VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TẤN TÀI
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ
HÀNH CHÍNH CÔNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – NĂM 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TẤN TÀI
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ
HÀNH CHÍNH CÔNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60.38.01.02.
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS LÊ THỊ HƯƠNG
HÀ NỘI – 2017
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG ........................................................................... 6
1.1. Tổng quan về hành chính công ............................................................................ 6
1.2. Nội dung tổ chức và hoạt động dịch vụ hành chính công .................................. 25
1.3. Kinh nghiệm tổ chức và hoạt động dịch vụ hành chính công ............................ 33
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ HÀNH
CHÍNH CÔNG TẠI TỈNH BÌNH DƯƠNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG ĐỘNG DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY.......................................................................................... 40
2.1. Thực trạng tổ chức và hoạt động dịch vụ hành chính công tại tỉnh Bình Dương40
2.2. Các giải pháp tăng cường tổ chức và hoạt động dịch vụ hành chính công ở
Việt Nam hiện nay .................................................................................................... 62
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 83
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BMHC
: Bộ máy hành chính
BMNN
: Bộ máy nhà nước
CCHC
: Cải cách hành chính
CNTT
: Công nghệ thông tin
CQHC
: Cơ quan hành chính
DN
: Doanh nghiệp
DVHCC
: Dịch vụ hành chính công
HCC
: Hành chính công
HCNN
: Hành chính nhà nước
HĐND
: Hội đồng nhân dân
KCN
: Khu công nghiệp
KH&CN
: Bộ Khoa học và Công nghệ
QLHC
: Quản lý hành chính
QPPL
: Quy phạm pháp luật
TCVN ISO
: Ti êu chuẩn Chất lượng Việt Nam
TTHC
: Thủ tục hành chính
UBND
: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Hình 1.1. Các điểm so sánh sự khác nhau giữa hành chính công và hành
chính tư ................................................................................................ 10
Hình 1.2. Nội dung tổ chức và hoạt động dịch vụ hành chính công ... 33
Hình 2.1. Tình hình tổng hợp thụ lý hồ sơ những tháng cuối năm 2016
.............................................................................................................. 47
Hình 2.2. Tổng hợp kết quả xử lý hồ sơ tỉnh Bình Dương năm 2016 . 47
Hình 2.3. Kết quả điều tra, khảo sát về thực trạng xây dựng kế hoạch tổ
chức và hoạt động dịch vụ hành chính công trên địa bàn tỉnh Bình
Dương giai đoạn 2010 – 2016 ............................................................. 48
Hình 2.4. Kết quả điều tra, khảo sát về thực trạng tổ chức và hoạt động
dịch vụ hành chính công trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn
2010 – 2016 ......................................................................................... 50
Hình 2.5. Giao diện tra cứu hồ sơ, đăng ký nhận kết quả tại nhà Trung
tâm Hành chính công tỉnh Bình Dương .............................................. 54
Hình 2.6. Kết quả điều tra, khảo sát về thực trạng kiểm tra, giám sát quá
trình tổ chức và hoạt động dịch vụ hành chính công trên địa bàn tỉnh
Bình Dương giai đoạn 2010 – 2016 .................................................... 55
Hình 2.7. Kết quả điều tra, khảo sát về thực trạng đánh giá kết quả tổ
chức và hoạt động dịch vụ hành chính công trên địa bàn tỉnh Bình
Dương giai đoạn 2010 – 2016 ............................................................. 57
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hành chính công (HCC), hay còn gọi là hành chính nhà nước, là lĩnh vực
hoạt động gắn liền với hoạt động của nhà nước, là tiến trình mà theo đó các nguồn
lực công và nhân sự được tổ chức và phối hợp để thiết kế, thực hiện và quản lý các
chính sách công của các quốc gia. Hành chính công là hoạt động thực thi quyền
hành pháp của Nhà nước, là sự tác động có tổ chức và là sự điều chỉnh bằng quyền
lực pháp luật của Nhà nước tới các quá trình xã hội và hành vi của con người thông
qua việc các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương tiến hành.
Hành chính công có vai trò rất quan trọng đối với việc duy trì và phát triển
các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật, thoả mãn nhu cầu hợp pháp của công
dân, từ đó xây dựng và phát triển đất nước. Vì vậy, việc tổ chức và hoạt động dịch
vụ hành chính công sao cho hiệu quả tối ưu là rất cần thiết và quan trọng đối với bất
cứ quốc gia hay địa phương nào, nhất là trong điều kiện cải cách nền hành chính
hiện nay. Trong thời kỳ hội nhập phát triển kinh tế hiện nay, công cuộc cải cách
hành chính là một nhiệm vụ cấp bách và cần thiết để thực hiện mục tiêu xây dựng
một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp lấy dân làm
gốc. Cải cách hành chính đã và đang là vấn đề mang tính toàn cầu ở các nước phát
triển cũng như các nước đang phát triển. Cải cách hành chính được xem là động lực
mạnh mẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển dân chủ và mọi mặt của
đời sống xã hội. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó, quá trình cải cách hành
chính được tiến hành đồng thời với quá trình đổi mới đất nước. Quá trình cải cách
hành chính ở Việt Nam được khởi đầu từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
năm 1986. Từ những yêu cầu đổi mới của tình hình kinh tế - xã hội của thập niên
80, Đại hội VI đã chỉ đạo tiến hành một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy các cơ
quan nhà nước. Tuy nhiên, đây là một công việc mới mẻ, diễn ra trong điều kiện
thiếu kiến thức và kinh nghiệm về quản lý hành chính nhà nước trong thời kỳ mới,
có nhiều vấn đề phải vừa làm, vừa tìm tòi rút kinh nghiệm. Vì vậy, việc hình thành
quan niệm và những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách hành chính cũng
1
như việc đề ra những nội dung, phương hướng, chủ trương, giải pháp thực hiện
trong từng giai đoạn là một quá trình tìm tòi sáng tạo không ngừng, là một quá trình
nhận thức liên tục, thống nhất trong tiến trình đổi mới.
Vấn đề cải cách hành chính Nhà nước từ Trung ương đến địa phương đã trở
thành một vấn đề hết sức cấp bách và trọng yếu của đất nước trong công cuộc đổi
mới toàn diện do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Trải qua nhiều năm cùng với những
bước đi và lộ trình khác nhau công cuộc cải cách hành chính cũng đã thu được
những thành tựu đáng kể, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Bên cạnh
những thành tựu đã đạt được, có thể nhận thấy quá trình cải cách hành chính còn
nhiều hạn chế, nền hành chính vẫn trì trệ chưa đáp ứng được các đòi hỏi của sự phát
triển xã hội.
Tỉnh Bình Dương là một trong những tỉnh xác định được tầm quan trọng của
công tác tổ chức và hoạt động dịch vụ hành chính công nên trong thời gian qua đã
đạt được nhiều thành tựu góp phần hoàn thiện tổ chức và hoạt động dịch vụ công
trong tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh đó, những thiếu xót là không tránh khỏi. Đó là
những hạn chế liên quan đến các nội dung tổ chức và hoạt động dịch vụ hành chính
công, nhân sự thực hiện hành chính công, quy trình tổ chức và hoạt động dịch vụ
hành chính công … và nhiều vấn đề liên quan khác. Đứng trước những điều này đòi
hỏi phải đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động dịch
vụ hành chính công tại Bình Dương trong những năm tới.
Trên cơ sở nhìn nhận thực tế khách quan tại tỉnh Bình Dương và mong muốn
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động dịch vụ
hành chính công tại Bình Dương trong những năm tới, tác giả lựa chọn đề tài "Tổ
chức và hoạt động dịch vụ hành chính công từ thực tiễn tỉnh Bình Dương" làm đề
tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, để tăng cường năng lực quản lý của nhà nước
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập
2
kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước ta chủ trương cải cách hành chính một cách
mạnh mẽ, toàn diện. Cải cách hành chính nhằm góp phần xây dựng bộ máy nhà
nước trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả. Trên cơ sở đó làm cho bộ
máy nhà nước thực hiện tốt nhiệm vụ thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng
và tổ chức tốt việc điều hành, quản lý đất nước thông suốt, tạo điều kiện cho nền
kinh tế nhiều thành phần phát triển, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, củng cố quốc
phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế. Đây là việc làm không đơn giản, đòi hỏi trong quá trình cải cách hành
chính phải tính toán kỹ lưỡng, lựa chọn chính xác tập trung giải quyết từng bước
các vấn đề để tạo sự chuyển biến vững chắc theo chiều sâu, đồng thời phải làm sao
cải cách hành chính vừa là nền tảng và cũng vừa là động lực để phát triển đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chức
và hoạt động dịch vụ hành chính công từ thực tiễn tỉnh Bình Dương.
Để thực hiện được mục đích trên, tác giả đề ra ba nhiệm vụ nghiên cứu cần
thực hiện xuyên suốt đề tài, bao gồm:
- Tổng hợp cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động dịch vụ hành chính công.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động dịch vụ hành chính
công tại tỉnh Bình Dương những năm gần đây.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động dịch
vụ hành chính công trong những năm tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình tổ chức và hoạt động dịch vụ
hành chính công tại tỉnh Bình Dương.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về mặt nội dung: Công tác tổ chức và hoạt động dịch vụ hành chính công
tại tỉnh Bình Dương.
3
- Về mặt thời gian: Nghiên cứu thực trạng những năm gần đây (2010-2016)
và giải pháp cho những năm tới (đến năm 2020).
- Về mặt không gian: Nghiên cứu trong phạm vi tỉnh Bình Dương.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu tổng hợp khác nhau, trong đó
có các phương pháp được sử dụng nhiều như: Phương pháp so sánh, phương pháp
phân tích, tổng hợp, tham khảo ý kiến chuyên gia, tài liệu tham khảo….
Về phương pháp chính, luận văn sử dụng phương pháp thu thập và xử lý dữ
liệu sơ cấp và thứ cấp. Trong đó, dữ liệu được thu thập thông qua kênh điều tra,
khảo sát bằng bảng hỏi đối với các đối tượng nghiên cứu là cán bộ thực hiện công
tác hành chính công và người dân hưởng lợi ích từ các dịch vụ hành chính công trên
địa bàn tỉnh Bình Dương trong những năm qua.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã tổng hợp cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động dịch
vụ hành chính công, vì vậy, có thể được sử dụng như tài liệu tham khảo cho các tác
giả sau này nghiên cứu cùng đề tài. Đó là ý nghĩa khoa học của luận văn.
Bên cạnh đó, luận văn đã tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và
hoạt động dịch vụ hành chính công từ thực tiễn tỉnh Bình Dương những năm gần
đây, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động dịch
vụ hành chính công tại tỉnh Bình Dương trong những năm tới. Vì vậy, luận văn có
giá trị thực tiễn rất lớn đối với địa bàn tỉnh Bình Dương, trong quá trình hoàn thiện,
nâng cao hiệu quả thực hiện dịch vụ hành chính công trong thực tiễn.
7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về tổ chức và hoạt động dịch vụ
hành chính công.
4
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động dịch vụ hành chính công tại tỉnh
Bình Dương và các giải pháp tăng cường tổ chức và hoạt động dịch vụ hành chính
công ở Việt Nam hiện nay.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG DỊCH
VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG
1.1. Tổng quan về hành chính công
1.1.1. Hành chính công
1.1.1.1. Khái niệm hành chính công
Trong các văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước đã để cập đến khái
niệm hành chính công. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nêu: "Xây
dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện
đại hoá Định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ theo hướng bộ quản lý
đa ngành, đa lĩnh vực trên phạm Vi toàn quốc, cung cấp dịch vụ công". [3, tr. 133]
"Hành chính công là hoạt động thực thi quyền hành pháp của Nhà nước, là
sự tác động có tổ chức và là sự điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật của Nhà nước
tới các quá trình xã hội và hành vi của con người thông qua việc các cơ quan hành
chính Nhà nước từ trung ương đến địa phương tiến hành nhằm duy trì và phát triển
các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật, thoả mãn nhu cầu hợp pháp của công
dân. Hành chính công trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc nhằm đạt được
các mục tiêu của quốc gia một cách hữu hiệu nhất trong từng giai đoạn phát triển".
[7, tr 6].
Tùy theo cách tiếp cận, chúng ta cũng có những cách hiểu, những định nghĩa
khác nhau về hành chính công. Cụ thể:
Theo phương diện chính trị, "Hành chính công là hoạt động liên quan đến
xây dựng và thực thi chính sách công như tư vấn chính sách, xây dựng dự thảo.
Hành chính công cũng là người thực thi đầy đủ Hiến pháp và pháp luật của Nhà
nước". [7, tr 10].
Theo phương diện pháp lý, "Hành chính công là luật tổng hành động đưa
pháp luật vào đời sống, ban hành ra các văn bản dưới luật để thể hiện luật, triển khai
các văn bản pháp luật của Nhà nước và biến các ý tưởng đó thành sản phẩm cụ thể".
[7, tr 10].
6
Theo cuốn sách “Hành chính học đại cương” thì hành chính công là "hoạt
động của Nhà nước, của các cơ quan nhà nước, mang tính quyền lực nhà nước, sử
dụng quyền lực nhà nước để quản lý công việc công của nhà nước, nhằm phục vụ
lợi ích chung hay lợi ích riêng hợp pháp của công dân". [7, trang 10]. Hành chính
công là một dạng hoạt động nhằm thực hiện các nhiệm vụ công vì lợi ích và mục
đích chung, được thực hiện theo luật công bởi các chủ thể của quyền lực công - các
pháp nhân công quyền. [20, tr.18].
1.1.1.2. Đặc trưng của hành chính công
- Tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị: Nền hành chính trước hết
là phục vụ chính trị, thực hiện những nhiệm vụ chính trị do cơ quan quyền lực Nhà
nước quyết định. Hành chính nhà nước là trung tâm thực thi các quyết định của hệ
thống chính trị.
Nền hành chính Việt Nam luôn thực hiện các nhiệm vụ do Đảng cộng sản và
Nhà nước Việt Nam đề ra, ở đây nền hành chính mang đầy đủ bản chất của nước
Việt Nam – Nhà nước của dân, do dân và vì dân. hành chính nhà nước ở nước ta là
yếu tố cấu thành hệ thống chính trị. Trong hoạt động thực thi quản lý Nhà nước,
hành chính nhà nước là yếu tố quan trọng quá trình hiệu quả hoạt động quản lý Nhà
nước cả hệ thống chính trị.
- Tính pháp quyền: Là phải đảm bảo nền hành chính hoạt động trong khuôn
khổ của pháp luật Nhà nước. Mọi hoạt động đều phải tuân thủ pháp luật và hành
chính là thực thi quyền lực nên phải đi đầu trong việc tuân thủ pháp luật.
Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và với tư cách là công
cụ của Nhà nước pháp quyền nên nền hành chính mang đậm tính pháp quyền, nghĩa
là tính cưỡng bức của Nhà nước, nó hoạt động theo quy tắc đòi hỏi mọi cơ quan
Nhà nước, tổ chức xã hội, công chức, đều phải nắm vững quyền lực, sử dụng đúng
đắn quyền lực, đảm bảo đúng chức năng và thẩm quyền của mình khi thực thi công
vụ đồng thời phải nâng cao uy tín về chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực trí
tuệ. Kết hợp chặt chẽ yếu tố quyền lực và yếu tố uy tín.
7
- Tính liên tục, tương đối ổn định và thích ứng: Hành chính là phục vụ nhân
dân mà công việc này phải làm hàng ngày, thường xuyên cho nên nền hành chính
Nhà nước phải đảm bảo tính liên lục, ổn định để không bị gián đoạn trong bất kỳ
tình huống nào. Tuy vậy ngoài liên tục và ổn định ra thì chưa đủ, nó còn phải bao
gồm tính thích ứng vì xã hội luôn phát triển, biến động. Vì vậy nền hành chính cũng
phải có những thay đổi để không bị lạc hậu và đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
- Nền hành chính ở Việt Nam khá ổn định và hiện nay đang liên lục đổi mới
để đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước, nó liên tục phát triển và ngày
càng hoàn thiện.
- Tính chuyên môn hoá và nghề nghiệp cao: Các hoạt động trong nền hành
chính Nhà nước có nội dung phức tạp, đa dạng nên nó đòi hỏi rất cao đến các kiến
thức xã hội và chuyên môn của các nhà hành chính. Vì vậy tiêu chuẩn về kiến thức
chuyên môn và năng lực quản lý phải trở thành một tiêu chuẩn cơ bản của
côngchức.
Ở Việt Nam hiện nay nền hành chính đã đang xây dựng những tiêu chuẩn rất
cơ bản và khá khắt khe đối với viên chức hành chính, họ chỉ là những viên chức
hành chính nếu họ đáp ứng được đầy đủ các tiêu chuẩn đưa ra, vì vậy được lựa chọn
kỹ càng thì nền hành chính của nước ta trong tương lai sẽ có các viên chức có năng
lực.
- Tính hệ thống thức bậc chặt chẽ: Nền hành chính Nhà nước bao gồm một
hệ thống định chế theo thứ bậc chặt chẽ và thông suốt từ Trung ương đến địa
phương, trong đó cấp dưới phục tùng cấp trên, nhận chỉ thị mệnh lệnh và chịu sự
kiểm tra thường xuyên của cấp trên. Các cơ quan hoạt động trong phạm vi thẩm
quyền được giao. Tuy vậy, hệ thống này cũng có tính linh hoạt tương đối để không
trở thành một hệ thống xơ cứng và quan liêu.
Nền hành chính Việt Nam hình thành một hệ thống chặt chẽ từ Trung ương
gồm Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ đến địa phương bao gồm các Uỷ ban
nhân dân các cấp và các cơ quan trực thuộc. Các cơ quan ở địa phương phải chịu sự
8
quản lý và kiểm tra của các cơ quan Trung ương, bên cạnh đó các cơ quan chuyên
môn phải chịu sự quản lý song trùng.
- Tính không vụ lợi: Hành chính Nhà nước có nhiệm vụ phục vụ lợi ích công
và lợi ích công dân. Mọi hoạt động trong hệ thống hành chính Nhà nước đều mang
tính chất phục vụ chứ không theo đuổi mục đích lợi nhuận. Vì vậy hành chính hoạt
động phải vô tư, tận tâm, trong sạch.
Tại Việt Nam, nền hành chính phục vụ hết mình cho công dân, nó không hề
vụ lợi và ngày nay đang đấu tranh để làm cho nền hành chính Việt Nam ngày càng
trong sạch và vì lợi ích cộng đồng hơn nữa.
- Tính nhân đạo: Xuất phát từ bản chất nhân đạo của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy tất cả các hoạt động của nền hành chính đều vì con người và phục vụ
cộng đồng, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, không gây phiên hà
cho nhân dân. Hoạt động quản lý mang tính thuyết phục là chính, sự cưỡng bức chỉ
là biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo để mọi vi phạm phải được xử lý chứ không
phải chỉ nhằm để trừng phạt.
Nhà nước Việt Nam có bản chất là Nhà nước của nhân dân và do nhân dân,
vì dân vì vậy tôn trọng quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân là xuất phát điểm
của hệ thống lật, thể chế quy tắc, thủ tục hành chính. Các công chức không được
quan liêu, cửa quyền, hách dịch, gây phiên hà cho dân khi thi hành công vụ. Mặt
khác, hiện nay chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường nên nền hành chính càng
đảm bảo tính nhân đạo để hạn chế tối đa mạt trái của nền kinh tế thị trường, thúc
đẩy kinh tế- xã hội phát triển bền vững.
9
1.1.1.3. Phân biệt hành chính công và hành chính tư
Hình 1.1. Các điểm so sánh sự khác nhau giữa hành chính công và hành chính tư.
Các điểm
so sánh sự
khác nhau
giữa hành
chính công
và hành
chính tư
(8)
(1)
Mục
tiêu
hoạt
động
(2)
(3)
(4)
Tính
chính trị
Tính
quyền
lực
Cơ sở
pháp lý
(5)
(6)
Quy mô
tổ chức
hoạt
động
Tài
chính
hoạt
động
Yêu cầu
đối với
(7)
đội ngũ
những
Chú thể
và khách người
tham gia
thể
hoạt
động
Hành chính công là một khái niệm để phân biệt với “hành chính tư”. sự khác
nhau căn bản ở đây nằm ở hai khái niệm “công” và ‘tư”, nhưng càng ngày 2 khái
niệm Hành chính công mới đáp ứng được, hay hình thức liên doanh ngày càng được
áp dụng và nó đã đạt được hiệu quả cao nên việc phân biệt Hành chính công và
Hành chính tư ngày càng trở nên khó khăn. Tuy vậy, nó vẫn có những điểm khác
nhau mang tính nguyên tắc đó là:
(1) Mục tiêu hoạt động: Đặc điểm nổi bật của bất kỳ một cơ quan Hành
chính công nào là hoạt động vì mục đích công cộng, lợi ích của cộng đồng, trong
khi đó mục tiêu chủ yếu của hành chính tư là lợi nhuận, phục vụ mọi người vị động
cơ lợi nhuận.
(2) Tính chính trị: Hành chính công vì tính chất chính trị của tổ chức, trong
mọi hoạt động của mình Hành chính công luôn mang màu sắc chính trị và bị các
mục tiêu chính trị chi phối, gây ảnh hưởng. Nhưng hành chính tư lại không hề có
10
màu sắc chính trị, nó hoạt động mà không hề bị tác động bởi một động cơ chính trị
nào.
(3) Tính quyền lực: Hành chính công mang tính quyền lực Nhà nước, tính
mệnh lệnh cưỡng chế rất cao. Hành chính tư không mang tính quyền lực Nhà nước
tính cưỡng chế không cao.
(4) Cơ sở pháp lý: Hành chính công có những thủ tục hết sức phức tạp, phải
tuân theo một trình tự thủ tục do pháp luật quy định, không được phá bỏ, nó luôn
cứng nhắc, mang tính quan liêu, chậm chạp, hiệu quả hoạt động thấp. Còn Hành
chính tư cũng phải tuân theo một số quy tắc nhưng nó lại mềm dẻo và linh hoạt hơn
rất nhiều và thủ tục thì đơn giản và dễ dàng thực hiện.
(5) Quy mô tổ chức hoạt động: Quy mô của Hành chính công trên nguyên tắc
rất lớn, có thể bao trùm cả xã hội hay một lĩnh vực rộng lớn. Nhưng Hành chính tư
lại có quy mô linh hoạt, tuỳ vào từng tổ chức mà áp dụng quy mô.
Hoạt động của Hành chính công chịu áp lực của xã hội và mọi quyết định
của Hành chính công đều phù hợp và đáp ứng được lợi ích của cộng đồng, đó là sự
đồng hành của Hành chính công với xã hội, nghĩa là mọi quyết định hay hoạt động
của Hành chính công phải tham khảo ý kiến của công chúng, còn Hành chính tư
không cần quan tâm đến điều này
(6) Tài chính hoạt động: hành chính công sử dụng mặt khối lượng lớn về vật
chất và tài chính hoạt động nên sai sót của nó ảnh hưởng lớn đến kinh tế- xã hội.
Tài chính hoạt động từ ngân sách Nhà nước. Hành chính tư sử dụng khối lượng nhỏ
tài chính vật chất sai sót ảnh hưởng ở phạm vi nhỏ, tài chính hoạt động tự có.
(7) Chủ thể và khách thể của Hành chính công và Hành chính tư khác nhau.
Chủ thể của Hành chính công là các cơ quan nhà nước, các cá nhân được uỷ quyền
và các chủ thể này có những đặc điểm là mang tính quyền lực Nhà nước, hoạt động
rộng khắp trên các mặt của đời sống xã hội, quản lý thông qua các quyết định hành
chính và hành vi hành chính. Còn hành chính tư chủ thể của có thể là cá nhân hay tổ
chức đứng ra thành lập tổ chức đó, chủ thể này chỉ có quyền lực tổ chức, chỉ có
11
quyền quản lý trong phạm vi tổ chức, họ có thể quản lý tổ chức bằng nhiều biện
pháp và hình thức mà pháp luật cho phép.
(8) Yêu cầu đối với đội ngũ những người tham gia hoạt động: Kỹ năng cần
có đối với nhà hành chính lớn hơn rất nhiều so với nhà điều hành doanh nghiệp [7,
tr 25-33].
1.1.2. Quan niệm về dịch vụ hành chính công
1.1.2.1. Dịch vụ công
Dịch vụ công (từ tiếng Anh là “public service”) có quan hệ chặt chẽ với phạp
trù hàng hóa công cộng. Theo ý nghĩa kinh tế học, hàng hóa công cộng có một số
đặc tính cơ bản như: 1. Là loại hàng hóa mà khi đã được tạo ra thì khó có thể loại
trừ ai ra khỏi việc sử dụng nó; 2.Việc tiêu dùng của người này không làm giảm
lượng tiêu dùng của người khác; 3.Và không thể vứt bỏ được, tức là ngay khi không
được tiêu dùng thì hàng hóa công cộng vẫn tồn tại. Nói một cách giản đơn, thì
những hàng hóa nào thỏa mãn cả ba đặc tính trên được gọi là hàng hóa công cộng
thuần túy, và những hàng hóa nào không thỏa mãn cả ba đặc tính trên được gọi là
hàng hóa công cộng không thuần túy.
Từ giác độ chủ thể quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu hành chính cho
rằng dịch vụ công là những hoạt động của cơ quan nhà nước trong việc thực thi
chức năng quản lý hành chính nhà nước và đảm bảo cung ứng các hàng hóa công
cộng phục vụ nhu cầu chung, thiết yếu của xã hội. Cách hiểu này nhấn mạnh vai trò
và trách nhiệm của nhà nước đối với những hoạt động cung cấp hàng hóa công cộng
cho rằng đặc trưng chủ yếu của dịch vụ công là hoạt động đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của xã hội và cộng đồng, còn việc tiến hành hoạt động ấy có thể do nhà nước hoặc
tư nhân đảm nhiệm.
Khái niệm và phạm vi dịch vụ công sẽ biến đổi tùy thuộc vào bối cảnh của
mỗi quốc gia. Chẳng hạn, ở Canada, có tới 34 loại hoạt động được coi là dịch vụ
công, từ quốc phòng, an ninh, pháp chế, đến các chính sách kinh tế - xã hội (tạo
việc làm, quy hoạch, bảo vệ môi trường, và các hoạt động y tế, giáo dục, văn hóa,
bảo hiểm xã hội,…). Trong đó, Pháp và Italia đều quan niệm dịch vụ công là những
12
hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân do các cơ quan nhà nước đảm
nhiệm hoặc do các tổ chức cá nhân thực hiện theo những tiêu chuẩn, quy định của
nhà nước. Ở Pháp, khái niệm dịch vụ công được hiểu rộng, bao gồm các hoạt động
phục vụ nhu cầu về tinh thần và sức khỏe của người dân (như giáo dục, văn hóa, y
tế, thể thao… thường được gọi là hoạt động sự nghiệp), các hoạt động phục vụ đời
sống dân cư mang tính công nghiệp (điện, nước, giao thông công cộng, vệ sinh môi
trường… thường được coi là hoạt động công ích), hay các dịch vụ hành chính công
bao gồm các hoạt động của cơ quan hành chính về cấp phép, hộ khẩu, hộ tịch… mà
cả hoạt động thuyế vụ, trật tự, an ninh, quốc phòng…; còn ở Italia dịch vụ công
được giới hạn chủ yếu ở hoạt động sự nghiệp (y tế, giáo dục) và hoạt động kinh tế
công ích (điện, nước sạch, vệ sinh môi trường) và các hoạt động cấp phép, hộ khẩu,
hộ tịch do cơ quan hành chính thực hiện.
Ở Việt Nam, tập trung nhiều hơn vào chức năng phục vụ xã hội của nhà
nước, mà không bao gồm các chức năng công quyền, như lập pháp, hành pháp, tư
pháp, ngoại giao,… qua đó nhấn mạnh vai trò chủ thể của nhà nước trong việc cung
cấp các dịch vụ cho cộng đồng. Điều quan trọng là chúng ta phải sớm tách hoạt
động dịch vụ công (lâu nay gọi là hoạt động sự nghiệp) ra khỏi hoạt động hành
chính công quyền như chủ trương của Chính phủ đã đề ra nhằm xóa bỏ cơ chế bao
cấp, giảm tải cho bộ máy nhà nước, khai thác mọi nguồn lực tiềm tàng trong xã hội,
và nâng cao chất lượng của dịch vụ công phục vụ người dân. Điều 22 của Luật Tổ
chức chính phủ (2001) quy định: “Bộ, cơ quan ngang Bộ là cơ quan của Chính phủ
thực hiện chức năng quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực,…”.
Điều này không có nghĩa là nhà nước độc quyền cung cấp các dịch vụ công mà trái
lại nhà nước hoàn toàn có thể xã hội hóa một số dịch vụ, qua đó trao một phần việc
cung ứng một phần của một số dịch vụ, như ý tế, giáo dục, cấp thoát nước,… cho
khu vực phi nhà nước thực hiện.
Có thể thấy rằng khái niệm và phạm vi các dịch vụ công cho dù được tiếp
cận ở nhiều góc độ khác nhau, chúng đều có tính chất chung là nhằm phục vụ cho
nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu của xã hội. Ngay cả khi nhà nước chuyển giao
13
một phần việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân thì nhà nước vẫn có vai
trò điều tiết nhằm đảm bảo sự công bằng trong phân phối các dịch vụ này và khắc
phục các bất cập của thị trường.
Từ những tính chất trên đây, “dịch vụ công” được hiểu theo nghĩa rộng và
nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, dịch vụ công là những hàng hoá, dịch vụ mà Chính phủ can
thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng. Theo đó, dịch vụ
công là tất cả những hoạt động nhằm thực hiện các chức năng vốn có của Chính
phủ, bao gồm từ các hoạt động bah hành chính sách, pháp luật, toà án… cho đến
những hoạt động y tế, giáo dục, giao thông công cộng.
Theo nghĩa hẹp, dịch vụ công được hiểu là những hàng hoá, dịch vụ phục vụ
trực tiếp nhu cầu của các tổ chức và công dân mà Chính phủ can thiệp vào việc
cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng.
* Đặc trưng cơ bản của dịch vụ công
- Thứ nhất, đó là những hoạt động phục vụ cho lợi ích chung thiết yếu, các
quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân
- Thứ hai, do Nhà nước chịu trách nhiệm trước xã hội (trực tiếp cung ứng
hoặc uỷ nhiệm việc cung ứng). Ngay cả khi Nhà nước chuyển giao dịch vụ này cho
tư nhân cung ứng thì Nhà nước vẫn có vai trò điều tiết đặc biệt nhằm đảm bảo sự
công bằng trong phân phối các dịch vụ này, khắc phục các điểm khuyết của thị
trường.
- Thứ ba, là các hoạt động có tính chất phục vụ trực tiếp, đáp ứng nhu cầu,
quyền lợi hay nghĩa vụ cụ thể và trực tiếp của các tổ chức và công dân.
- Thứ tư, mục tiêu nhằm bảo đảm tính công bằng và tính hiệu quả trong cung
ứng dịch vụ.
* Các loại dịch vụ công
Dịch vụ công có thể phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, xét theo tiêu chí
chủ thể cung ứng, dịch vụ công được chia thành 3 loại, như sau:
14
Dịch vụ công do cơ quan nhà nước trực tiếp cung cấp: Đó là những dịch vụ
công cộng cơ bản do các cơ quan của nhà nước cung cấp. Thí dụ, an ninh, giáo dục,
phổ thông, chăm sóc y tế công cộng, bảo trợ xã hội…
Dịch vụ công do các tổ chức phi chính phủ và khu vực tư nhân cung cấp,
gồm những dịch vụ mà Nhà nước có trách nhiệm cung cấp, nhưng không trực tiếp
thực hiện mà ủy nhiệm cho tổ chức phi chính phủ và tư nhân thực hiện, dưới sự đôn
đốc, giám sát của nhà nước. Thí dụ các công trình công cộng do chính phủ gọi thầu
có thể do các công ty tư nhân đấu thầu xây dựng.
- Dịch vụ công do tổ chức nhà nước, tổ chức phi chính phủ, tổ chức tư nhân
phối hợp thực hiện. Loại hình cung ứng dịch vụ này ngày càng trở nên phổ biến ở
nhiều nước. Như ở Trung Quốc, việc thiết lập hệ thống bảo vệ trật tự phối hợp thực
hiện.
Dựa vào tính chất và tác dụng của dịch vụ được cung ứng, có thể chia dịch
vụ công thành các loại sau:
- Dịch vụ hành chính công: Đây là loại dịch vụ gắn liền với chức năng quản
lý nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân, Do vậy, cho đến nay, đối tượng
cung ứng duy nhất các dịch vụ công này là cơ quan công quyền hay các cơ quan do
nhà nước thành lập được ủy quyền thực hiện cung ứng dịch vụ hay dịch vụ công.
Đây là một phần trong chức năng quản lý nhà nước, Để thực hiện chức năng này,
nhà nước phải tiến hành những hoạt động phục vụ trực tiếp như cấp giấy phép, giấy
chứng nhận, đăng ký, công chứng, thị thực, hộ tịch,…(Ở một số nước, dịch vụ hành
chính công được coi là một loại hoạt động riêng, không nằm trong phạm vi dịch vụ
công. Ở nước ta, một số nhà nghiên cứu cũng có quan điểm như vậy). Người dân
được hưởng những dịch vụ này không theo quan hệ cung cầu, ngang giá trên thị
trường, mà thông qua việc đóng lệ phí hoặc phí cho cơ quan hành chính nhà nước.
Phần lệ phí này mang tính chất hỗ trợ cho ngân sách nhà nước.
- Dịch vụ sự nghiệp công: Bao gồm các hoạt động cung cấp phúc lợi xã hội
thiết yếu cho người dân như giáo dục, văn hóa, khoa học, chăm sóc sức khỏe, thể
dục thể thao, bảo hiểm, an sinh xã hội,… Xu hướng chung hiện nay trên thế giới là
15
- Xem thêm -