Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ “tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; hình sự hóa, phi hình sự hóa những hành vi xâm ...

Tài liệu “tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; hình sự hóa, phi hình sự hóa những hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế tại việt nam trong giai đoạn hiện nay [tt]

.PDF
24
669
110

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng pháp luật hình sự (PLHS) là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với bất kỳ Nhà nước nào bởi chính sự tồn tại, phát triển của hệ thống những quan hệ xã hội trong lĩnh vực này có ý nghĩa góp phần quyết định đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế đất nước. Tội phạm trong lĩnh vực kinh tế nói chung, tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (XPTTQLKT) nói riêng đã và đang diễn biến hết sức phức tạp ở nước ta trong những năm gần đây. Báo cáo tổng kết hằng năm của Cơ quan Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án đều nhận định số lượng các vụ án cũng như bị can, bị cáo về các tội XPTTQLKT không tăng đột biến nhưng phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Tội phạm xảy ra phổ biến, nghiêm trọng trên các lĩnh vực, các ngành, nhất là những ngành và lĩnh vực kinh tế trọng điểm. Thực tế đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến trật tự quản lý kinh tế của đất nước, là rào cản tới sự ổn định, phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Trong những năm qua PLHS đã liên tục được nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp với chính sách hình sự của Nhà nước ta qua mỗi thời kỳ. Chính sách hình sự là quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó biện pháp PLHS là cốt lõi nhằm đảm bảo an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Hoàn thiện chính sách hình sự nói chung, chính sách PLHS nói riêng là quá trình diễn ra song song hai xu hướng tội phạm hoá (TPH), hình sự hoá (HSH), và phi tội phạm hoá (PTPH), 2 phi hình sự hoá (PHSH). Vì vậy, TPH, HSH, và PTPH, PHSH hành vi XPTTQLKT là những biện pháp thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước với nội dung thể hiện quan điểm thu hẹp hay mở rộng phạm vi xử lý hình sự thông qua hoạt động lập pháp. Giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm kinh tế đang tiếp tục có nhiều biến động phức tạp do những thay đổi về điều kiện khách quan của kinh tế - xã hội. Thực tiễn cho thấy trong quá trình phát triển kinh tế, lợi dụng chính sách khuyến khích sự năng động, sáng tạo của các chủ thể tham gia các quan hệ kinh tế nên xuất hiện một số hành vi vi phạm pháp luật, thể hiện tính nguy hiểm rất lớn cho xã hội, có nơi, có lúc diễn biến nghiêm trọng nhưng chưa được quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS) là tội phạm. Ngược lại, cũng từ hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng cho thấy, một số hành vi không còn mang tính nguy hiểm cho xã hội đến mức đáng kể, không còn phù hợp trong điều kiện hội nhập kinh tế ngày càng sâu, rộng, thể hiện nhiều năm qua rất ít xảy ra, thậm chí chúng ta không xử lý về hình sự nên cần được nghiên cứu để PTPH. Hệ thống hình phạt quy định trong các tội XPTTQLKT nói chung đã nghiêm khắc và đáp ứng được mục đích trừng trị, giáo dục người phạm tội. Tuy nhiên quy định về hình phạt trong một số tội phạm cụ thể còn mâu thuẫn với phần chung. Mức chế tài quy định trong một số điều luật còn thể hiện sự bất hợp lý khi so sánh trong mối tương quan chung, chưa tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước, đặc biệt kể từ sau sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới đã mở ra cho chúng ta những thời cơ, thuận lợi để phát triển. Tuy nhiên, thách thức, khó khăn và những hệ quả tiêu cực kéo theo là không 3 nhỏ. Dự báo tình hình tội phạm nói chung, tội phạm XPTTQLKT nói riêng trong thời gian tới còn phức tạp, phương thức thủ đoạn ngày càng tinh vi và gây khó khăn hơn trong điều tra, xử lý tội phạm. Giai đoạn hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang tiếp tục công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra một trong những phương hướng quan trọng, đó là hoàn thiện chính sách PLHS phù hợp với nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN. Trên cơ sở những định hướng lớn của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế và đấu tranh phòng chống tội phạm, nghiên cứu quy định trong BLHS hiện hành về các tội XPTTQLKT chúng tôi thấy còn những khoảng trống, bất cập về lý luận. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; hình sự hóa, phi hình sự hóa những hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” làm luận án Tiến sĩ. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chính sách hình sự, trong đó có vấn đề TPH, PTPH; HSH, PHSH là nội dung được nhiều nhà nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước đề cập. Tội phạm kinh tế nói chung, tội phạm XPTTQLKT nói riêng luôn là mang tính thời sự xuất phát từ tính “động” của nền kinh tế. Vì vậy, những công trình nghiên cứu về chính sách hình sự, về tội phạm kinh tế khá nhiều, có thể ở góc độ luật hình sự (LHS) hoặc tội phạm học. Tác giả sắp xếp theo từng nhóm công trình có liên quan đến luận án như sau: - Thứ nhất, các công trình nghiên cứu dưới dạng tài liệu chuyên khảo, tham khảo, giáo trình, bình luận khoa học. Đây là những tài liệu mang tính chất phổ biến cung cấp những tri thức lý 4 luận cơ bản nhất liên quan đến đề tài tác giả nghiên cứu. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như: Một số công trình của các nhà nghiên cứu Xô Viết trước đây như: “Luật Hình sự và Xã hội học”, NXB Sách pháp lý, Matxcơva năm 1970 của tác giả Ghersengiôn A.A; “Tội phạm học và chính sách hình sự”, NXB Trường Đại học Tổng hợp Xvertlôv năm 1980 của Kôvalev M.I và Vôrônhin Iu.A... Những năm gần đây, vấn đề này tiếp tục được nghiên cứu ở các góc độ khác nhau. Chẳng hạn như công trình: “Luật Hình sự Nga. Phần Chung” Matxcơva, năm 2005 do tác giả L.L. Kruglikov làm chủ biên; “Nhiệm vụ của chính sách hình sự. Tội phạm - hiện tượng xã hội tiêu cực” Matxcơva, Nxb Infra - M, 2008 của Franz Von Listz; “Luật hình sự liên bang nga. Tập bài giảng. Hai tập, Tập 1, Phần Chung”, Máxcơva, 2004 của tác giả Nau-mốp A.V; “Căn cứ của biện pháp cấm mang tính chất pháp lí hình sự: Tội phạm hoá và phi tội phạm hoá” của tác giả A.M. Iakôvlép; “Xu hướng chính sách hình sự của Nga thời kì hậu Xô Viết”, Tóm tắt luận án tiến sỹ luật học. Cheliabinsk, 2005 của tác giả Nhe-đốt-kô IU.V; “Quan niệm về mô hình hoá pháp luật hình sự trong lĩnh vực kinh tế” của Trung tâm nghiên cứu kinh tế và pháp luật, (trên cơ sở Uỷ thác của Tổng thống Liên bang Nga, Uỷ thác số 3169 ngày 28.11.2009)... Đây là những công trình nghiên cứu lý luận về chính sách hình sự, về vấn đề TPH, PTPH; HSH, PHSH trong lĩnh vực kinh tế của các nhà nghiên cứu nước ngoài làm cơ sở để tác giả tiếp cận, kế thừa trong luận án. Một số công trình tiêu biểu của các nhà nghiên cứu trong nước như: Sách chuyên khảo: “Tội phạm học, Luật Hình sự và Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật do TS Đào Trí Úc chủ biên, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 5 năm 1995; Sách chuyên khảo: “Một số vấn đề cơ bản về chính sách hình sự dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội IX của Đảng” của PGS.TS Hồ Trọng Ngũ, NXB Chính trị Quốc gia, năm 2002; Sách chuyên khảo: “Tội phạm kinh tế thời mở cửa” do PGS.TS Nguyễn Xuân Yêm, PGS.TS Nguyễn Hòa Bình làm chủ biên, NXB Công an nhân dân, năm 2003; Sách chuyên khảo Sau đại học: “Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật Hình sự” của PGS.TSKH Lê Văn Cảm, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005; Sách chuyên khảo: “Chính sách hình sự trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam” do TS. Phạm Văn Lợi chủ biên, NXB Tư Pháp, năm 2007... Ngoài ra, các tài liệu liên quan đến luận án còn là hệ thống giáo trình, bình luận khoa học Bộ luật hình sự, các số chuyên đề như: Giáo trình LHS Việt Nam năm 2010 của Trường Đại học Luật Hà Nội; Giáo trình LHS Việt Nam năm 2003 của Trung tâm đào tạo từ xa Trường Đại học Huế; Giáo trình LHS Việt Nam của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Sách “Bình luận khoa học BLHS Việt Nam năm 1999” của Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, năm 2008 do tập thể tác giả biên soạn... Tất cả các công trình trên đều có những chương, phần nghiên cứu lý luận về chính sách hình sự, về vấn đề TPH, PTPH; HSH, PHSH hoặc nghiên cứu về các tội XPTTQLKT trên cơ sở phân tích dấu hiệu pháp lý đặc trưng, yếu tố cấu thành cụ thể cụ thể. - Thứ hai, là các công trình nghiên cứu thể hiện qua các luận án tiến sĩ. Một số công trình tiêu biểu liên quan đến đề tài như: Luận án Tiến sĩ của tác giả Bùi Minh Thanh: “Vi phạm pháp luật và đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay” (năm 2003); Luận án Tiến sĩ của tác giả Mai Thế Bày: “Đấu tranh phòng chống các tội XPTTQLKT” (năm 2006); Luận án 6 tiến sĩ của tác giả Nguyễn Văn Nam: “TNHS đối với các tội XPTTQLKT trong LHS Việt Nam” (năm 2007)... Những công trình này nghiên cứu về chính sách hình sự nói chung hoặc nghiên cứu các tội XPTTQLKT chủ yếu dưới góc độ tội phạm học. - Thứ ba, các công trình nghiên cứu thể hiện qua những bài viết trên các Tạp chí chuyên ngành, Hội nghị, Hội thảo, các số chuyên đề. Đây là nguồn tài liệu phong phú nhất. Những công trình nghiên cứu này chủ yếu được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành luật có uy tín như Tạp chí Tòa án, Tạp chí Luật học, Tạp chí Khoa học pháp lý, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí Dân chủ pháp luật, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Công an nhân dân...Nhìn chung đây là những công trình nghiên cứu tội phạm cụ thể hoặc nghiên cứu về TNHS, hình phạt đối với các tội XPTTQLKT. Như vậy, hiện nay các công trình khoa học nghiên cứu về chính sách hình sự nói chung, về các tội XPTTQLKT ở các góc độ khác nhau khá nhiều. Tuy nhiên, quá trình thu thập, sưu tầm, nghiên cứu tài liệu để hoàn thiện đề tài, tác giả nhận thấy hiện nay ở Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề TPH, PTPH; HSH, PHSH những hành vi XPTTQLKT. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở nhận thức về chính sách hình sự, luận án làm rõ lý luận cơ bản về TPH, PTPH; HSH, PHSH, phân tích thực trạng TPH, PTPH; HSH, PHSH hành vi XPTTQLKT, từ đó đề xuất phương hướng TPH, PTPH; HSH, PHSH hành vi XPTTQLKT, góp phần hoàn thiện quy định của BLHS hiện hành. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 7 Để đạt được mục tiêu trên, đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản sau: - Lý luận cơ bản về chính sách hình sự, trong đó tập trung nghiên cứu vấn đề TPH, PTPH; HSH, PHSH. - Thực trạng TPH, PTPH; HSH, PHSH những hành vi XPTTQLKT trong PLHS Việt Nam, trong đó tập trung nghiên cứu nội dung này trong BLHS hiện hành. - Kết quả TPH, PTPH; HSH, PHSH hành vi XPTTQLKT thể hiện trong thực tiễn áp dụng PLHS thời gian qua. - Những vướng mắc, bất cập trong quy định và áp dụng pháp luật hình sự đối với hành vi XPTTQLKT. - Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế trong điều kiện hội nhập quốc tế và yêu cầu, phương hướng TPH, PTPH; HSH, PHSH hành vi XPTTQLKT thời gian tới góp phần hoàn thiện PLHS. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu lý luận và thực tiễn TPH, PTPH; HSH, PHSH những hành vi XPTTQLKT trong PLHS Việt Nam. 4.2 Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Dưới góc độ chuyên ngành Luật hình sự, đề tài nghiên cứu lý luận về TPH, PTPH; HSH, PHSH; thực trạng TPH, PTPH; HSH, PHSH hành vi XPTTQLKT qua các giai đoạn lập pháp hình sự và kết quả hoạt động này trong áp dụng PLHS; quan điểm, phương hướng TPH, PTPH; HSH, PHSH những hành vi XPTTQLKT trong thời gian tới. - Về thời gian: Thời gian khảo sát thực tiễn của đề tài là từ năm 2000 đến năm 2010. 8 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong Chính sách hình sự về đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm kinh tế nói riêng qua các thời kỳ phát triển khác nhau của đất nước. Trên cơ sở các tài liệu tham khảo, số liệu về các tội XPTTQLKT của Cơ quan Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án cung cấp, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê, so sánh, khảo sát thực tiễn… 6. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của luận án - Đây là luận án Tiến sĩ đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện và chuyên sâu về vấn đề TPH, PTPH; HSH, PHSH những hành vi XPTTQLKT trong khoa học Luật hình sự Việt Nam. Cụ thể là: + Trên cơ sở nhận thức về chính sách hình sự, luận án phân tích nội dung TPH, PTPH; HSH, PHSH trong mối liên hệ với chính sách hình sự và khẳng định đây là những biện pháp đầu tiên có ý nghĩa quyết định các biện pháp khác để thực hiện chính sách hình sự, là sự thể hiện chính sách hình sự thông qua con đường lập pháp. + Luận án phân tích, làm rõ được thực trạng TPH, PTPH; HSH, PHSH hành vi XPTTQLKT thể hiện qua lịch sử lập pháp đối với các tội phạm kinh tế trong PLHS Việt Nam (từ BLHS 1985 trở về trước), tội phạm XPTTQLKT (từ BLHS 1999 đến nay). + Luận án phân tích kết quả của TPH, PTPH; HSH, PHSH thông qua việc đánh giá thực tiễn áp dụng PLHS đối với hành vi XPTTQLKT trong thời gian từ năm 2000 đến năm 2010, chỉ ra 9 những bất cập trong lập pháp, trong áp dụng pháp luật khi xác định hành vi phạm tội cũng như hệ thống chế tài đối với những hành vi này. + Trên nền tảng chính sách phát triển kinh tế và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm XPTTQLKT trong giai đoạn mới của Đảng và Nhà nước ta, luận án xác định cơ sở, yêu cầu và phương hướng TPH, PTPH; HSH, PHSH hành vi XPTTQLKT nhằm hoàn thiện PLHS về các tội XPTTQLKT. - Với những đóng góp mới về mặt khoa học như trên, luận án có ý nghĩa nhất định trong nghiên cứu lý luận cũng như hoạt động thực tiễn. Về lý luận, kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu chuyên sâu, tài liệu tham khảo về các tội XPTTQLKT trong LHS Việt Nam. Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án với những phân tích, nhận định đưa ra có thể giúp các nhà lập pháp tham khảo trong quá trình hoàn thiện PLHS nói chung, hoàn thiện các tội XPTTQLKT nói riêng. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm 3 chương: Chương 1. Lý luận cơ bản về tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; hình sự hóa, phi hình sự hóa hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Chương 2. Thực trạng tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; hình sự hóa, phi hình sự hóa hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Chương 3. Quan điểm và phương hướng tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; hình sự hóa, phi hình sự hóa hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. 10 CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỘI PHẠM HÓA, PHI TỘI PHẠM HÓA; HÌNH SỰ HÓA, PHI HÌNH SỰ HÓA HÀNH VI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ Trong chương 1, trên cơ sở nhận thức về chính sách hình sự, tác giả tập trung làm rõ nội dung của TPH, PTPH; HSH, PHSH với tư cách là biện pháp để thực hiện chính sách hình sự; những yếu tố quyết định phạm vi, mức độ TPH, PTPH; HSH, PHSH và khái quát về tội phạm XPTTQLKT trong chính sách hình sự. 1.1 Tội phạm hoá, phi tội phạm hoá; hình sự hoá, phi hình sự hoá - những biện pháp để thực hiện chính sách hình sự Trên cơ sở nghiên cứu một số quan điểm của các nhà khoa học trong và ngoài nước về chính sách hình sự, tác giả cho rằng, nếu tiếp cận theo nghĩa rộng thì chính sách hình sự là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng chiến lược, tổng thể về tội phạm của Đảng và Nhà nước ta đảm bảo cho cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm có hiệu quả trên mọi phương diện và được ghi nhận trong các văn bản của Đảng, pháp luật của Nhà nước; còn theo nghĩa hẹp chính sách hình sự là chính sách PLHS, là quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta về tội phạm và hình phạt, thể hiện trong quá trình xây dựng, áp dụng PLHS và nâng cao ý thức trình độ luật pháp của nhân dân. Nội dung cốt lõi của chính sách hình sự là chính sách đấu tranh phòng, chống tội phạm bằng PLHS. Vì vậy, chính sách hình sự được thể hiện ở hai phương diện cơ bản là: chính sách về tội phạm, hình phạt và chính sách về tổ chức đấu tranh phòng chống tội phạm. Hai nội dung này của chính sách hình sự có mối quan hệ gắn bó trong một thể thống nhất, biện chứng, là tiền đề của nhau. Những nội dung này của chính sách hình sự được thực hiện qua ba hình thức cơ bản là: lập pháp 11 hình sự, thi hành áp dụng pháp luật hình sự và nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân. Chính sách về tội phạm và hình phạt chỉ có thể được cụ thể hoá, pháp luật hoá trong lập pháp hình sự bằng quá trình TPH, PTPH; HSH, PHSH. Tội phạm hoá hay phi tội phạm hoá một hành vi nào đó là quá trình xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức như thế nào cần phải xử lý bằng PLHS. TPH, PTPH và HSH, PHSH là những quá trình độc lập nhau của một chính sách hình sự thống nhất. TPH và HSH, cả hai việc làm đó đều có nghĩa là mở rộng phạm vi tác động của PLHS. Ngược lại PTPH, PHSH là thu hẹp phạm vi tác động của PLHS. Từ nghiên cứu về nội dung TPH, PTPH; HSH, PHSH trong lập pháp luận án phân biệt với cái gọi là “HSH”, “PHSH” trong thực tiễn áp dụng pháp luật. 1.2 Những yếu tố quyết định phạm vi và mức độ tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; hình sự hóa, phi hình sự hóa Để xác định một hành vi nào đó là tội phạm hay không phải là tội phạm, làm cơ sở cho việc TPH, PTPH; HSH, PHSH nhà lập pháp hình sự bao giờ cũng phải dựa vào những yếu tố nhất định. Tác giả phân tích một số yếu tố có vai trò quyết định phạm vi và mức độ TPH, PTPH; HSH, PHSH đó là: tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi; tình hình vi phạm pháp luật; các điều kiện kinh tế xã hội, quan niệm về đạo đức, ý thức pháp luật của nhân dân; sự phù hợp với các quy định của hệ thống pháp luật trong nước cũng như luật pháp quốc tế; khả năng chứng minh tội phạm trong tố tụng hình sự. 1.3 Khái quát về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong chính sách hình sự Chính sách hình sự là phạm trù thuộc kiến trúc thượng tầng, được quyết định bởi điều kiện kinh tế do hạ tầng cơ sở quyết định. 12 Chính sách về tội phạm XPTTQLKT là quan điểm của Nhà nước trong việc xem xét, đánh giá chủ quan dưới góc độ pháp luật các hành vi nguy hiểm XPTTQLKT xảy ra một cách khách quan trong xã hội. Hành vi XPTTQLKT luôn luôn được xác định, đánh giá từ góc độ bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của nhân dân, của việc tăng cường và phát triển các quan hệ xã hội mới, tiến bộ, nhất là trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập. Trong khoa học LHS Việt Nam, tội phạm kinh tế được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG TỘI PHẠM HÓA, PHI TỘI PHẠM HÓA; HÌNH SỰ HÓA, PHI HÌNH SỰ HÓA HÀNH VI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ Trên cơ sở lý luận cơ bản tại chương 1, trong chương 2 tác giả phân tích, đánh giá thực trạng TPH, PTPH và HSH, PHSH hành vi XPTTQLKT qua quá trình lập pháp và kết quả áp dụng PLHS trong thời gian từ năm 2000 đến năm 2010. 2.1 Tội phạm và hình phạt đối với hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lập pháp hình sự Tác giả phân tích quy định về tội phạm và hình phạt đối với tội XPTTQLKT theo các giai đoạn gắn liền với các mốc lịch sử lập pháp đó là: 2.1.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa BLHS lần thứ nhất (năm 1985) 2.1.2 Giai đoạn từ năm 1985 đến năm 1999 2.1.3 Giai đoạn từ năm 1999 đến nay Qua các giai đoạn lập pháp cho thấy sự thay đổi trong chính sách hình sự dẫn tới quy định về tội phạm và hình phạt đối với các 13 tội XPTTQLKT luôn được sửa đổi, bổ sung. Đặc biệt tác giả phân tích sâu những nội dung được TPH, PTPH và HSH, PHSH thể hiện trong BLHS năm 1999 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS năm 2009. Qua đó tác giả khẳng định quy định hiện hành về các tội XPTTQLKT đã thể hiện rõ chính sách về tội phạm và hình phạt của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Các quy định của PLHS thể hiện rõ nét đặc trưng, đặc thù của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển trong cơ chế thị trường định hướng XHCN. Quá trình sửa đổi, hoàn thiện các tội XPTTQLKT là quá trình có tính chất giao thoa, đan xen giữa hai chiều hướng: vừa TPH, PTPH và HSH, PHSH để đi đến một mục tiêu cơ bản là đảm bảo sự phù hợp, tương thích giữa quy định của LHS với điều kiện phát triển tương ứng của đời sống xã hội, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, phòng ngừa và chống lại những hành vi XPTTQLKT. 2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế Để tiến hành TPH, PTPH; HSH, PHSH có căn cứ và cơ sở khoa học nhằm góp phần hoàn thiện chính sách hình sự về các tội XPTTQLKT, tác giả cho rằng cần tổng kết, xem xét, nghiên cứu những vấn đề thực tiễn đặt ra để điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện lý luận bởi lẽ thực tiễn là công cụ kiểm nghiệm chính xác nhất, là sự phản hồi hiệu quả của lý luận. Vì vậy, đề tài phân tích kết quả TPH, PTPH; HSH, PHSH hành vi XPTTQLKT thời gian qua trên cơ sở tình hình tội phạm và thực tế khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; đối chiếu với những quy định của PLHS hiện hành để chỉ ra những vướng mắc, bất cập cần được giải quyết. 2.2.1 Khái quát tình hình tội phạm xâm phạm trật tự quản lý 14 kinh tế Trên cơ sở phân tích cơ cấu, diễn biến, tính chất của tội phạm XPTTQLKT trong 10 năm qua cho thấy, trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tội phạm XPTTQLKT không có sự biến động lớn về số vụ cũng như số bị can, bị cáo. Tuy nhiên, tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm thể hiện ngày càng cao, với phương thức thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, hiện đại. Một số hành vi tội phạm xảy ra tương đối phổ biến, dư luận xã hội lên án nhiều, song kết quả khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử lại chiếm một tỷ lệ thấp, thậm chí có những tội phạm trong nhiều năm liên tục không vụ án nào bị đưa ra xét xử. Một số tội phạm có chiều hướng ngày càng gia tăng song kết quả xử lý phản ánh chưa thật sự phù hợp với diễn biến của tình hình tội phạm đã xảy ra... Thực tế này là kết quả của rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, trong đó theo chúng tôi không thể không nói tới nguyên nhân lập pháp. Rõ ràng những quy định PLHS hiện hành đã và đang tác động, ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình trên. 2.2.2 Những vướng mắc, bất cập về lý luận và thực tiễn áp dụng quy định hiện hành đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế Trên cơ sở phân tích lý luận và kết quả áp dụng trong thực tiễn, luận án phân tích, chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong quy định về các tội XPTTQLKT đó là: 2.2.2.1 Quy định về chủ thể của tội phạm nói chung, các tội XPTTQLKT nói riêng chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Cũng như chủ thể của tội phạm nói chung, theo qui định của LHS Việt Nam hiện hành, chủ thể của các tội 15 XPTTQLKT chỉ có thể là cá nhân chứ không thể là pháp nhân. Trong khi trên thực tế những năm gần đây, do tác động của KTTT, nhiều vụ án XPTTQLKT diễn ra liên quan chặt chẽ với pháp nhân, chủ thể dùng tư cách pháp nhân để thực hiện hành vi phạm tội, hành vi phạm tội do cá nhân thực hiện nhưng không phải riêng vì lợi ích cá nhân mà còn vì lợi ích của pháp nhân. Tội phạm được thực hiện trong những trường hợp này có tính chất và mức độ nguy hiểm rất cao, diễn ra ngày càng nhiều, có thể xem là đặc thù của các tội XPTTQLKT ở Việt Nam hiện nay. Song vì PLHS Việt Nam chưa thừa nhận pháp nhân là chủ thể của tội phạm nên không thể xử lý hình sự đối với các pháp nhân liên quan trực tiếp đến tội phạm. Việc xử lý TNHS của từng cá nhân phạm tội chưa thể tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm này trong nền KTTT. 2.2.2.2 Dấu hiệu trong cấu thành của một số tội chưa rõ ràng, chưa phù hợp với pháp luật chuyên ngành cũng như thực tiễn xử lý hiện nay. Cụ thể: Một số đối tượng tác động của tội phạm chưa được luật hóa (Điều 156, 157, 158..); Một số quy định trong CTTP chưa phù hợp với luật chuyên ngành, hoặc không có căn cứ rõ ràng phân biệt với tội phạm khác (Điều 178, 162); quy định về định lượng trong các CTTP thiếu cụ thể hoặc chưa phù hợp với tình hình thực tế (thể hiện trong hầu hết các điều luật có quy định dấu hiệu định lượng); quy định dấu hiệu định khung tăng nặng ở một số tội phạm còn chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu phân hóa TNHS (Khoản 2 Điểm c ở các Điều 169, 170, 171, 173...) 2.2.2.3 Quy định về các tội XPTTQLKT chưa phản ánh một cách đầy đủ những hành vi mới phát sinh có tính nguy hiểm 16 cao cho xã hội. Tác giả cho rằng giai đoạn hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang phát triển, hội nhập ngày càng sâu rộng với kinh tế thế giới. Trong thực tế đã và đang xuất hiện những hành vi mới với bản chất nguy hiểm cho xã hội đặc trưng gắn với một số lĩnh vực kinh tế đặc thù như lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, ngân hàng, viễn thông, thành lập doanh nghiệp... Một số doanh nghiệp “lớn” lợi dụng vị trí độc quyền, sức mạnh tài chính, vị trí thống lĩnh thị trường hạn chế cạnh tranh hoặc cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp khác. Những vấn đề nảy sinh từ việc quản lý vốn, tài sản của Nhà nước đối với những tập đoàn kinh tế lớn… đang đặt ra cho công tác quản lý kinh tế nói chung và những nhà lập pháp hình sự nói riêng cần nghiên cứu để dự liệu TPH những hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội. 2.2.2.4 Quy định cũng như áp dụng hình phạt ở một số tội phạm còn bất cập, chưa tương xứng với tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Cụ thể là: mức hình phạt qui định ở một số tội thể hiện chưa có sự tương xứng cũng như chưa thể hiện rõ nguyên tắc cá thể hóa hình phạt (Điều 153, 154, 155); các hình phạt nhẹ hơn phạt tù tuy đã được mở rộng phạm vi áp dụng hơn so với trước đây, nhưng đa số được qui định là chế tài lựa chọn bên cạnh phạt tù; quy định và áp dụng hình phạt tiền chưa thể hiện được một cách toàn diện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về “tính kinh tế” trong trừng trị các hành vi XPTTQLKT. Với những tồn tại, vướng mắc trong quy định cũng như áp dụng các tội XPTTQLKT đặt vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu để TPH, PTPH; HSH, PHSH, hoàn thiện các quy định của LHS trong bảo vệ trật tự quản lý kinh tế ở Việt Nam thời gian tới. 17 CHƢƠNG 3 QUAN ĐIỂM VÀ PHƢƠNG HƢỚNG TỘI PHẠM HÓA, PHI TỘI PHẠM HÓA; HÌNH SỰ HÓA, PHI HÌNH SỰ HÓA HÀNH VI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ 3.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về phát triển kinh tế trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế Qua phân tích quan điểm về phát triển kinh tế của Đảng từ khi có chủ trương đổi mới, đặc biệt những quan điểm thể hiện trong Đại hội Đảng lần thứ XI vừa qua, luận án khẳng định vấn đề đổi mới, hoàn thiện chính sách hình sự nói chung, nhất là nghiên cứu để xác định phương hướng TPH, PTPH; HSH, PHSH hành vi XPTTQLKT không thể đặt ra ngoài tiến trình đổi mới và hoàn thiện đường lối chính trị tổng thể của Đảng và Nhà nước mà cốt lõi là đường lối phát triển kinh tế. Chủ trương hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong đó có chính sách hình sự được thể hiện tại Nghị quyết số 48NQ/TW ngày 24-5-2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 02-062005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Quan điểm chỉ đạo trong những Nghị quyết trên đã và đang tiếp tục là kim chỉ nam cho mọi hoạt động thực thi chính sách hình sự ở nước ta. Vì vậy quá trình TPH, PTPH; HSH, PHSH hành vi XPTTQLKT phải trên cơ sở và thể hiện được những quan điểm, định hướng quan trọng này. 3.2 Phƣơng hƣớng tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; hình sự hóa, phi hình sự hóa hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế thời gian tới 3.2.1 Dự báo tình hình tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. 18 Qua phân tích những yếu tố tác động về kinh tế, chính trị từ trong và ngoài nước, tác giả dự báo vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế nói chung, tội phạm kinh tế nói riêng tiếp tục diễn ra trên tất cả các ngành, lĩnh vực, khu vực kinh tế nhất là trong các lĩnh vực, ngành kinh tế trọng điểm. 3.2.2 Cơ sở, yêu cầu của tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; hình sự hóa, phi hình sự hóa hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế Trên cơ sở chính trị, pháp lý, thực tiễn, quy định tội phạm XPTTQLKT cần đáp ứng một số yêu cầu cụ thể: Một là, quy định về các hành vi XPTTQLKT phải phù hợp với điều kiện và chính sách kinh tế - xã hội của nước ta giai đoạn hiện nay; Hai là, quy định về các hành vi XPTTQLKT phải phù hợp với hệ thống pháp luật chung, nhất là với pháp luật về quản lý kinh tế của Nhà nước ta hiện nay; Ba là, quy định về các hành vi XPTTQLKT phải phản ánh được tình hình tội phạm, vi phạm trong quản lý kinh tế giai đoạn hiện nay và dự báo được diễn biến của loại tội phạm này trong tương lai; Bốn là, quy định về các hành vi XPTTQLKT phải đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế, nhất là hội nhập kinh tế quốc tế; Năm là, việc quy định tội phạm và hình phạt đối với những hành vi XPTTQLKT phải phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm; Sáu là, đường lối xử lý đối với các tội XPTTQLKT phải được xác định trên cơ sở coi trọng cả mục đích trừng trị và mục đích giáo dục, phòng ngừa tội phạm. 3.2.3 Phương hướng tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; hình sự hóa, phi hình sự hóa hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế Xuất phát từ phạm vi nghiên cứu đề tài dưới góc độ LHS, trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã phân tích ở trên, tác giả đề xuất những nội dung TPH, PTPH; HSH, PHSH sau: 3.2.3.1 Mở rộng phạm vi chủ thể của tội phạm xâm phạm trật 19 tự quản lý kinh tế. Trong giai đoạn hiện nay, chúng tôi cho rằng để đấu tranh phòng chống các hành vi XPTTQLKTcó hiệu quả hơn, thực tế hơn, cần thừa nhận pháp nhân, tổ chức là chủ thể của tội phạm vì những lý do sau: Một là, cơ chế kinh tế thị trường ngày càng phát triển nên càng đòi hỏi sự tham gia bình đẳng của các thành phần kinh tế. Hai là, ở nước ta, nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách được thực hiện nghiêm túc trong điều hành, quản lý đối với các cơ quan, tổ chức. Ba là, việc không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tổ chức, pháp nhân ảnh hưởng rất lớn đến đến hiệu quả của việc xử lý vi phạm pháp luật, đến việc giải quyết việc bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả vật chất cũng như tinh thần do tội phạm gây ra đối với tổ chức, cá nhân. Bốn là, việc không quy định trách nhiệm hình sự của tổ chức, pháp nhân đang tạo ra sự thiếu thống nhất trong hệ thống pháp luật và thiếu công bằng trong xử lý tội phạm cũng như vi phạm pháp luật khác. 3.2.3.2 Sửa đổi một số tội danh để thể hiện chính xác khách thể trực tiếp cũng như khách thể loại của tội phạm trong cơ cấu chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (Liên quan đến các điều 162, 270, 271 của BLHS 1999). 3.2.3.3 Nghiên cứu để quy định là tội phạm một số hành vi vi phạm nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn hiện nay như: Hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về thành lập doanh nghiệp; hành vi dùng thủ đoạn gian dối để ký kết hợp đồng kinh tế mà biết rõ mình không có khả năng thực hiện nghĩa vụ nhằm mục đích chiếm giữ, sử dụng trái phép tiền vốn, tài sản, gây thiệt hại cho đối tác; những vi phạm trong quá trình quản lý nguồn vốn Nhà nước của cơ quan, tổ chức do cá nhân có thẩm quyền hay tập thể trực tiếp quản lý, quyết định; hành vi làm, tàng trữ, vận chuyển, mua bán dụng 20 cụ, nguyên liệu dùng vào việc làm giả tiền hoặc các giấy tờ có giá; hành vi làm, tàng trữ, lưu hành cổ phiếu giả... 3.2.3.4 Phi tội phạm hóa một số hành vi không còn nguy hiểm cho xã hội hoặc còn tính nguy hiểm cho xã hội nhưng không đáng kể, không cần thiết phải xử lý bằng biện pháp hình sự (hành vi quy định tại các điều 160, 164, 165). 3.2.3.5 Sửa đổi, bổ sung một số dấu hiệu trong cấu thành tội phạm cho phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước ta hiện nay (các điều 153, 154, 156, 180, 181..), và kịp thời ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn áp dụng PLHS về các tội XPTTQLKT 3.2.3.6 Sửa đổi chế tài đối với một số tội phạm cho phù hợp tình hình hiện nay. KẾT LUẬN Tội phạm trong lĩnh vực kinh tế nói chung, tội phạm XPTTQLKT nói riêng diễn biến hết sức phức tạp ở nước ta trong những năm gần đây, đã ảnh hưởng không nhỏ đến trật tự quản lý kinh tế của đất nước. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình hình tội phạm về kinh tế nói chung, tội XPTTQLKT nói riêng trong đó có nguyên nhân lập pháp. Về mặt lý luận, trong những năm qua các tội XPTTQLKT đã liên tục được nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện với hai xu hướng TPH, HSH và PTPH, PHSH. Tuy nhiên trước những biến đổi nhanh chóng khi đất nước hội nhập sâu hơn với kinh tế thế giới tình hình tội phạm nói chung, tội phạm XPTTQLKT nói riêng trong thời gian tới còn tiếp tục tăng, phương thức thủ đoạn ngày càng tinh vi. Trên cơ sở những định hướng lớn của Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự, nghiên cứu quy định trong BLHS hiện hành về các tội XPTTQLKT cho thấy còn những khoảng trống, bất cập về lý luận. Tuy nhiên việc nghiên cứu để đưa ra phương hướng TPH, HSH;
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan