dược Hậu Giang, CTCP Sữa Vinamilk, CTCP Khu công nghiệp Tân Tạo, Ngân hàng
Sacombank,… Các doanh nghiệp trên đã hoàn thành từ 100% đến 200% kế hoạch lợi nhuận
cả năm. Đây là những minh chứng sống động nhất cho chất lượng của nguồn cung trên
TTCK Việt Nam trong năm vừa qua
1.2.1.4
Nhà đầu tư
Đến cuối năm 2006, số lượng tài khoản của nhà đầu tư mở tại các CTCK chỉ đạt
86.184 tài khoản, nhưng đến cuối năm 2007 toàn thị trường đã có tổng cộng 327.000 tài
khoản giao dịch chứng khoán mở tại các CTCK (tăng 240.816 tài khoản, tương đương
279% so với cuối năm 2006).
Bên cạnh sự tham gia ngày càng đông đảo của các nhà đầu tư cá nhân, TTCKVN
hiện đang nhận được sự quan tâm đặc biệt của các tổ chức tài chính lớn trong khu vực và
trên thế giới như: JP Morgan, Merrill Lynch, Citigroup… Tính đến cuối năm 2007, số
lượng nhà đầu tư nước ngoài mở tài khoản tại các CTCK lên đến con số 7.900 tài khoản (cá
nhân 7.400 và tổ chức là 500)
Sự gia tăng về số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán là một dấu hiệu khả quan
về sự quan tâm và tham gia vào TTCK của công chúng đầu tư. Hơn nữa so với các năm
trước, năm nay các nhà đầu tư cũng đã trưởng thành hơn, và ngày càng tỏ ra chuyên nghiệp
hơn. Trình độ hiểu biết và nhu cầu về đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư cá nhân cũng
như tổ chức ngày một tăng. Tâm lý đầu tư theo phong trào đã giảm thiểu đáng kể, góp phần
tạo nên sự ổn định cho thị trường.
1.2.2
Diễn biến thị trường chứng khoán năm 2007
Năm 2007, thị trường chia làm 3 giai đoạn
Giai đoạn thị trường bùng nổ 3 tháng đầu năm:
6
Khởi đầu một năm
hoạt động của TTCK là một
giai đoạn phát triển mạnh
mẽ của thị trường trong
vòng 3 tháng đầu năm. Thị trường đã đạt tốc độ tăng trưởng vượt bậc trên tất cả các khía
cạnh: chỉ số thị trường, giá trị vốn hóa thị trường, giá cả các loại chứng khoán, khối lượng,
giá trị giao dịch và đặc biệt là sự tham gia đông đảo của các nhà đầu tư nước ngoài.
Đây là giai đoạn thị trường có những đợt sóng cao, khiến Index của cả 2 sàn giao
dịch đều lập kỷ lục: chỉ số VNIndex đã đạt mức đỉnh là 1.170,67 điểm sau 7 năm hoạt động
và Hastc – Index thiết lập mức đỉnh 459,36 điểm sau 2 năm hoạt động. Có thể nói, đây là
giai đoạn thị trường đạt mức tăng trưởng với tốc độ lớn nhất khi đạt mức tăng 126% chỉ
trong vòng 3 tháng giao dịch.
Nhờ sự tăng trưởng về giá của các cổ phiếu, tổng giá trị vốn hóa của thị trường
trong giai đoạn này lên đến con số 398.000 tỷ đồng. So với tổng giá trị vốn hóa 492.900 tỷ
đồng của cả năm 2007, con số của 3 tháng đầu năm đã chiếm tỷ trọng 4/5. Nhưng điều quan
trọng góp phần gia tăng giá trị vốn hóa của thị trường không phải do số lượng chứng khoán
niêm yết gia tăng mà do yếu tố giá cổ phiếu tăng mạnh.
Trong giai đoạn này, giá các cổ phiếu tăng trưởng với tốc độ phi mã, đồng loạt các
cổ phiếu từ Blue – chip, Penny stock, các cổ phiếu mới niêm yết trên sàn… tất cả đều đạt
mức tăng trưởng trên 50% giá trị so với mức giá giao dịch đầu năm, trong đó có những cổ
phiếu đạt mức tăng trưởng trên 100% như: STB (113,57%), REE (122,66%), ACB (197%),
…. Rất nhiều mã CP thiết lập mức giá đỉnh kể từ khi lên sàn trong giai đoạn này như: SJS
(728.000 đ/CP), FPT (665.000 đ/CP), DHG (394.000đ/CP), REE (285.000đ/CP), SSI
(255.000đ/CP), SAM (250.000đ/CP), KDC (246.000đ/CP), VNM (212.000đ/CP), ACB
(292.000đ/CP)…
Yếu tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng nóng trong giai đoạn này phải kể
đến sức cầu trên thị trường tăng một cách đột biến khiến giá trị giao dịch trung bình mỗi
phiên giao dịch lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Tại sàn HCM, bình quân mỗi phiên giá trị giao
dịch đạt trên 1.000 tỷ đồng, sàn HN cũng đạt con số 300 tỷ đồng.
Thị phần giao dịch của khối NĐTNN chiếm một tỷ trọng lớn trên thị trường trong
đó tương quan luôn nghiêng về phía cầu, động thái đó đã tạo ra một làn sóng đầu tư mạnh
7
mẽ, ảnh hưởng tích cực đến hoạt động giao dịch của các nhà đầu tư trong nước. Tổng giá trị
giao dịch cổ phiếu mua vào của NĐTNN trung bình đạt khoảng 359 tỷ đồng/phiên, chiếm
khoảng 30% tổng giá trị giao dịch toàn thị trường.
Giai đoạn thị trường điều chỉnh từ Tháng 4/2007 đến đầu Tháng 9/2007
Giai đoạn tăng
trưởng
nóng trong
3
tháng đầu năm khiến giá
cả chứng khoán tăng lên
quá cao so với dự đoán
cũng như kỳ vọng của giới đầu tư. Với nỗi lo sợ về một “thị trường bong bóng”, các cơ
quan quản lý nhà nước cũng như Chính phủ đã vào cuộc để giảm nhiệt thị trường bằng các
biện pháp kiểm soát thị trường chặt chẽ, ban hành những thiết chế để kiềm chế sự tăng
trưởng quá nóng của thị trường. Phản ứng trước điều này, TTCK đã có những đợt điều
chỉnh rõ rệt. Tuy nhiên, một thực tế nằm ngoài mong đợi của giới đầu tư đó là đợt điều
chỉnh giảm của thị trường đã diễn ra trong một khoảng thời gian rất dài (từ cuối Tháng 3
đến đầu Tháng 9).
Giai đoạn điều chỉnh này ghi nhận sự trầm lắng của cả 2 sàn HOSE và HASTC, tất
cả các yếu tố của thị trường đều giảm sút nghiêm trọng. VNIndex chỉ trong vòng 1 tháng
giao dịch đã rơi xuống mức 905,53 điểm (24/04/2007), giảm tới 22,6% so với mức đỉnh
vào tháng 3. Hastc – Index cũng có một kịch bản tương tự khi trở về mốc 321,44 điểm
(24/04/2007), giảm 30% so với mức đỉnh. Thị trường đã mất điểm quá nhanh trong 1 thời
gian ngắn khiến giá giao dịch của các cổ phiếu đã trở về gần mức giá thiết lập vào đầu năm.
Trong giai đoạn này, thị trường cũng có một đợt hồi phục vào giai đoạn cuối Tháng
5/2007 khi VNIndex quay trở về mốc 1.107,52 điểm (23/05/2007). Nhưng do tác động tâm
lý quá mạnh của các chính sách kiềm chế thị trường trước đó như Chỉ thị 03, Luật thuế thu
nhập cá nhân,…., thị trường nhanh chóng trở lại trạng thái mất cân bằng và liên tục sụt
giảm mạnh khiến giai đoạn đầu Tháng 8, thị trường xác lập mức đáy 883,9 điểm của
VNIndex (6/8/2007) và 247,37 điểm của Hastc - Index (23/08/2007).
8
Vào giai đoạn thị trường xuống sâu nhất (khoảng đầu Tháng 8), sàn HCM có những
phiên giao dịch chỉ có hơn 3 triệu cổ phiếu được khớp lệnh (ngày 30/07/2007 chỉ có
3.296.340CP được giao dịch), sàn HN cũng chỉ có vẻn vẹn 600.000 CP được chuyển
nhượng thành công (ngày 8/8/2007 khớp lệnh 603.100 CP).
Giai đoạn này, các NĐTNN cũng tỏ ra khá thờ ơ khi lượng giao dịch của khối này
trên cả 2 sàn giao dịch đều sụt giảm mạnh. Giá trị giao dịch bình quân của khối NĐTNN
trong giai đoạn này đạt khoảng 170 tỷ đồng/phiên, giảm tới 52% so với giai đoạn đầu năm.
Ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của TTCK trong giai đoạn điều chỉnh giảm
phải kể đến các yếu tố sau:
Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN quy định về giới hạn dư nợ cho vay chứng khoán ở mức
3% tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng được ban hành đúng thời điểm TTCK đang trong
giai đoạn điều chỉnh mạnh, nên càng làm cho thị trường trở nên suy yếu.
Dự thảo về Luật Thuế thu nhập cá nhân được thông qua trong đó thu nhập từ chứng
khoán được đưa vào diện chịu thuế, ảnh hưởng đến tâm lý của các nhà đầu tư.
1
Lượng cung hàng hóa ngày càng gia tăng do hoạt động phát hành khá tràn lan
của các công ty niêm yết và IPO các doanh nghiệp lớn.
2
Hoạt động kinh doanh của các công ty niêm yết trên thị trường không có nhiều
đột biến bởi lẽ các thông tin khả quan về tình hình kinh doanh của các công ty niêm yết trên
thị trường đều được công bố vào Quí I, do vậy không có nhiều động lực để thúc đẩy thị
trường đi lên.
3
Tỷ lệ sở hữu của khối nhà ĐTNN tại phần lớn các mã cổ phiếu blue – chip đều
chạm giới hạn tối đa 49%. Mặc dù trong giai đoạn này có rất nhiều đề xuất, kiến nghị về
việc mở room cho các nhà ĐTNN nhưng không được thông qua, chính vì vậy một lượng
vốn của các NĐTNN vẫn chưa được giải ngân vì bị hạn chế về tỷ lệ nắm giữ.
Giai đoạn thị trường phục hồi vào những tháng cuối năm
Sau một thời gian
dài
đầy
TTCKVN
biến
động,
lại
nhanh
chóng trở lại quỹ đạo
9
bình ổn vốn có của thị trường khi các kỳ vọng và niềm tin của giới đầu tư về sự phục hồi
của TTCK bắt đầu mạnh dần lên vào những tháng cuối năm. Thị trường bước vào giai đoạn
phục hồi mạnh mẽ trong khoảng thời gian đầu tháng 9 đến cuối Tháng 10/2007.
Giá các cổ phiếu trên sàn có xu hướng phục hồi nhanh chóng, đặc biệt là các mã cổ
phiếu blue – chip trên cả 2 sàn đều lấy lại được những gì đã mất trong 6 tháng giữa năm,
tuy nhiên sức bật của các cổ phiếu không đủ mạnh để đưa các cổ phiếu trở về mức giá đỉnh
thiết lập vào tháng 3. Trong giai đoạn này, VNIndex đã có những phiên giao dịch vượt lên
trên ngưỡng 1.100 điểm (1.106,6 điểm vào ngày 3/10/2007), Hastc – Index cũng gần chạm
trở lại ngưỡng 400 điểm (393,59 điểm ngày 01/10/2007).
Chương II: Nguyên nhân TTCK sụt giảm trong
thời gian gần đây
2.1 Lý giải diễn biến TTCK trong năm 2007.
Giai đoạn đầu năm,TTCK tăng trưởng phi mã, có thể kể đến những nhân
tố tích cực sau:
Việc VN chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO khiến giới đầu tư quốc
tế quan tâm đến các cơ hội đầu tư vào hoạt động kinh doanh ở VN, giúp cánh cửa hội nhập
với nền kinh tế thế giới ngày càng mở rộng, hoạt động giao thương, xuất nhập khẩu thuận
lợi, tạo cơ hội đầu tư và hoạt động có hiệu quả cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực thương
mại, xuất nhập khẩu…
Luật chứng khoán chính thức đưa vào thực thi từ ngày 01/01/2007, các văn bản
hướng dẫn ban hành rất cụ thể, đã tạo ta một hành lang pháp lý chặt chẽ và thuận lợi cho
các hoạt động trên TTCK.
Lượng hàng hóa có xu hướng gia tăng do nhiều công ty cổ phần niêm yết mới trên 2
sàn giao dịch, các công ty niêm yết tiến hành tăng vốn qua các đợt phát hành thêm, thưởng
cổ phiếu…
Quí I là thời điểm các công ty niêm yết trên sàn công bố tình hình hoạt động sản
xuất kinh doanh của năm 2006. Điểm đáng lạc quan là phần lớn các công ty niêm yết đều
đạt tốc độ tăng trưởng cao về doanh thu và lợi nhuận so với năm trước.
10
Đầu năm lượng vốn đổ vào thị trường có xu hướng tăng mạnh do nguồn kiều hối
chuyển về trong nước thường gia tăng vào dịp Tết nguyên đán, nguồn vốn trong dân có sự
dịch chuyển rõ rệt từ các lĩnh vực đầu tư khác như vàng, ngoại tệ, bất động sản sang TTCK.
Không kém phần quan trọng đó là luồng vốn của nhà ĐTNN đổ vào thị trường VN ngày
một tăng mạnh, hơn nữa tỷ lệ sở hữu của NĐTNN trong các doanh nghiệp niêm yết vẫn còn
một tỷ lệ sở hữu lớn.
Đến giai đoạn 2, thị trường có xu hướng điều chỉnh. Ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt
động của TTCK trong giai đoạn điều chỉnh giảm phải kể đến các yếu tố sau:
Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN quy định về giới hạn dư nợ cho vay chứng khoán ở mức
3% tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng được ban hành đúng thời điểm TTCK đang trong
giai đoạn điều chỉnh mạnh, nên càng làm cho thị trường trở nên suy yếu.
Dự thảo về Luật Thuế thu nhập cá nhân được thông qua trong đó thu nhập từ chứng
khoán được đưa vào diện chịu thuế, ảnh hưởng đến tâm lý của các nhà đầu tư.
Lượng cung hàng hóa ngày càng gia tăng do hoạt động phát hành khá tràn lan của
các công ty niêm yết và IPO các doanh nghiệp lớn.
Hoạt động kinh doanh của các công ty niêm yết trên thị trường không có nhiều đột
biến bởi lẽ các thông tin khả quan về tình hình kinh doanh của các công ty niêm yết trên thị
trường đều được công bố vào Quí I, do vậy không có nhiều động lực để thúc đẩy thị trường
đi lên.
Tỷ lệ sở hữu của khối nhà ĐTNN tại phần lớn các mã cổ phiếu blue – chip đều
chạm giới hạn tối đa 49%. Mặc dù trong giai đoạn này có rất nhiều đề xuất, kiến nghị về
việc mở room cho các nhà ĐTNN nhưng không được thông qua, chính vì vậy một lượng
vốn của các NĐTNN vẫn chưa được giải ngân vì bị hạn chế về tỷ lệ nắm giữ.
Sự sụt giảm của thị trường trong giai đoạn cuối năm 2007 cũng xuất phát từ một số
nguyên nhân chủ yếu sau:
Sự suy giảm nghiêm trọng của TTCK toàn cầu vào cuối năm 2007 đã tạo ra hiệu
ứng sụt giảm của TTCKVN và gây tâm lý bất ổn cho giới đầu tư trong nước.
1
Sự khởi sắc của thị trường bất động sản, thị trường vàng vào thời điểm cuối
năm đã tạo ra một sự dịch chuyển vốn từ TTCK sang 2 thị trường “nóng” này.
Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN chính thức đưa vào thực thi khiến dòng vốn đầu tư vào
chứng khoán bị hạn chế. Đặc biệt đến giai đoạn cuối năm 2007, sự đẩy nhanh thanh lý hợp
11
đồng để kịp về đích theo chỉ thị 03 của các NHTM khiến nguồn vốn đổ vào thị trường ngày
càng cạn kiệt hơn.
IPO Vietcombank được diễn ra vào những ngày cuối năm 2007 đã hút một lượng
vốn khổng lồ (gần 10.000 tỷ đồng) ra khỏi thị trường niêm yết.
Lạm phát tăng cao khiến NHNN hạn chế mua USD khiến kênh vốn quan trọng cho
TTCK đến từ các nhà đầu tư nước ngoài gặp bế tắc do khó khăn trong việc chuyển đổi
thành đồng Việt Nam.
2.2 Thị trường những tháng đầu năm 2008
Báo cáo 12/02/2008 của Ngân hàng HongKong - Thượng Hải về thị
trường tài chính, tiền tệ và chứng khoán Việt Nam cho thấy, từ tháng 1 đến
giữa tháng 2, Vn-Index mất tới 9%. Tính từ khi đạt mức đỉnh vào tháng
3/2007 đến giữa tháng 2, hàn thử biểu của sàn TP HCM đã để mất 28% (chưa
tính tỷ lệ rơi tự do của chỉ số trong tuần này).
Tuần giao dịch từ 21 – 25/1, thị trường chứng khoán chứng kiến nhiều
biến động lớn mà xuyên suốt là tâm lý lo ngại. Cụ thể, có những điểm nổi bật
sau:
Thị trường sụt giảm mạnh: Qua 5 phiên, 4 giảm 1 tăng, VN-Index mất
tới 71 điểm, HASTC-Index mất 16,27 điểm.
Riêng bốn ngày liên tiếp trong tuần thị trường chứng khoán (TTCK)
liên tục lao dốc, trong đó có 3 phiên giảm rất mạnh: Vn-Index mất tổng cộng
hơn 100 điểm, chỉ số HaSTC-Index mất hơn 44 điểm, giảm mức kỷ lục chưa
từng có từ trước tới nay. Nguyên nhân nào dẫn tới sự sụt giảm này?
Ngay ngày đầu tuần (18/2), Vn-Index đã mất tới 33,46 điểm (-4,10%),
tuột khỏi ngưỡng 800 điểm, dừng ở mức 782,57 điểm. Phiên hôm sau, thị
trường tiếp tục giảm, dù chậm hơn, mất thêm 5,78 điểm. Đặc biệt, đến phiên
ngày 20/2, các nhà đầu tư đã ồ ạt bán ra CP khiến không có mã cổ phiếu nào
trên sàn Tp.HCM tăng giá, ngoài 5 mã đứng giá. Chỉ số Vn-Index mất tới
31,87 điểm, tuột khỏi mốc 750 điểm, đóng cửa ở mức 744,92 điểm. Sau phiên
12
giao dịch ngày 21/2, chỉ số Vn-Index chỉ còn 710,45 điểm (mất 34,47 điểm)
và nhiều khả năng sẽ xuyên thủng đáy 700 điểm vào ngày 22/2. Tương tự, trên
sàn CK Hà Nội trong 4 ngày qua chỉ số HaSTC-Index cũng mất hơn 44 điểm
(từ 282,08 điểm xuống còn 237,8 điểm). Trong đó, riêng ngày 21/2 chỉ số
HaSTC-Index đã mất tới 19,28 điểm ( tương đương 7,5%), xuyên qua mốc
250 điểm. Không ít mã cổ phiếu blue chip có vai trò dẫn dắt thị trường như
SSI, FPT, SJS... (trên sàn Tp. HCM), hoặc VC2, ACB, BVS... (trên sàn HN)
đều suy giảm thảm hại, khó có thể cứu vãn, dự báo một cuộc tháo chạy của
các nhà đầu tư.
2.3 nguyên nhân thị trường sụt giảm
Thời kỳ khai sinh thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2000 đến
2003, Vn-Index chỉ quanh quẩn trong khoảng 150 đến 300 điểm vì thiếu cả
người bán lẫn mua.
Phải cuối 2005, Vn-Index mới vượt lên đến 350 điểm rồi lấy đà tạo sức
bật phát triển trong năm 2006, hơi khựng lại nhưng vẫn tiến vào 2007 với mốc
điểm 750, rồi 900 và vượt qua 1.000 điểm.
Ngày 22/2, Vn-Index lần đầu tiên trong vòng hai năm qua tụt khỏi
ngưỡng 700 điểm, ghi dấu "ngày thứ 6 đen tối" cho chứng khoán Việt Nam.
*Nguyên nhân lớn nhất của đợt sụt giảm trên TTCK lần này đó là thị
trường tiền tệ nóng lên; lãi suất của hệ thống ngân hàng tăng cao; Ngân hàng
Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt.
Cuối tuần trước, Ngân hàng Nhà nước công bố quyết định phát hành
20.300 tỷ đồng trái phiếu bắt buộc, nhưng không được sử dụng vay tái cấp
vốn. Ba NHTM Nhà nước có quy mô lớn nhất mỗi ngân hàng phải mua tới
3.000 tỷ đồng. Hai NHTM cổ phần thuộc tốp đứng đầu phải mua 1.200 tỷ
đồng và 1.500 tỷ đồng. Các NHTM cổ phần thuộc nhóm giữa phải mua 400 –
500 tỷ đồng /ngân hàng.
13
Khối Ngân hàng nước ngoài có 9 chi nhánh phải mua từ 100 tỷ đồng
đến 400 tỷ đồng. Hai Ngân hàng liên doanh phải mua 150 tỷ đồng/ngân hàng.
NH Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân và các
TCTD có số vốn huy động VND đến 31/1/2008 từ 1.000 tỷ đồng trở xuống
không phải mua tín phiếu NHNN đợt này. Thời điểm phát hành là ngày
17/3/2008.
Để chủ động có đủ vốn mua tín phiếu NHNN bắt buộc vào thời điểm
đó thì ngay từ bây giờ các NHTM phải đẩy mạnh huy động vốn trên thị
trường, bởi vì muốn có đủ 20.300 tỷ đồng mua tín phiếu NHNN thì phải huy
động ít nhất là 23.000 tỷ đồng vì phải nộp dự trữ bắt buộc 11%.
Do đó TTCK có phản ứng tức thì về việc gần 23.000 tỷ đồng bị rút
khỏi lưu thông. Chưa kể trước đó 3 tuần, gần 10.000 tỷ đồng các nhà đầu tư
phải lo để nộp tiền mua cổ phiếu IPO của Vietcombank đấu thầu cuối năm
2007. Từ tháng 2/2008 các NHTM phải nộp thêm gần 10.000 tỷ đồng dự trữ
bắt buộc. Vậy thì chỉ trong thời gian ngắn thử hỏi thị trường tiền tệ lấy đâu ra
gần 50.000 tỷ đồng chui vào kho ngân hàng?
Cũng với phản ứng tức thì trên thị trường tiền tệ, hàng loạt ngân hàng
thương mại hạn chế cho vay vốn nói chung, vay vốn đầu tư chứng khoán lại
càng không thể. Thực tế hiện nay một số ngân hàng đã hạn chế cho vay, tập
trung thu nợ. Một số NHTM chỉ cho khách hàng truyền thống, cho dự án tốt
vay vốn, còn không cho vay đối với khách hàng mới. Thậm chí có trường hợp
chào lãi suất cho vay lên tới 2% một tháng.
Như vậy cùng với việc TTCK phản ứng tiêu cực với Quyết định số
03/2008/QĐ-NHNN, ngày 1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng
khoán. Bởi vì Quyết định 03 còn thắt chặt cho vay chứng khoán hơn so với
14
Chỉ
thị
03
trước
đây
Một nguồn vốn khác đầu tư vào TTCK cũng bị chặn lại đó là nghiệp vụ Repo
và cho vay cầm cố cổ phiếu, cầm cố chứng khoán,... của các công ty chứng
khoán đối với khách hàng. Bởi vì với Chỉ thị 03 và Quyết định 03, nguồn vốn
vay ngân hàng đầu tư vào chứng khoán chặn lại thì còn có cửa ngách khác đó
là công ty chứng khoán. Song nguồn vốn để cho vay của các công ty chứng
khoán lại được tài trợ bởi ngân hàng thương mại. Nhưng nay do tình hình thị
trường tiền tệ nóng lên, tiền đồng Việt Nam khan hiếm, thanh khoản căng
thẳng, nên các ngân hàng thương mại cũng hạn chế, thậm chí là tạm dừng hỗ
trợ vốn cho các công ty chứng khoán theo hợp đồng cam kết trước đây, nên
các công ty chứng khoán không còn tìm đâu ra nguồn vốn để cho khách hàng
của mình thực hiện nghiệp vụ Repo, cầm cố để đầu tư chứng khoán.
Cũng do chính sách tiền tệ thắt chặt nên nguồn vốn ngoại tệ của các nhà đầu
tư nước ngoài đưa vào Việt Nam rất khó chuyển sang VND vì Ngân hàng Nhà
nước không mua vào hay hạn chế mua vào, tỷ giá VND/USD liên tục xuống
thấp. Các nhà đầu tư nước ngoài thiếu vốn đầu tư trên TTCK.
*Sự hoảng loạn của các nhà đầu tư cũng là nguyên nhân đẩy thị trường
lao dốc nhanh. Theo nhận định của một chuyên gia chứng khóan có kinh
nghiệm trên sàn Tp. HCM, thì hơn phân nửa số vốn trên sàn là của các nhà
đầu tư nhỏ, lẻ trong nước (có vốn từ 500 - 600 trăm triệu đồng trở xuống).
Tâm lý đầu cơ, kiếm lời của các nhà đầu tư nhỏ khi gặp lúc thị trường bất lợi
dễ hoang mang, nên họ đã tìm mọi cách bán tháo để cắt lỗ, khiến lượng hàng
bán ra lớn hơn mua vào rất nhiều, đẩy giá cổ phiếu xuống thảm hại trong khi
việc kinh doanh của nhiều Cty niêm yết CP vẫn tốt. Đó là một nghịch lý chỉ có
ở TTCK Việt Nam. Mặt khác, đúng thời điểm này thị trường bất động sản,
vàng lại lên cơn sốt khiến nhiều nhà đầu tư đã chuyển vốn sang kênh đầu tư
vàng và BĐS với hy vọng kiếm lời dễ hơn và ít rủi ro hơn. Bản thân họ cũng
không nghĩ rằng, chính thị trường vàng và BĐS cũng đang tiềm ẩn rất nhiều
rủi ro, khi giá nhà, đất và vàng liên tục tăng tới mức phi lý như hiện nay. Đến
15
một thời điểm nào đó người ta sẽ lại phải "tháo chạy" khỏi 2 kênh đầu tư trên
để quay lại với chứng khóan. Tâm lý không ổn định, thiếu kiên nhẫn của các
nhà đầu tư sẽ gây thiệt hại cho chính họ. Thực tế cho thấy việc bán đổ, bán
tháo chứng khóan trong lúc này khiến nhiều nhà đầu tư đã và đang phải chịu
thiệt hại rất nặng nề...
"Ở nước ngoài, nhà đầu tư quyết định mua cổ phiếu căn cứ vào hiệu quả
hoạt động, khả năng sinh lời của công ty phát hành. Còn nhà đầu tư Việt Nam
thì chỉ nhìn vào bảng điện tử để đặt lệnh mua", ông Bích cho rằng, sự khác
biệt cơ bản này là nguyên nhân chính yếu khiến hàn thử biểu sàn chứng khoán
trong nước nếu đã đi xuống sẽ rơi một mạch.
Báo cáo này nhận định, nhiều người cho rằng chứng khoán Việt Nam đi
xuống là do chịu ảnh hưởng của thị trường toàn cầu. Tuy nhiên, đây không
phải là lý do xác đáng. Các nhà đầu tư nước ngoài vẫn đang mua vào trong
suốt 3 tháng qua với tổng giá trị 211 triệu USD, trong khi chỉ bán ra khối
lượng có giá trị 22 triệu USD.
Chính các nhà đầu tư trong nước, chứ không phải nước ngoài, đã tháo
chạy khỏi thị trường, ngược với những gì đang xảy ra tại các thị trường châu
Á khác, bản báo cáo nhận định. Thị trường chứng khoán Việt Nam đạt mức
đỉnh vào tháng 3 năm ngoái, trong khi các thị trường khác trong khu vực đến
tháng 10 cùng năm mới đạt ngưỡng đỉnh. Thực chất, mối tác động qua lại giữa
Vn-Index và chỉ số MSCI tại châu Á trong năm vừa qua chỉ ở mức -7% (trong
khi của Ấn Độ là 87%).
*Không ít người cho rằng, một nguyên nhân khá quan trọng để TTCK
lao dốc là từ phía các cơ quan quản lý.
Việc UBCK nhà nước cho các Cty niêm yết được tăng vốn, phát hành
thêm cổ phiếu một cách ồ ạt, mặc dù không sai Luật, nhưng vô hình chung đã
làm loãng thị trường, giảm giá CP. Có Cty khi mới thành lập vốn chỉ có chưa
tới 20 tỷ đồng, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn phát hành thêm cổ phiếu
16
lần đầu đã tăng vốn lên tới hơn 300 tỷ đồng. Không có kênh huy động vốn nào
dễ dàng hơn việc in cổ phiếu ra để thu tiền, mà kẽ hở này thì DN nào cũng
biết! Bởi vậy nên các DN đã đua nhau xin tăng vốn, phát hành thêm cổ phiếu
mà các nhà quản lý đã không kìm hãm được. Mặt khác, việc quản lý, cho phép
các DN tổ chức IPO (đấu giá lần đầu ra công chúng) của Nhà nước chưa tốt,
dẫn tới lượng hàng trên thị trường mất cân đối khi Cung nhiều hơn Cầu. Bên
cạnh đó, theo nhận định của một số chuyên gia của các quỹ đầu tư nước ngoài,
thì việc điều hành của UBCKNN là kém hiệu quả. Thay vì nghiên cứu, đưa ra
chính sách nhằm lái thị trường đi đúng hướng, thì lại toàn "thúc thủ" chạy theo
sau thị trường. Ngay cả bây giờ UBCKNN cũng đang rất lúng túng trong việc
tìm giải pháp để cứu vãn thị trường...
*Ngoài ra, một nguyên nhân khách quan khiến TTCK Việt Nam bị ảnh
hưởng là thị trường chứng khoán thế giới thời gian qua rơi vào tình trạng bất
ổn trước nguy cơ suy thoái của nền kinh tế Mỹ. Điều này đã tác động không ít
tới tâm lý các nhà đầu tư trong và ngoài nước, nhất là khi Việt Nam đã hội
nhập WTO...
Cần phải nhìn nhận một thực tế rằng, thực trạng ảm đạm của TTCK với
việc giá các loại cổ phiếu rơi tự do đầu năm Mậu Tý đang khiến nhiều người
lo ngại. Mức "đáy" của thị trường sẽ là bao nhiêu? Nhà nước sẽ có biện pháp
gì để hỗ trợ và khi nào thị trường sẽ hồi phục? là những câu hỏi chưa có lời
giải đáp hiện đang được rất nhiều người quan tâm, nhất là khi các “ngưỡng”,
“điểm mốc” được các chuyên gia chứng khoán đưa ra vẫn liên tục bị phá vỡ.
Tuy nhiên, một điều ít người nhận thấy là chính trong thời điểm này các nhà
đâu tư nước ngoài lại đang âm thầm mua vào để hy vọng kiếm lợi nhuận từ
đất nước hình chữ S.
Thị trường chứng khoán thế giới vừa trải qua một làn sóng điều chỉnh
mạnh
mẽ.
Bến
nối
tiếp
của
làn
sóng
này
là
Việt
Nam?
17
Rời sàn giao dịch sáng nay, nhiều nhà đầu tư giật mình khi thông tin sụt giảm
mạnh của thị trường chứng khoán tại nhiều nước trên thế giới, tâm điểm là
Trung Quốc và Mĩ tràn ngập trên các bản. tin
xzcxczxxcxcxcxcxcxcxcxc
Mối nghi ngại về khả năng bị cuốn theo làn sóng này của thị trường chứng
khoán Việt Nam đang nằm trong tính toán của nhiều nhà đầu tư. Một số bản
tin đã đặt sự sụt giảm của phiên hôm nay (28/2) vào sự nghi ngại đó.
Chỉ số VN-Index vừa có một mức sụt giảm mạnh sau hai phiên tăng mạnh
khai
xuân,
giảm
29,67
điểm
còn
1.137,69
điểm.
Tuy nhiên, trao đổi với VnEconomy, một số chuyên gia đều có chung nhận
định rằng sự sụt giảm nói trên của thị trường Việt Nam là diễn biến khá bình
thường. Tác động của làn sóng điều chỉnh trên thế giới, hay ảnh hưởng tâm lý,
vẫn
chưa
thể
hiện
rõ
nét.
“Tôi cho rằng ghép phiên giao dịch sáng nay vào nguyên nhân sụt giảm chung
từ thị trường Trung Quốc là quá vội vàng. Tôi cho rằng, nếu có tác động thì sẽ
có một độ trễ nhất định, không phải nhà đầu tư nào cũng có khả năng cập nhật
thông tin và chuyển thành hành động nhanh như vậy trong phiên sáng nay”,
một
chuyên
gia
nói.
Tuy nhiên, ông cũng không phủ nhận về sự phát triển quá nóng cùng những
mức giá quá cao của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, và sự điều
chỉnh là “một tất yếu” trong một thời điểm nào đó, có thể trong ngắn hạn.
.*Nguyên nhân quan trọng thứ 5 đó là cung chứng khoán tiếp tục tăng
mạnh.
Từ sau Tết Nguyên đán Mậu Tý đến nay nhiều công ty niêm yết cổ phiếu mới
trên Sở GDCK TP. HCM và Trung tâm GDCK Hà Nội. Trên thị trường OTC,
18
nhiều doanh nghiệp trả cổ phiếu mới phát hành cho cổ đông. Chỉ riêng
VPBank đợt này trả cổ phiếu cho cổ đông theo mệnh giá tới 500 tỷ đồng, còn
theo giá thị trường tới trên 1.600 tỷ đồng; VIB cũng trả 500 tỷ đồng cổ phiếu
cho cổ đông hiện hữu, tương đương giá thị trường trên 2.000 tỷ đồng;
Eximbank trả trên 400 tỷ đồng... Chỉ riêng khối NHTM cổ phần từ đầu tháng
2/2008 phát hành mới gần 8.000 tỷ đồng trị giá cổ phiếu trên thị trường, chưa
kể một loạt doanh nghiệp khác. Cung chứng khoán và cổ phiếu tăng nhưng
cầu
giảm,
gây
áp
lực
giảm
giá
trên
thị
trường.
Một yếu tố khác đẩy cung chứng khoán tăng đó là khách hàng vay cầm cố cổ
phiếu tại các NHTM đến nay đến hạn phải trả nợ, hoặc chưa đến hạn nhưng do
giá cổ phiếu giảm mạnh so với thời điểm cầm cố vay vốn, nên phải bổ sung tài
sản hoặc rút giảm dư nợ, nên hầu như chỉ còn cách là bán cổ phiếu, bán chứng
khoán
ra
thị
trường.
Một tác động khác tới cung - cầu chứng khoán trên thị trường đó là Ngân hàng
Nhà nước siết chặt cho vay bất động sản, các NHTM cũng hạn chế cho khách
hàng vay vốn đầu tư vào đất đai, nhà ở,... nên để chủ động một mặt các nhà
đầu tư dừng việc đầu tư vào thị trường chứng khoán, hoặc bán chứng khoán ra
để lấy tiền cho kế hoạch kinh doanh bất động sản. Diễn biến đó lại càng tác
động đến cung cầu chứng khoán và cổ phiếu trên thị trường.
*TTCK, bất động sản, vàng luôn có mối liên thông với nhau. dòng vốn
không nhất thiết sẽ chạy từ thị trường này sang thị trường khác nếu trường
hợp bất động sản hoặc chứng khoán xuống giá. BĐS lên giá đã hút một phần
tiền của nhà đầu tư từ chứng khoán sang thị trường nhà, đất. Và so với chứng
khoán, đầu tư vào bất động sản không đòi hỏi nhà đầu tư phải có nhiều kiến
thức, vì truyền thống của người dân Việt Nam lâu nay vẫn là mua nhà ở. Do
đó, có thể xảy ra hai trường hợp: khi giá bất động sản suy giảm, luồng tiền sẽ
chảy ngược về chứng khoán hoặc nhà đầu tư lại tiếp tục bán bớt chứng khoán
19
để bù lỗ vào bất động sản Theo ông Tuấn, nhiều khả năng tình hình sẽ diễn
biến theo chiều hướng thứ hai, nếu thị trường bất động sản xuống giá. Thực tế
thời gian qua, khi giá nhà đất liên tục sốt nóng, nhiều nhà đầu tư, nhất là giới
đầu cơ đã nhờ đến vốn ngân hàng để mua bất động sản. Vì vậy, khi giá bất
động sản giảm, buộc họ phải tìm mọi cách trả nợ cho ngân hàng, nếu không
bán được nhà, đất. Còn với những người mua vàng vàgửi tiết kiệm, họ thường
tích trữ là chủ yếu, ít mang tính chất kinh doanh. Khác với thế giới, những
người mua vàng và gửi tiết kiệm ở Việt Nam thường có vốn ít, và luôn sợ rủi
ro nên không thích bỏ vốn vào những thị trường nhạy cảm như chứng khoán.
Do đó, dù vàng có xuống giá hay lạm phát có cao hơn lãi suất tiền gửi họ vẫn
có xu hướng chọn hai kênh đầu tư truyền thống này
Chương III: Định hướng TTCK Việt Nam trong thời gian tới
Trong thời gian tới, TTCK Việt Nam sẽ hồi phục trở lại.. Xuất phát từ
nhiều yếu tố sau:
* Từ phía nhà đẩu tư: Nhiệt độ" xuống thấp của Vn-Index hiện tại,
không thể có tác động cứu vãn nào tốt hơn là chính bản thân các nhà đầu tư
phải hành động. "Chỉ có một cách để cắt mạch giảm liên tục và nâng Vn-Index
lên là dừng bán, tăng mua. Đây là thời điểm tốt nhất để mua cổ phiếu".
* Thị trường hàng hóa khác: bất động sản, vàng. Trên thực tế, tín dụng
bất động sản đang dần bị thu hẹp, bởi các chính sách hạn chế tiền trong lưu
thông của NHNN. Tiền đồng khan hiếm trầm trọng là lý do buộc một số ngân
hàng cổ phần phải ngưng cho vay. Nhiều khả năng, giá bất động sản sẽ bị ảnh
hưởng trong thời gian tới khi không còn sự hỗ trợ đắc lực bởi nguồn vốn ngân
hàng.
Thị trường vàng hiện đang ở thế giằng co sau một thời gian dài tăng giá.
Giá vàng giao dịch trên thị trường thế giới ngày 18/2 ở mức 905,7
20
- Xem thêm -