VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THU GIANG
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
THANH TRA BỘ CÔNG AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội, năm 2017
HÀ NỘI - năm
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THU GIANG
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
THANH TRA BỘ CÔNG AN
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60.38.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HƯƠNG
Hà Nội, năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng bản thân, được thực
hiện trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo sát tình hình thực tiễn tổ chức và hoạt động
của Thanh tra Bộ Công an và dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Thị
Việt Hương. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc. Các kết
quả nghiên cứu chưa từng được công bố trong bất kì công trình nào.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thu Giang
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được thực hiện tại Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam.
Để hoàn thành được luận văn này tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên,
giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Thị Việt
Hương đã hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu của mình.
Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với Ban Giám đốc, Phòng Đào
tạo của Học viện đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và các thầy, cô
giáo, người đã đem lại cho tôi những kiến thức vô cùng có ích trong những năm học
vừa qua.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, đồng nghiệp tại Học viện
Chính trị Công an nhân dân, những người đã luôn bên tôi, động viên và khuyến
khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2017
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANQG
: An ninh quốc gia
ANTT
: An ninh trật tự
BCA
: Bộ Công an
CATW
: Công an Trung ương
CBCS
: Cán bộ, chiến sĩ
KNTC
: Khiếu nại, tố cáo
PCTN
: Phòng, chống tham nhũng
TTATXH : Trật tự an toàn xã hội
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Sơ đồ 2.1. Mô hình cơ cấu tổ chức Thanh tra Bộ Công an .......................................34
Bảng 2.1. Thống kê số lượng biên chế, cán bộ, chiến sĩ của Thanh tra Bộ Công an
năm 2011 và năm 2016 .............................................................................................35
Biểu đồ 2.1. Tỷ lệ các ngạch Thanh tra viên của Thanh tra Bộ Công an năm 2011 và
năm 2016 ...................................................................................................................35
Bảng 2.2. Thực tế số liệu thống kê các cuộc thanh tra của Thanh tra Bộ Công an
giai đoạn 2011 – 2016 ...............................................................................................44
Biểu đồ 2.2. Công tác thanh tra của Thanh tra Bộ Công an giai đoạn 2011 – 2016.44
Bảng 2.3. Danh mục thống kê số liệu công tác tiếp công dân, giải quyết KNTC của
Thanh tra Bộ Công an giai đoạn 2011 - 2016 ...........................................................48
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA BỘ CÔNG AN .............................................6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của Thanh tra Bộ Công an .................................6
1.2. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Công an .......................17
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ
Công an ..................................................................................................... 23
Chương 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA
BỘ CÔNG AN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ............................................................30
2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của thanh tra Bộ Công an ............30
2.2. Thực trạng tổ chức của Thanh tra Bộ Công an ...............................................31
2.3. Thực trạng hoạt động của Thanh tra Bộ Công an ...........................................42
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA THANH TRA BỘ CÔNG AN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.............59
3.1. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Công an ...........59
3.2. Giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Công an .............63
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................81
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Công tác thanh tra có vai trò rất quan trọng trong quản lý nhà nước, là một giai
đoạn không thể thiếu trong công tác quản lý. Thanh tra được thực hiện với mục
đích nhằm xem xét, phát hiện, làm rõ sự việc và kịp thời ngăn chặn những gì trái
với quy định. Qua đó, rút ra kết luận, kiến nghị, biện pháp khắc phục những sơ
hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động quản lý nhà nước.
Xuất phát từ tầm quan trọng đặc biệt trong việc thực hiện chức năng quản lý
nhà nước mà từ những ngày đầu thành lập, tuy chưa có cơ quan Thanh tra
chuyên trách nhưng công tác thanh tra trong lực lượng CAND đã được thực hiện
như một đòi hỏi tất yếu khách quan đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy các cấp,
các đơn vị Công an.
Thanh tra CAND là một bộ phận của Thanh tra nhà nước, được tổ chức và
hoạt động theo những quy định chung của pháp luật về thanh tra, đồng thời tuân
theo những quy định của BCA để đảm bảo phù hợp với đặc thù của lĩnh vực công
tác công an. Do đó, công tác thanh tra CAND có mối quan hệ mật thiết với việc
thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành. Thanh tra CAND là một chức năng thiết
yếu của cơ quan quản lý nhà nước nhằm mục đích nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước về lĩnh vực ANTT. Phạm vi quản lý nhà nước về ANTT của BCA mở
rộng đến đâu thì phạm vi hoạt động thanh tra phát triển đến đó, hay nói một cách
khác ở đâu có hoạt động quản lý nhà nước về công tác công an tất yếu phải có hoạt
động thanh tra. Hoạt động thanh tra CAND với mục đích kiểm tra, giám sát việc
thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, kế hoạch, nhiệm vụ công tác, chống
tham nhũng, xác minh, kết luận giải quyết KNTC, đã góp phần tích cực vào việc
xây dựng lực lượng CAND trong sạch, vững mạnh, đồng thời nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH.
Trong lực lượng CAND, Thanh tra BCA là cơ quan chỉ đạo mọi mặt về công
tác thanh tra đối với Công an các đơn vị, địa phương và các tổ chức thanh tra
CAND. Thanh tra BCA từ khi thành lập đến nay liên tục phát triển, tổ chức xuyên
suốt, đội ngũ cán bộ Thanh tra không ngừng được tăng lên về số lượng, nâng cao về
chất lượng, khẳng định được vai trò tham mưu cho lãnh đạo Bộ trong các công tác
thanh tra, tiếp công dân, xử lý đơn thư phản ánh, kiến nghị, KNTC và PCTN, góp
phần tích cực xây dựng lực lượng CAND trong sạch, vững mạnh, bảo đảm hoàn
thành nhiệm vụ chính trị của BCA. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được,
hoạt động của Thanh tra BCA vẫn còn những hạn chế, vướng mắc cần làm rõ cả về
mặt lý luận và thực tiễn như: tổ chức và hoạt động thanh tra chưa thực sự ổn định và
thống nhất. Quyền hạn thanh tra còn bị hạn chế, các kết luận, kiến nghị thanh tra
chưa được thực thi một cách nghiêm chỉnh, thiếu những biện pháp cứng rắn, chế tài
đủ mạnh. Năng lực của một số cán bộ thanh tra chưa đáp ứng được yêu cầu về trình
độ nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính
trị trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Công tác quản lý, cơ sở vật chất trang thiết
bị, trình độ khoa học kỹ thuật phục vụ hoạt động thanh tra còn yếu kém,... Những
hạn chế, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả công
tác của Thanh tra BCA.
Vì vậy, đối với Thanh tra BCA, việc nghiên cứu và làm sáng tỏ các yêu cầu
cấp thiết nhằm xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động của Thanh tra
BCA, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động
thanh tra của BCA là cần thiết. Đó cũng là lý do học viên chọn đề tài “Tổ chức và
hoạt động của Thanh tra Bộ Công an” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thanh tra là vấn đề mang tính tổ chức pháp lý quan trọng trong hệ thống bộ máy
nhà nước. Trong những năm qua, tổ chức và hoạt động thanh tra đã thu hút được sự
quan tâm của nhiều nhà khoa học pháp lý, quản lý, tổ chức nghiên cứu ở nhiều
khía cạnh và mức độ khác nhau. Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu,
bài viết về vấn đề này của các cá nhân, tập thể được công bố, như:
- “Những vấn đề pháp lý cơ bản của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thanh
tra nhà nước Việt Nam” của TS. Phạm Tuấn Khải (1998);
- “Một số giải pháp nhằm hạn chế trùng lắp, chồng chéo trong hoạt động
thanh tra” đề tài khoa học cấp cơ sở, do đồng chí Lê Đức Trung, Phó trưởng phòng
Quản lý Khoa học, Viện Khoa học Thanh tra làm chủ nhiệm;
2
- “Kỷ yếu khoa học thanh tra” từ tập 1 đến tập 8 của Viện Khoa học thanh tra
phát hành năm 2003;
- “Bàn về định hướng đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra ở nước ta” của
tác giả Phạm Văn Khanh (Tập IV- Kỷ yếu nghiên cứu khoa học thanh tra);
- “Một số ý kiến về đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra bộ, ngành” của TS.
Nguyễn Văn Mạnh (Tập V- Kỷ yếu nghiên cứu khoa học thanh tra);
- “Quán triệt quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra trong
đổi mới tổ chức hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước” của tác giả Trần
Đức Lượng (Thông tin khoa học Thanh tra số 11-2/2007).
- “Đổi mới công tác tổ chức cán bộ của ngành thanh tra” đề tài khoa học cấp
bộ của tác giả Nguyễn Khắc Hường (2008);
- “Suy nghĩ về các nguyên tắc hoạt động thanh tra” của tác giả Trịnh Xuân
Thiện (Tạp chí Thanh tra, số 03/2005);
- “Những bất cập trong các quy định của pháp luật về thanh tra”, của Nguyễn
Thành Vinh (Tạp chí Thanh tra, số 11/2007);
- “Nghiên cứu hoàn thiện mô hình tổ chức thanh tra Bộ, ngành bảo đảm nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và trật tự kỷ luật, kỷ cương hành chính”
của tác giả Đặng Xuân Phương (2009);...
Ngoài ra còn nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học, các đề tài đã
được nghiệm thu, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, về vấn đề tổ chức và hoạt động
thanh tra ở nước ta.
Các công trình nghiên cứu, các bài viết kể trên đã tập trung phân tích làm rõ khái
niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò quan trọng của công tác thanh tra; những thành công,
hạn chế và những vấn đề đặt ra trong xây dựng và thực hiện pháp luật về thanh tra nói
chung và từng Bộ, ngành, địa phương nói riêng.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Thanh tra BCA thì
chưa có công trình nào đề cập đến. Chính vì vậy, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải
nghiên cứu sâu cả về lý luận và thực tiễn tổ chức và hoạt động của Thanh tra BCA
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả các mặt của công tác thanh tra góp phần vào
3
việc tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực ANTT phục sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích:
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ
chức và hoạt động của Thanh tra BCA; đánh giá đúng thực trạng về tổ chức và hoạt
động của Thanh tra BCA, trên cơ sở đó luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm đổi
mới tổ chức và hoạt động thanh tra, đồng thời đóng góp vào quá trình hoàn thiện
pháp luật về thanh tra CAND nói chung và Thanh tra BCA nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ:
Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận về Thanh tra BCA, về vị trí vai trò của thanh tra
trong quản lý nhà nước của Thanh tra BCA; quá trình hình thành, phát triển của
Thanh tra BCA; nghiên cứu về cơ cấu tổ chức và thực tiễn hoạt động của Thanh tra
BCA từ năm 2011 đến nay; tìm ra những ưu điểm cùng với những tồn tại, hạn chế
và nguyên nhân của những kết quả này, từ đó đề xuất quan điểm, giải pháp đổi mới
tổ chức và hoạt động của Thanh tra BCA trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật liên quan tổ chức và hoạt
động của Thanh tra BCA; phân tích thực trạng về tổ chức và hoạt động của Thanh tra
BCA, đưa ra nhận xét về những ưu điểm, hạn chế, bất cập so với quy định hiện hành
trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp phù hợp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Về phạm vi không gian: Tổ chức và hoạt động của các tổ chức thanh tra trong lực
lượng CAND nói chung là vấn đề rất rộng, phức tạp, có tầm bao quát lớn, do đó, luận
văn chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề tổ chức và hoạt động của Thanh tra BCA.
Về phạm vi thời gian: Ngày 15/11/2010, Quốc hội khoá XII đã biểu quyết thông
qua Luật Thanh tra năm 2010, có hiệu lực từ ngày 01/7/2011 là văn bản pháp luật cao
nhất của Nhà nước về lĩnh vực thanh tra. Thanh tra BCA thuộc hệ thống tổ chức Thanh
4
tra Nhà nước có tính đặc thù, đồng thời theo hệ thống tổ chức chỉ huy, chỉ đạo của
BCA được Luật Thanh tra và Chính phủ quy định. Trong phạm vi của luận văn, tác giả
chỉ nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Thanh tra BCA từ năm 2011 đến nay nhằm
đánh giá kết quả hoạt động, cũng như hiệu quả của các quy định của pháp luật thanh tra
kể từ khi Luật Thanh tra năm 2010 được ban hành.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, và chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến và hiện đại của khoa học
pháp lý như: phân tích, tổng hợp, chứng minh, quy nạp, so sánh, xã hội học pháp luật,
khảo sát… để làm sáng tỏ bản chất của vấn đề.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Tập trung làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận về tổ chức và hoạt động của
Thanh tra BCA;
- Phân tích, đánh giá khách quan thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh
tra BCA ở nước ta hiện nay; chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế, bất cập, nguyên
nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác tổ chức và hoạt động của
Thanh tra BCA;
- Đề xuất một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Thanh tra
BCA nói riêng, cũng như nâng cao năng lực, hiệu quả công tác thanh tra CAND
nói chung.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn bao gồm 3 chương. Cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Thanh tra Bộ Công an.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Công an ở nước
ta hiện nay.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Thanh
tra Bộ Công an ở nước ta hiện nay.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA BỘ CÔNG AN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của Thanh tra Bộ Công an
1.1.1. Khái niệm
Để làm rõ khái niệm Thanh tra BCA, trước hết chúng ta phải đặt Thanh tra
BCA trong mối quan hệ với khái niệm chung về thanh tra; khái niệm về Thanh tra
Bộ, ngành; với vị trí, vai trò của thanh tra trong quản lý nhà nước của Bộ.
1.1.1.1. Khái niệm thanh tra
Thanh tra xuất phát từ nguồn gốc Latinh (Inspectare) có nghĩa là “nhìn vào
bên trong”, chỉ một sự xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của một số đối
tượng nhất định.
Theo Từ điển Pháp luật Anh - Việt động từ “inspect” có nghĩa là “thanh tra”
[32, tr.203] và được giải thích là hoạt động kiểm tra, kiểm soát đối với đối tượng bị
thanh tra; còn theo nghĩa của danh từ “inspectorate” trong Từ điển Anh - Việt
“thanh tra” lại có nghĩa là một cơ quan, tổ chức, bộ phận thanh tra ví dụ như ban
thanh tra, cơ quan thanh tra,…[33, tr.496]
Từ điển Luật học (tiếng Đức) giải thích “Thanh tra là sự tác động của chủ thể
đến đối tượng đã và đang thực hiện thẩm quyền được giao nhằm đạt được mục đích
nhất định - sự tác động có tính trực thuộc”. [34, tr.253]
Theo Từ điển Tiếng Việt “Thanh tra (người thuộc cơ quan có thẩm quyền)
kiểm tra, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp” [54,
tr.838]; thanh tra thường đi kèm với một chủ thể nhất định: “Người làm nhiệm vụ
thanh tra”,“đoàn thanh tra” và “đặt trong phạm vi quyền hành của một chủ thể
nhất định”.
Từ những nghĩa như vậy, thanh tra với vai trò là danh từ chung có thể được
hiểu là một thực thể pháp lý, một thiết chế nhà nước về thanh tra để chỉ cơ quan, tổ
chức thanh tra hoặc bộ phận, lĩnh vực thanh tra nhất định. Đồng thời, thanh tra với
ý nghĩa như một động từ còn là khái niệm để chỉ hoạt động kiểm tra, kiểm soát của
6
cơ quan, tổ chức, người được giao nhiệm vụ, quyền hạn nhằm: “xem xét và phát
hiện, ngăn chặn với những gì trái với quy định” [55, tr.192] của các tổ chức, cá
nhân là đối tượng của thanh tra.
Quan niệm về thanh tra hiện nay cũng như trong lịch sử nước ta được thể hiện
qua mô hình các cơ quan nhà nước, các quy định của Hiến pháp và pháp luật và
được đề cập ở các góc độ khác nhau:
Thời kỳ phong kiến, khái niệm thanh tra chưa được sử dụng. Trong các triều
đại Lý, Trần, Lê, cơ quan có chức năng gần giống như cơ quan Thanh tra Chính
phủ ngày nay là Ngự sử đài và người đứng đầu cơ quan này là Quan ngự sử, có
nhiệm vụ giúp nhà vua trong việc theo dõi, xem xét các công việc hệ trọng của triều
đình. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công với sự ra đời của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa, ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số
64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt, được ủy nhiệm đi giám sát tất cả công việc
và các nhân viên của Ủy ban nhân dân, các cơ quan của Chính phủ. Từ đây thuật
ngữ “thanh tra” xuất hiện, quyền thanh tra được xác định và chính thức giao cho
Chính phủ. [28]
Tuy nhiên, Hiến pháp Việt Nam năm 1946 vẫn chưa sử dụng thuật ngữ “thanh
tra”, hoạt động thanh tra, kiểm tra chưa được giao cho một cơ quan chuyên trách
nào mà được giao cho Ban thường vụ của Nghị viện. Đến Hiến pháp năm 1959
trong một số quy định đã có nội dung về kiểm tra “Hội đồng Chính phủ ra những
thông tư, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các thông tư, chỉ thị ấy” (Điều 76).
Hiến pháp năm 1980 đã sử dụng thuật ngữ thanh tra, kiểm tra rộng rãi hơn cho
các cơ quan Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng và Ủy ban nhân dân các cấp “… Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) tổ chức và lãnh đạo công tác thanh tra và
kiểm tra của Nhà nước” (Điều 107). Hiến pháp năm 1992, ghi nhận nhiều hơn
và mở rộng phù hợp với phạm vi, thẩm quyền quản lý của Chính phủ, thông qua
các Điều 112, 115, 116, 124. Hiến pháp năm 2013, cụ thể tại Khoản 5 Điều 96 quy
định Chính phủ có nhiệm vụ “tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước”.
7
Văn bản pháp lý đầu tiên của hoạt động thanh tra là Pháp lệnh thanh tra năm
1990. Pháp lệnh đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp và khẳng định thanh tra
là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước. Điều 1 Pháp lệnh thanh
tra quy định: “Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước;
là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực
hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa”.
Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2004 đã được thông qua tại kỳ họp thứ
5 Quốc hội khóa IX thì “Thanh tra nhà nước là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ
quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của
cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục được
quy định trong luật này và các quy định khác của pháp luật. Thanh tra nhà nước
bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành”.[37, tr.1]
Luật Thanh tra năm 2010 thay thế cho Luật Thanh tra năm 2004 tiếp tục
khẳng định vai trò to lớn của công tác thanh tra và có những quy định mới nhằm
nâng cao vị trí, vai trò của các tổ chức thanh tra, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của
công tác thanh tra. Khoản 1 Điều 3, Luật Thanh tra 2010 quy định: “Thanh tra Nhà
nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp
luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao
gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành”. Trong đó:
Thanh tra hành chính là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối
với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ, quyền hạn được giao. [38, tr.1]
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành
pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc
ngành, lĩnh vực đó. [38, tr.1]
Điểm lại những quy định của Hiến pháp, pháp luật và thực tiễn qua các giai
đoạn của lịch sử thanh tra của nước ta, nhận thấy thanh tra, kiểm tra là một chức
8
năng của quản lý nhà nước, là hoạt động không thể thiếu được trong hoạt động của
bộ máy nhà nước nói chung và quản lý hành chính nhà nước nói riêng.
Từ những phân tích nêu trên, thanh tra được hiểu như sau:
Thanh tra là việc xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự thủ tục do pháp luật
quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
quản lý hành chính nhà nước nhằm phòng ngừa, xử lý các vi phạm pháp luật, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, góp
phần nâng cao hiệu lực quản lý hành chính nhà nước.
Bên cạnh đó, khi nói về thanh tra chúng ta thường gắn liền với các hoạt động
kiểm tra, giám sát. Trong cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nói chung của toàn xã
hội, thanh tra gắn với cơ quan quản lý nhà nước, đối tượng thanh tra hẹp hơn và
trực tiếp hơn so với đối tượng của từng chủ thể kiểm tra, giám sát. Hoạt động thanh
tra của các cơ quan thanh tra nhà nước hỗ trợ đắc lực cho hoạt động kiểm tra, giám
sát. Qua hoạt động thanh tra, các cơ quan thanh tra nhà nước không những phát
hiện các vi phạm để xử lý theo thẩm quyền của mình, mà còn phục vụ cho hoạt
động kiểm tra, giám sát nói chung của xã hội. Ngược lại, hoạt động thanh tra của
các cơ quan thanh tra nhà nước tuy là hoạt động tự kiểm tra của hệ thống cơ quan
hành chính nhà nước nhưng cũng luôn được tiếp nhận kết quả kiểm tra, giám sát từ
các “kênh” khác để làm tốt hơn công tác thanh tra của mình. Thanh tra, kiểm tra và
giám sát tuy là những khái niệm khác nhau nhưng lại chứa đựng một mối liên hệ
qua lại, gắn bó.
1.1.1.2. Khái niệm Thanh tra Bộ Công an
Trong quản lý nhà nước, trên cơ sở pháp luật và mục tiêu phát triển đất nước,
các Bộ, cơ quan ngang Bộ (sau đây gọi chung là Bộ) phải sử dụng nhiều chức năng
để quản lý: xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển, ban hành quy
trình quy phạm về kinh tế - kỹ thuật, đưa ra các biện pháp tổ chức triển khai thực
hiện, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật, chính sách, các quyết định trong
phạm vi quản lý nhà nước của mình. Thanh tra Bộ là một trong những bộ phận
9
quan trọng của quản lý nhà nước, là một công cụ để kiểm tra việc thực hiện các chủ
trương, chính sách, pháp luật theo từng lĩnh vực được phân công.
Ở nước ta, từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đến nay, tổ
chức Thanh tra Bộ cũng sớm được hình thành, là cơ quan chuyên môn giúp Bộ tiến
hành thanh tra, kiểm tra phục vụ yêu cầu quản lý theo chỉ đạo của Bộ trưởng. Theo
quy định tại Điều 17 của Luật Thanh tra năm 2010, vị trí, chức năng của Thanh tra
Bộ được thể hiện rõ là cơ quan của Bộ, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công
tác thanh tra, giải quyết KNTC và PCTN; tiến hành thanh tra hành chính đối với cơ
quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực của
Bộ; tiến hành thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm
vi quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực của Bộ; giải quyết KNTC và PCTN theo
quy định của pháp luật. Thanh tra Bộ chịu sự chỉ đạo, điều hành trực tiếp của Bộ
trưởng, đồng thời chịu sự chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về tổ chức, nghiệp vụ của
Thanh tra Chính phủ; vừa thực hiện hoạt động thanh tra hành chính, vừa thực hiện
hoạt động thanh tra chuyên ngành.
Tổ chức Thanh tra Bộ những năm qua đã phát huy được những tác dụng nhất
định, góp phần quan trọng vào hiệu quả lãnh đạo, quản lý trên các lĩnh vực kinh tế xã hội được phân công. Thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra của các tổ chức
Thanh tra Bộ đã có nhiều kiến nghị trực tiếp tham gia vào xây dựng các đạo luật,
nghị định của Chính phủ, các văn bản pháp quy của ngành, kiến nghị với Bộ trưởng
xử lý các sai phạm trong phạm vi quản lý Bộ.
Tuy nhiên, thanh tra không phải là hoạt động trực tiếp chỉ huy, điều hành quản
lý, mà là thiết chế đảm bảo cho hoạt động quản lý đúng pháp luật, giúp cho cơ quan
quản lý thực hiện chức năng quản lý đối với ngành có hiệu quả. Ngoài ra, Thanh tra
Bộ còn xem tính hợp lý của pháp luật và các chính sách do cơ quan quản lý nhà
nước ban hành để kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế nhằm hoàn thiện chính
sách quản lý. Về ý nghĩa này, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhấn mạnh trong
Hội nghị thanh tra toàn quốc ngày 24 tháng 3 năm 1972 tại Hà Nội: “Vị trí, tầm
quan trọng của công tác thanh tra là ở chỗ nó phát hiện cho mình những cái mà
10
mình cần, nó thường xuyên là tai mắt của mình, nó biết nhìn, biết thấy, biết phát
hiện và biết chỉ cho mình thấy những cái mà mình cần biết”.[43]
Như đã phân tích ở trên, thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan
quản lý nhà nước, thanh tra hành chính hay thanh tra chuyên ngành ở Bộ hiện nay
đều thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Bộ. Điều này
có nghĩa là, Bộ quản lý nhà nước đến đâu thì Thanh tra Bộ có quyền thanh tra
đến đó, quản lý ngành nào thì Thanh tra Bộ có quyền thanh tra ngành đó. Như vậy,
thanh tra hành chính hay thanh tra chuyên ngành ở Bộ đều gắn liền với khái
niệm quản lý nhà nước chuyên ngành, với tính chất chuyên ngành của Bộ.
Đã có nhiều nghiên cứu về vị trí, vai trò, chức năng thanh tra trong quản lý
nhà nước của Bộ, theo đó, khái niệm về Thanh tra Bộ được hiểu như sau:
Thanh tra Bộ là cơ quan thanh tra hoặc hệ thống các cơ quan thanh tra thuộc
một Bộ, cơ quan ngang Bộ, được thành lập trên cơ sở quy định của Luật Thanh tra
và các quy định riêng của Chính phủ, thực hiện chức năng thanh tra hành chính và
thanh tra chuyên ngành trong phạm vi quản lý thuộc chức năng, nhiệm vụ của Bộ,
cơ quan ngang Bộ. [35, tr.18]
Đối với Thanh tra BCA, tại Điều 8 Nghị định 41/2014/NĐ-CP của Chính phủ
ban hành ngày 13/5/2014 quy định vị trí, chức năng của Thanh tra BCA là cơ quan
trực thuộc BCA Việt Nam chịu sự chỉ đạo, điều hành trực tiếp của Bộ trưởng BCA
và chịu sự chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra
Chính phủ; có trách nhiệm giúp Bộ trưởng BCA quản lý nhà nước về công tác
thanh tra, giải quyết KNTC, tiếp công dân, PCTN, lãng phí trong CAND; tiến hành
thanh tra hành chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của
BCA; thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi
quản lý nhà nước về bảo vệ ANQG, giữ gìn TTATXH; giải quyết KNTC, tiếp công
dân, PCTN, lãng phí theo quy định của pháp luật.
Qua nghiên cứu các quy định hiện hành cũng như thực tiễn hoạt động của
thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành ở BCA, thấy rằng các hình thức
này đều đáp ứng đầy đủ các tiêu thức của khái niệm chung về thanh tra. Thanh tra
11
BCA là một thiết chế quản lý nhà nước đối với ngành, được tiến hành bởi chủ thể
là cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành, được thực hiện các quyền mang tính nhà
nước, nhân danh quyền lực nhà nước và phải thực hiện những trình tự, thủ tục pháp
luật quy định.
Trên cơ sở khái niệm chung về thanh tra; Thanh tra Bộ cũng như các quy định
của pháp luật hiện hành, có thể thống nhất khái niệm về Thanh tra BCA như sau:
Thanh tra BCA là cơ quan thanh tra trực thuộc BCA, thực hiện chức năng
thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong phạm vi quản lý nhà nước
của BCA về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm Thanh tra Bộ Công an
Bên cạnh những đặc điểm chung của thanh tra, tổ chức và hoạt động của
Thanh tra BCA còn có những đặc điểm riêng như sau:
Thứ nhất, Thanh tra BCA là cơ quan của BCA, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo song
trùng trực thuộc, chịu sự chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng ủy CATW, Bộ
trưởng BCA, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức, nghiệp vụ
của Thanh tra Chính phủ. Như vậy:
Theo chiều ngang, Thanh tra BCA là cơ quan tham mưu, giúp việc cho Bộ
trưởng BCA, góp phần thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
Theo chiều dọc, Thanh tra BCA là một cơ quan thanh tra thuộc hệ thống thanh
tra nhà nước, chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về nghiệp vụ thanh tra của
Thanh tra Chính phủ.
Thứ hai, Thanh tra BCA tiến hành hoạt động thanh tra hành chính đối với Công
an các đơn vị, địa phương và CBCS CAND theo quy định về phân cấp quản lý của Bộ
trưởng BCA trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được
giao. Đồng thời, tiến hành thanh tra chuyên ngành đối với các cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong việc chấp hành pháp luật về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH, đấu tranh
phòng chống tội phạm thuộc phạm vi quản lý nhà nước của BCA.
Thứ ba, đối tượng thanh tra của Thanh tra BCA bao gồm: Cơ quan, đơn vị và
cá nhân thuộc BCA quản lý; Cơ quan, tổ chức và cá nhân Việt Nam trong việc chấp
12
hành pháp luật về bảo vệ ANQG và giữ gìn TTATXH thuộc phạm vi quản lý nhà
nước của BCA; Cơ quan, tổ chức và cá nhân nước ngoài tại Việt Nam có hoạt động
liên quan đến pháp luật về bảo vệ ANQG và giữ gìn TTATXH thuộc phạm vi quản
lý nhà nước của BCA.
Thứ tư, Thanh tra BCA gắn liền với tính chất quản lý nhà nước của BCA trong
lĩnh vực ANTT. Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực ANTT,
BCA đề ra mục tiêu, yêu cầu, nội dung đối với hoạt động của Thanh tra BCA. Cơ
chế tổ chức và hoạt động của Thanh tra BCA phải phù hợp với quy mô, tính chất và
yêu cầu quản lý nhà nước của BCA. Tuy nhiên, xét theo chức năng quản lý thì
Thanh tra BCA là công cụ, phương tiện để thực hiện chức năng quản lý nhà nước
của BCA.
Trong quá trình chấp hành và điều hành, hoạt động quản lý nhà nước phải áp
dụng và tuân thủ một cách nghiêm minh pháp luật, nhưng trên thực tế không phải
khi nào pháp luật cũng được chấp hành nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, trách
nhiệm của Thanh tra BCA là giúp BCA dựa trên các kết quả, thông tin từ các cuộc
thanh tra, từ đó đưa ra những biện pháp bảo đảm cho việc thực thi pháp luật chuyên
ngành về ANTT một cách nghiêm ngặt.
Ngoài ra, Thanh tra BCA cũng có tác động tích cực trở lại đối với hoạt động
quản lý nhà nước trong lĩnh vực ANTT của BCA. Tính hiệu quả trong hoạt động
của Thanh tra BCA có tác dụng ngăn chặn được nguy cơ biến dạng, tùy tiện, thiếu
kỷ cương trong hoạt động quản lý của BCA, đảm bảo được mục đích của quản lý.
1.1.3. Vai trò của Thanh tra Bộ Công an
Thanh tra Bộ là bộ phận không thể thiếu trong hoạt động quản lý nhà nước của
Bộ, có vai trò quan trọng khi Việt Nam đang trong quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật.
Mục đích của thanh tra không dừng lại ở việc xem xét, đánh giá một cách đơn
thuần đối với các hành vi cụ thể, mà còn nhằm điều chỉnh, hướng các đối tượng của
quản lý thực hiện nghiêm chỉnh chính sách pháp luật, đánh giá, phát hiện ra những
sơ hở trong các chính sách quản lý nhằm phục vụ quản lý nhà nước của Bộ. Do đó,
ở khía cạnh nhất định, Thanh tra Bộ có vai trò “tham mưu” cho Thủ trưởng cơ
13
- Xem thêm -