Chùm Nho Phẫn Nộ
Tác giả: John
Steinbeck Thể loại:
Tiểu Thuyết Biên tập:
Gió
Created by:
http://motsach.info Date: 16October-2012
Kho truyện ebook online
(http://motsach.info)
MỤC LỤC
Lời Nhà Xuất
Bản Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
Chương 14
Chương 15
Chương 16
Chương 17
Chương 18
Chương 19
Chương 20
Chương 21
Chương 22
Chương 23
Chương 24
Chương 25
Chương 26
Chương 27
Chương 28
Chương 29
Chương 30
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
ohn Steinbeck sinh ngày 27 tháng 2 năm 1902 tại Salinas
trong một gia đình nghèo, bố làm thủ quĩ, mẹ làm nhà
giáo. Lớn lên ông theo học khoa sinh vật trường Đại học
Tổng hợp Standford. Ra trường ông phải làm nhiều nghề
để kiếm sống, như công nhân nông nghiệp, phóng viên và
một số nghề khác. Với vốn sống phong phú Steinbeck
sớm bước vào con đường văn học và liên tiếp cho ra mắt một loạt các tác
phẩm, nhưng không gây được sự chú ý của người đọc: "Cốc vàng" (Cup of
Gold, 1929), "Đồng cỏ thiên đường" (Pastures of Heaven, 1932), "Gửi v
thần chưa biết" (To a God unknown, 1933)... Trong những tác phẩm này,
cũng như trong các tiểu thuyết "Tortills Flat" (1935) và "Trong trận đánh
bất ngờ" (In dubious battle, 1936) ông viết về số phận những "kẻ lạc loài",
những người lớp dưới của xã hội Mỹ và các công nhân tham gia đình
công đã bị đẩy vào tình thế tuyệt vọng. Tác phẩm đầu tiên làm ông nổi
tiếng là tiểu thuyết "Về chuột và người" (Of mice and men, 1937), sau
này được chính tác giả chuyển thành kịch và phim, nói về những người
lập dị, cô đơn, không may mắn và hoàn toàn lạc lõng trong xã hội thương
mại.
Năm 1939 John Steinbeck cho ra mắt tác phẩm lớn nhất của ông là tiểu
thuyết "Chùm nho phẫn nộ" (The Grapes of Warth). Trước đây vốn là
một công nhân nông nghiệp, cùng với nhiều điền chủ nhỏ khác, ông đã bị
đuổi khỏi mảnh đất mình đang sinh sống, phải rời bỏ Oklahôma để tới
California tìm việc làm, như chính các nhân vật ông miêu tả trong tác
phẩm. "Chùm nho phẫn nộ" là cuốn sách đau buồn về đất nước Mỹ, về
những người nông dân bị bóc lột đến cùng cực, bị chà đạp về tinh thần.
Ngay từ khi ra đời nó đã gây nhiều cuộc tranh cãi sôi nổi trong các giới
bạn đọc, nhiều người hết lòng ca ngợi, nhưng cũng nhiều người không tiếc
lời nguyền rủa. Tuy miêu tả một địa danh nhất định trong một thời gian
nhất định, nhờ tính khái quát cao, "Chùm nho phẫn nộ" đã trở thành tác
phẩm cổ điển của văn học Mỹ và văn học thế giới hiện đại nói chung.
Những năm tiếp theo, Steinbeck vẫn tiếp tục viết về đề tài những người
cùng cực trong xã hội với tác phẩm "Một dãy đồ hộp" (Cannery Row,
1945), "Ngày thứ năm tốt lành" (Sweet Thursday, 1954) và cuốn sách
lên án chủ nghĩa phát xít "Trăng lặn" (The Moon is down, 1942).
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, Steinbeck chuyển sang viết các tác
phẩm có tư tưởng và kết cấu phức tạp, mang tính triết lý cao. Đó là các
tiểu thuyết "Chiếc ô tô buýt lạc đường" (The Waywar bus, 1947) nói
về loài người phải dò dẫm đi trong bóng tối và cuốn "Phía đông thiên
đường" (East of Eden, 1952), một cuốn sách đồ sộ với ý định khái quát
lớn, nhưng không được người đọc chấp nhận, nói về lịch sử hai gia đình
di cư, tượng trưng cho hai dòng họ lâu đời nhất của loài người, bắt
nguồn từ Adam và Eva.
Những năm năm mươi, sáng tác của Steinbeck bước vào giai đoạn
khủng hoảng. Tuy nhiên năm 1961, cuốn "Mùa đông lo buồn của chúng
ta" (The Winter of our discontent) ra đời đã gây được sự chú ý của đông
đảo bạn đọc. Tác giả lại quay về với đề tài "vỡ mộng" của văn học Mỹ
những năm hai mươi. Truyện được viết bằng giọng châm biếm pha chút
hài hước đau buồn, mang màu sắc triết lý và ám chỉ.
Năm 1962 Steinbeck bắt đầu những chuyến du lịch dài ngày tới hầu hết
các bang của nước Mỹ, lấy tư liệu cho cuốn ký "Chuyến đi tìm kiếm lại
nước Mỹ với Charley" (Travels with Charley in seach of America,
1962), phản ánh một cách khách quan hiện thực nước Mỹ với cả hai mặt
tốt và xấu của
nó. Cũng trong năm 1962, ông được tặng giải thưởng Nobel về văn học.
John Steinbeck là một nhà văn lớn của nước Mỹ và thế giới, đồng thời
ông cũng là một cây bút phức tạp và đầy mâu thuẫn. Một lúc ông vừa là
tác giả của những tác phẩm thực sự có giá trị lớn cả về nội dung tư tưởng
lẫn văn học như "Chùm nho phẫn nộ", lại vừa là người viết ra những cuốn
sách sơ lược hoặc sa vào triết lý rối rắm. Năm 1966, Steinbeck công khai
tuyên bố ủng hộ cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam và đã có
một số lời nói, việc làm không xứng đáng với tên tuổi và sự nghiệp của
ông.
John Steinbeck mất ngày 20 tháng 12 năm 1968 tại NewYork.
CHƯƠNG 1
rên những vùng đất đỏ và một phần các vùng đất xám
bang Oklahoma, những trận mưa cuối vụ rơi lâm thâm,
không đủ sức xói lở mặt đất vốn đã bị nứt nẻ. Các lưỡi
cày đi qua lộn lại cắt ngang các vết hằn của những con
suối nhỏ. Những trận mưa cuối cùng khiến cho ngô lớn
lên rất nhanh, cỏ và nhiều thứ cây dại khác lan rộng dọc
các con đường cái và dần dà các vùng đất đỏ và đất xám biến mất dưới
một tấm thảm xanh. Cuối tháng năm, bầu trời tái nhợt, các cụm mây mùa
xuân đã bồng bềnh quá lâu ở tít trên cao nay đang tản mát dần. Ngày lại
ngày mặt trời đốt nóng cây ngô đang vươn mạnh mãi tới khi có một
đường viền màu nâu kéo dài ra trên mỗi chiếc lưỡi lê xanh. Mây hiện ra
rồi lại trôi đi xa, và chẳng bao lâu thậm chí mây không buồn động đậy.
Để tự bảo vệ, cỏ khoác một màu xanh thẫm hơn và thôi không lan tràn
nữa, mặt đất cứng lại phủ dưới một vỏ khô mỏng và rắn, khi bầu trời
tái nhợt đất đỏ nhuốm sắc hồng, còn đất xám nhuốm sắc trắng.
Trong những khe rãnh do nước đào xới, đất sụt lở, bụi chảy xuống thành
những con suối nhỏ khô. Chuột rừng và kiến sư tử mải leo lên leo xuống,
gây nên những thác bụi bé nhỏ. Hết ngày này sang ngày khác, ánh mặt trời
gay gắt đánh xuống liên miên, lá ngô non như những mũi tên thôi không
còn cứng ngắc nữa, chúng bắt đầu uốn cong trở vào, rồi các đường gân
chính lại bị oằn, nên mỗi chiếc lá rũ xuống mềm nhũn. Tháng sáu tới,
mặt trời chói chang dữ dội, trên các lá ngô, đường viền màu nâu rộng
thêm ăn lan đến các đường gân giữa. Cỏ dại rách xơ ra co rúm về gốc
rễ. Không khí loãng hơn, bầu trời nhạt hơn, và mỗi ngày, đất cũng tái nhợt
thêm.
Trên các đường cắt, nơi xe ngựa qua lại, đất bị đầm giẽ dưới móng vó
ngựa lại bị bánh xe nghiền nát, lớp vỏ cứng vỡ ra tan thành bụi. Tất cả
những gì chuyển động trên đường đều làm cho bụi bay lên, một bước
chân khách bộ hành xốc lên một lớp bụi mỏng ngang tầm thắt lưng, một
chiếc xe bò khiến bụi bay là là trên đầu các bờ dậu, một chiếc xe tải cuốn
theo sau những đám bụi dày đặc, cuồn cuộn. Và rất lâu, rất lâu bụi cứ
bay lơ lửng không chịu nằm xuống lại.
Giữa tháng sáu, từ Texas và vùng Vina, ùn ùn kéo tới những đám mây to
lớn nặng nề, chứa chất những cơn giông tố. Trên các đồng ruộng, có
những người đứng nhìn mây, hít ngửi và thấm ướt ngón tay để lường
hướng gió. Chừng nào mây còn nằm lặng trên bầu trời, những con ngựa
vẫn tỏ ra cáu kỉnh. Các đám mây giông gieo xuống vài hạt mưa lưa thưa
rồi vội vã trốn về các miền khác. Phía sau chúng, bầu trời lại tái nhợt,
mặt trời nóng như thiêu như đốt. Những hạt mưa xói những lỗ nhỏ trên
mặt đất để lại những vết bụi đậm nét bám vào thân ngô. Và chỉ có thế.
Một ngọn gió phe phẩy bay theo các đám mây mưa, đẩy chúng về phương
Bắc, cây ngô kêu xào xạc và đang khô dần. Một ngày trôi qua, gió thổi
mạnh hơn, liên tục, tuy vẫn không có trận gió nào đánh gãy thân cây ngô.
Bụi đường dâng cao, trải rộng, rơi xuống đám cỏ bên bờ và trong các đám
ruộng. Rồi gió nổi lên ào ào, dữ dội ác liệt, tấn công lớp vỏ cứng do mưa
tạo nên trên cánh đồng. Dần dà, bầu trời tối sầm lại sau màn bụi hỗn loạn,
lướt qua mặt đất, cuốn bụi tung mịt mù. Gió càng mạnh thêm. Lớp vỏ
cứng tan vỡ, phía trên cánh đồng, bụi càng bốc cao, vạch trên không khí
những túm lông xam xám tựa những vệt khói uể oải. Ngô nhào trộn gió
trong tiếng rào rào ròn khô. Đám bụi mịn nhất không còn lắng đọng trên
mặt đất nữa, mà đã biến mất vào bầu trời âm u.
Gió lại mạnh thêm, rạch đường đi ngang qua cánh đồng, luồn xuống dưới
các tảng đá, cuốn bay các cọng rơm, các lá khô và ngay cả các cục đất
nhỏ. Không trung và bầu trời sầm lại, mặt trời hiện ra đỏ rực, và trong
không khí thoang thoảng một mùi hăng hắc. Một đêm nọ, gió mở thêm tốc
lực qua vùng đồng quê, ranh mãnh đào xới quanh các gốc ngô gầy, thân
ngô đưa các tàu lá yếu ớt ra chống đỡ, mãi cho đến khi có một ngọn gió
tọc mạch luồn tới nhổ bật gốc rễ. Thân cây đã kiệt sức, nghiêng ngửa rồi
đổ vật xuống theo hướng gió thổi.
Bình minh đang rạng dần, nhưng ngày chưa sáng tỏ. Trên bầu trời xám
xịt, một mặt trời đỏ - một chiếc đĩa đỏ ló ra mờ mờ hắt xuống một thứ ánh
sáng yếu ớt của buổi hoàng hôn. Ngày càng rõ dần thì hoàng hôn lại trở
về với bóng tối, và gió gào rú hoặc rên rỉ trên thân cây ngô đổ rạp.
Đàn ông và đàn bà nấp trong nhà, khi bước ra ngoài, họ thắt một chiếc
khăn quanh mũi, đeo những cặp kính kín mít để che mắt.
Đêm trở lại, một đêm tối như mực, vì các ngôi sao không thể chọc thủng
lớp bụi để rọi ánh sáng xuống, và ánh đèn từ cửa sổ hắt ra chỉ soi tỏ các
mảnh sân. Bụi hòa trộn đều với không khí, tạo nên một lớp hỗn hợp bụi
bậm. Nhà cửa đều đóng kín mít, các dải đệm bít chặt các khe cửa lớn, cửa
sổ, nhưng bụi nhỏ li ti vẫn luồn lẻn vào phía trong nhà, đọng lại như bụi
phấn hoa trên bàn ghế, bát đĩa. Người ta phải lấy vải phủi bụi thấm trên
vai, những vạch bụi mịn tơi bám đậu dưới chân cửa thành những đường
gạch nhỏ.
Nửa đêm hôm đó, gió lặng, và cảnh vật im ắng đè nặng lên mặt đất.
Không khí đầy ứ bụi bóp nghẹt các âm thanh một cách trọn vẹn hơn cả
sương mù. Nằm trên giường, dân giã lắng nghe gió ngưng thổi. Họ thức
tỉnh lúc gió hú đã im bặt. Họ nín thở nằm nghe tĩnh mịch. Rồi gà cất
tiếng gáy, người ta nằm trăn trở nôn nóng chờ đợi bình minh. Họ biết
rằng phải còn lâu lắm bụi mới lắng hết xuống mặt đất. Sáng ngày ra, bụi
vẫn treo lơ lửng chẳng
khác sương mù, và mặt trời đỏ như máu đông đặc. Suốt ngày bụi từ trên
cao cứ rơi xuống dần như xuyên qua một cái rây. Ngày tiếp theo bụi
tiếp tục sa xuống, bao phủ mặt đất dưới một tấm màn đồng màu. Bụi lắng
đọng trên ngô, bám đầy trên đầu cọc rào, bám đặc trên các sợi dây
thép, trải rộng trên các mái nhà, che lấp cỏ và cây. Mũi được che chắn
cẩn thận, mọi người ra khỏi nhà và ngửi không khí nóng ăn mòn da thịt.
Bọn trẻ con cũng bắt chước người lớn nhưng chúng không hò hét, không
chạy nhảy như trước kia mỗi lần mưa tạnh. Người lớn đứng gần bờ dậu,
nhìn cánh đồng ngô bị tàn hại hiện đang khô héo. Họ đứng câm lặng và
nhiều khi không động đậy. Rồi đến lượt các phụ nữ ra đứng cạnh đàn
ông để xem lần này cánh đàn ông có bị nao núng trước thời tiết tai ác
như vậy không. Họ kín đáo nhìn gương mặt đám đàn ông, bởi vì ngô có
thể biến mất nhưng cũng không sao, qui hồ còn lại thứ gì khác. Lũ trẻ con
đứng gần đấy, lấy ngón chân cái vạch vạch các hình vẽ trên cát bụi, và
với giác quan thức tỉnh, chúng tìm cách đoán xem chẳng hay người lớn
có nao núng hay không. Chúng liếc trộm vẻ mặt của người lớn rồi lại
chăm chú đưa đầu ngón chân vạch vạch trên đất bụi. Những con ngựa đi
tới máng nước, lỗ mũi phì phì xua bụi đóng váng trên đó. Sau một lúc,
khuôn mặt những người đàn ông đang quan sát mất hẳn vẻ sững sờ ngơ
ngác và trở nên đanh lại, giận dữ, cương quyết. Thế là các phụ nữ hiểu ra
rằng nguy cơ đã qua và sẽ không có chuyện suy sụp xảy ra. Họ bèn hỏi:
- Ta làm thế nào bây
giờ? Đám đàn ông đáp:
- Chưa biết sao.
Nhưng mọi việc đều ổn thỏa, đám phụ nữ biết rằng mọi việc đều ổn. Từ
đáy lòng, đàn bà và trẻ con đều biết rằng một khi đàn ông họ vững vàng
thì
không có nỗi bất hạnh nào là quá nặng nề. Phụ nữ trở vào nhà, lại bắt tay
vào công việc thường ngày, còn trẻ con lại bắt đầu nô đùa, tuy mới đầu có
vẻ hơi rụt rè.
Càng về trưa, mặt trời càng bớt đỏ rực, phóng những tia nắng gắt xuống
miền quê bị bao trùm dưới bụi. Đàn ông ngồi trên bậc cửa, tay mân mê
những chiếc gậy hoặc những hòn sỏi bé nhỏ. Họ ngồi im lặng, suy nghĩ và
tính toán.
CHƯƠNG 2
ột chiếc xe tải lù lù đỗ lại trước một tiệm ăn bé nhỏ nằm
bên rìa đường, ống thoát hơi thẳng đứng kêu ro ro, và
một quầng khói xanh lam hầu như vô hình lượn lờ phía
trên đầu ống. Đây là một chiếc xe tải mới sơn màu đỏ
chói gắt, hai bên thành xe có một dòng chữ to tướng
Công ty vận tải thành phố Oklahoma. Bánh xe đôi mới
cứng, một
núm khoá bằng đồng lòi ra ngoài các nẹp sắt trên các cánh cửa to ở phía
sau. Quán ăn có các ô cửa được bảo vệ bằng một tấm lưới sắt, một loa
truyền thanh đang chơi bản nhạc khiêu vũ âm thầm như lúc không có ai
lắng nghe; một chiếc quạt nhỏ lặng lẽ quay tròn trong chiếc cửa mắt bò
phía trên chỗ ra vào; đàn ruồi hối hả vo ve quanh cửa lớn và cửa sổ, chốc
chốc lại đụng vào các tấm lưới sắt. Trong quán có một tài xế là khách độc
nhất: ngồi thoải mái trên chiếc ghế đẩu, khuỷu tay tì lên quầy hàng, qua
miệng tách cà phê, y nhìn cô phục vụ gầy nhom và lẻ loi. Anh tài nói
chuyện với cô bằng thứ ngôn ngữ linh hoạt và lơ đãng của cánh lái xe
đường trường.
- Tớ đã thấy hắn cách đây gần ba tháng. Mới mổ xong. Bị cắt mất cái gì
đó, tớ chả biết.
Và cô ta:
- Còn mình, hình như mình thấy hắn cách đây chưa đầy một tuần. Có vẻ
khoẻ ra trò. Một anh chàng chả xấu bụng gì, miễn là đừng say bét nhè.
Thỉnh thoảng đàn ruồi sà tới, khẽ vo ve bên tấm lưới sắt của cửa lớn. Một
luồng hơi thoát ra từ chiếc bình pha cà phê, cô phục vụ không quay lại,
chìa tay ra sau để đóng tay gạt.
- Xem thêm -