Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng của các ngân hàng thương mại việ...

Tài liệu Truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng của các ngân hàng thương mại việt nam

.PDF
28
487
122

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HỌC VIỆN NGÂN HÀNG ----- ----- CHU KHÁNH LÂN TRUYỀN TẢI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUA KÊNH TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG MÃ SỐ: 62.34.02.01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ HÀ NỘI, 2016 CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI HỌC VIỆN NGÂN HÀNG Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. TÔ NGỌC HƯNG Học viện Ngân hàng 2. PGS.TS. ĐÀO VĂN HÙNG Học viện Chính sách và phát triển Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm Luận án cấp Học viện tại Học viện Ngân hàng Vào hồi …… giờ …… ngày …… tháng …… năm 2016 Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Học viện Ngân hàng - Thư viện Quốc gia DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN CỦA TÁC GIẢ ĐƯỢC CÔNG BỐ 1. Chu Khánh Lân, 2012, Nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam và một số gợi ý chính sách, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, Số 4/2012. 2. Chu Khánh Lân, 2012, Bàn về tác động của chính sách tiền tệ tới tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, Số 13/2012. 3. Chu Khánh Lân, 2012, Nghiên cứu thực nghiệm về hàm cầu tiền tại Việt Nam và một số gợi ý chính sách, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, Số 10/2012. 4. Chu Khánh Lân, 2012, Thực trạng truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng tại Việt Nam trong năm 2012, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, Số 12/2012. 5. Lê Thị Tuấn Nghĩa và Chu Khánh Lân, 2012, Giải pháp tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 22/2012. 6. Lê Thị Tuấn Nghĩa và Chu Khánh Lân, 2013, Khung chính sách tiền tệ của Việt Nam năm 2012 và những gợi ý chính sáchTạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng, Số 128 + 129/2013. 7. Chu Khánh Lân, 2013, Nghiên cứu thực nghiệm về truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng tại Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, Số 13/2013. 8. Chu Khánh Lân, 2014, Nhìn lại công tác điều hành chính sách tỷ giá nhằm giảm tình trạng đô la hóa của Ngân hàng Nhà nước giai đoạn 2011 – 2013, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, Số 140+141/2014. 9. Lê Thị Tuấn Nghĩa và Chu Khánh Lân, 2014, Khung chính sách tiền tệ của Việt Nam năm 2013 - Những điểm nhấn, Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng, Số 140 +141/2014. 10. Lê Thị Tuấn Nghĩa và Chu Khánh Lân, 2014, Nghiên cứu tác động của lãi suất tới tỷ giá tại Việt Nam theo mô hình giá cứng Dornbusch, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Số 200/2014. 11. Chu Khánh Lân, 2015, Khung chính sách tiền tệ năm 2014 và những gợi ý chính sách năm 2015, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, Số 152+153/2015. 12. Lê Thị Tuấn Nghĩa và Chu Khánh Lân, 2016, Những kết quả nổi bật trong điều hành chính sách tiền tệ năm 2015, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, Số 164+165/2015. 13. Chu Khánh Lân và Hà Quốc Tuấn, 2016, Nghiên cứu thực nghiệm về truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng tại Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, Số 167/2015. 14. Đỗ Thị Kim Hảo, Chu Khánh Lân, Nguyễn Minh Phương, 2016, Hệ thống ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN, Kỷ yếu hội thảo Phát triển hệ thống ngân hàng hiệu quả và bền vững trên nền tảng sử dụng khoa học – công nghệ, đổi mới và sáng tạo, tháng 5/2016. 15. Chu Khánh Lân và Nguyễn Minh Phương, 2012, Điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn – Thực trạng và giải pháp, Đề tài NCKH cấp Học viện (chủ nhiệm) 16. Lê Thị Tuấn Nghĩa, 2013, Tác động của lãi suất đến tỷ giá – Lý thuyết và thực tế Việt Nam, Đề tài NCKH cấp Ngành (thư ký khoa học). 17. Trương Quốc Cường, 2013, Vấn đề sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam: Thực trạng, hệ lụy và giải pháp, Đề tài NCKH cấp Ngành (thành viên). 18. Tô Ngọc Hưng, 2013, Xử lý nợ xấu trong quá trình tái cấu trúc các ngân hàng thương mại Việt Nam, Đề tài NCKH cấp Ngành (thành viên). 19. Nguyễn Đức Trung, 2013, Giải pháp quản lý thị trường Vàng tại Việt Nam, Đề tài NCKH cấp Ngành (thành viên). 20. Tô Ngọc Hưng, 2013, Truyền dẫn chính sách tiền tệ tới tiêu dùng thông qua giá bất động sản – Thực trạng và một số khuyến nghị chính sách, Đề tài NCKH cấp Học viện (thành viên). 21. Chu Khánh Lân, 2014, Truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng tại Việt Nam và một số khuyến nghị chính sách, Đề tài NCKH cấp Bộ Giáo dục và đào tạo (chủ nhiệm). 22. Nguyễn Thùy Dương, 2014, Đánh giá thực trạng tín dụng thời gian qua. Định hướng và giải pháp điều hành cho giai đoạn từ nay đến năm 2015, Đề tài NCKH cấp Ngành (thành viên). 23. Hà Thị Sáu, 2014, Nghiên cứu cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh chấp nhận rủi ro của các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý chính sách cho Việt Nam, Đề tài NCKH cấp Ngành (thư ký khoa học). 24. Tô Ngọc Hưng, 2016, Giải pháp đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng trong bối cảnh suy giảm kinh tế, Đề tài NCKH phối hợp giữa HVNH và BIDV (thư ký khoa học). 25. Tô Ngọc Hưng, 2016, Giải pháp tín dụng cho người nghèo và chương trình xây dựng nông thôn mới tại Việt Nam, Đề tài NCKH cấp Ngành (thư ký khoa học). 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Khác với quan điểm tiền tệ truyền thống nhấn mạnh vào truyền tải CSTT qua bên nguồn vốn của hệ thống ngân hàng, kênh tín dụng ngân hàng tập trung vào phân tích ảnh hưởng của CSTT tới nền kinh tế thông qua sự biến động của tài sản. Việc dỡ bỏ những giả định không phù hợp với thực tế thị trường tiền tệ - tài chính (không có sự khác biệt trong các quyết định về cấu trúc vốn của người đi vay và cho vay ) và khai thác vấn đề thông tin bất cân xứng giữa người đi vay và cho vay đã dẫn đến sự ra đời của kênh tín dụng. Trong nghiên cứu của mình, Bernanke và Blinder (1992) phát triển lập luận về ảnh hưởng trực tiếp của CSTT lên lãi suất được khuếch đại bởi những thay đổi bên trong phần thưởng nguồn vốn bên ngoài. Độ lớn của phần thưởng nguồn vốn bên ngoài phản ánh sự thiếu hoàn hảo của thị trường tín dụng, vốn dĩ gây ra sự chênh lệch giữa lợi nhuận kỳ vọng của người cho vay và chi phí mà người đi vay phải trả. Một sự thay đổi trong lãi suất do điều hành CSTT của NHTW sẽ kéo theo sự thay đổi của phần thưởng nguồn vốn bên ngoài và tiếp đó, sự thay đổi của phần thưởng nguồn vốn bên ngoài sẽ làm thay đổi chi phí lãi vay, nhu cầu và khả năng cấp tín dụng, rồi hoạt động chi tiêu, đầu tư của nền kinh tế. Hai tác giả đã lý giải tại sao điều hành CSTT lại có tác động đến phần thưởng nguồn vốn bên ngoài trên thị trường tín dụng thông qua hai kênh truyền tải là bảng cân đối tài sản của người đi vay và khả năng cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng. Nghiên cứu khởi đầu này của Bernanke và Blinder (1995) đã mở ra hướng nghiên cứu mới về truyền tải CSTT qua kênh tín dụng và được nhiều nhà nghiên cứu phát triển thêm Cùng với nhiều chính sách kinh tế vĩ mô khác, CSTT thắt chặt trong năm 2011 và nửa đầu năm 2012 nhằm đối phó với sự gia tăng của lạm phát và bất ổn kinh tế vĩ mô đã khiến cho hệ thống ngân hàng NHTM và doanh nghiệp suy yếu đi nhiều. Về phía doanh nghiệp, hàng hóa ứ đọng, dòng vốn tắc nghẽn, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Về phía ngân hàng, căng thẳng thanh khoản, nợ xấu gia tăng, mức sinh lời giảm sút là những biểu hiện yếu kém phổ biến được bộc lộ rõ rệt. Trước tình hình này, Chính phủ đã nỗ lực triển khai nhiều giải pháp nhằm đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng suy thoái. Riêng đối với NHNN Việt Nam, công tác điều hành CSTT đã được thực hiên linh hoạt, chủ động hơn nhằm hạ thấp mặt bằng lãi suất, triển khai 2 nhiều giải pháp hỗ trợ hệ thống NHTM và doanh nghiệp nhằm thúc đẩy tín dụng có hiệu quả đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, những nỗ lực kể trên của ngành ngân hàng chưa mang lại nhiều kết quả tích cực khi mà tín dụng tăng trưởng chậm chạp trong năm 2013 và 2014, thậm chí còn âm trong một vài tháng liên tiếp. Nhu cầu lẫn khả năng và mong muốn cung ứng tín dụng đã bị giảm đi đáng kể khi xuất hiện nhiều yếu tố tác động tiêu cực tới các chủ thể đi vay và cho vay trong thị trường tín dụng. Thực trạng này cho thấy sự bất ổn trong truyền tải CSTT qua kênh tín dụng ngân hàng, vốn dĩ là kênh truyền tải chính những tác động của CSTT đến nền kinh tế tại Việt Nam. Không chỉ tạo ra sự đánh đổi lớn cho nền kinh tế khi phải chuyển từ mục tiêu tăng trưởng sang mục tiêu kiềm chế lạm phát, những yếu kém trong kênh này còn gây ra sự mất ổn định cho hệ thống NHTM. Vì vây, nghiên cứu sinh lựa chọn tiêu đề “Truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam” cho luận án tiến sỹ của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu Tổng hợp và phân tích cơ sở lý luận về truyển tải CSTT, truyển tải CSTT qua kênh tín dụng với hai kênh bảng cân đối tài sản của người đi vay và kênh khả năng cấp tín dụng của ngân hàng. Tổng hợp phương pháp nghiên cứu về truyển tải CSTT qua kênh tín dụng từ các nghiên cứu trong và ngoài nước. Phân tích thực trạng truyền tải CSTT và hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam làm cơ sở để phân tích thực trạng truyển tải CSTT qua kênh tín dụng với hai kênh bảng cân đối tài sản của người đi vay và kênh khả năng cấp tín dụng của ngân hàng. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới truyền tải CSTT qua kênh tín dụng của NHTM Việt Nam. Nghiên cứu định lượng về mức độ, chiều hướng truyền tải CSTT qua kênh tín dụng tại Việt Nam, xem xét mức độ đóng góp của kênh tín dụng vào diễn biến các mục tiêu của CSTT. Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường khả năng truyền tải CSTT qua kênh tín dụng của NHTM Việt Nam trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng chính của luận án là thực trạng truyền tải CSTT qua kênh tín dụng với hai kênh bảng cân đối tài sản của người đi vay và kênh khả năng cấp tín dụng của ngân hàng tại Việt Nam. Thực trạng truyền tải được thể hiện 3 sự biến động của tín dụng (bên tài sản có trên bảng cân đối tài sản của ngân hàng và nguồn vốn vay ngân hàng trên bảng cân đối tài sản của người đi vay là doanh nghiệp). Ngoài ra, đề tài cũng phân tích thực trạng điều hành CSTT của NHNN và hoạt động của hệ thống NHTM. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận án được giới hạn từ năm 2011 tới năm 2015. Đối với nghiên cứu định lượng, giai đoạn nghiên cứu kéo dài từ quý 1 năm 2000 đến quý 4 năm 2015. 4. Phương pháp nghiên cứu Ngoài phương pháp triết học biện chứng và duy vật lịch sử thường được sử dụng trong nghiên cứu khoa học, luận án vận dụng các phương pháp khảo sát, thống kê, so sánh, phân tích - tổng hợp, diễn dịch, quy nạp. Ngoài các sơ đồ, bảng, đồ thị, đề tài sử dụng mô hình kinh tế lượng SVAR để kiểm chứng sự tồn tại và đo lường mức độ khuếch đại CSTT của kênh tín dụng thông qua hàm phản ứng. Thông qua phân rã quá khứ, đề tài đánh giá tác động của tín dụng tới sự biến động của các biến số kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế. Đề tài khai thác các nguồn dữ liệu báo cáo tài chính từ năm 2010 đến năm 2015 của 201 doanh nghiệp niêm yết trong chỉ số VNINDEX; dữ liệu báo cáo tài chính từ năm 2010 đến năm 2014 của 29 NHTM; dữ liệu tiền tệ, ngân hàng từ Thống kê tài chính quốc tế của IMF; dữ liệu kinh tế vĩ mô từ Tổng cục Thống kê; dữ liệu khảo sát 306 doanh nghiệp năm 2013 của nhóm nghiên cứu thực hiện Báo cáo hoạt động ngân hàng năm 2013 và một số dự báo năm 2014 của Học viện Ngân hàng. 5. Kết cấu luận án Luận án gồm ba chương: Chương 1: Cơ sở luận về truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng của ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng truyển tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam Chương 3: Giải pháp tăng cường khả năng truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam 4 Chương 1 CƠ SỞ LUẬN VỀ TRUYỀN TẢI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUA KÊNH TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. TỔNG QUAN VỀ CSTT 1.1.1. Khái niệm CSTT 1.1.2. Mục tiêu của CSTT 1.1.3. Công cụ của CSTT 1.1.4. Truyền tải CSTT 1.2. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ TRUYỀN TẢI CSTT QUA KÊNH TÍN DỤNG CỦA NHTM 1.2.1. Cơ sở hình thành kênh tín dụng Mối quan hệ mờ nhạt giữa lãi suất và đầu tư vào tài sản dài hạn được chỉ ra từ nhiều nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm đã dẫn đến nhiều quan điểm nghiên cứu mới về truyền tải CSTT. Để khắc phục vấn đề này, Bernanke và Gertler (1995) đã đề xuất kênh tín dụng được xây dựng trên nền tảng cấu trúc tài chính có tác động tới hành vi và tiêu dùng của các chủ thể trong nền kinh tế. Theo đó, tác động trực tiếp của CSTT lên lãi suất được khuếch tán thông qua sự thay đổi trong phần thưởng nguồn vốn bên ngoài (external finance premium). Phần thưởng nguồn vốn bên ngoài là sự chênh lệch giữa nguồn vốn huy động từ bên ngoài (từ phát hành trái phiếu, cổ phiếu, vay ngân hàng) và nguồn vốn huy động từ bên trong (từ thu nhập giữ lại). Mức độ chênh lệch này phản ánh sự không hoàn hảo của thị trường tín dụng, tạo ra mức chênh lệch giữa lợi nhuận kỳ vọng của người cho vay và chi phí của người đi vay. Truyền tải CSTT qua kênh tín dụng của các NHTM là quá trình khuếch đại sự biến động của phần thưởng nguồn vốn bên ngoài. Do chịu ảnh hưởng từ đặc điểm của từng nền kinh tế, sự vận động không ngừng của thị trường tài chính và các trung gian tài chính, mức độ hiệu quả của các kênh truyền tải CSTT thay đổi theo thời gian. Dù vậy, tựu chung lại, với các thị trường tài chính dựa vào thị trường chứng khoán (market based) và mức độ thay thế giữa các tài sản cho nhau là cao thì vai trò của kênh tín dụng bị giảm đi so với các kênh khác. Còn tại các nền kinh tế mà nguồn vốn tín dụng ngân hàng có vai trò quyết định trong hoạt động đầu tư và các ngân hàng hàng nhỏ đóng góp một vai trò tương đối quan trọng trong thị trường tài chính (bank based) thì rõ ràng các nhà điều hành chính 5 sách cần quan tâm hơn tới kênh truyền tải qua tín dụng ngân hàng. 1.2.1.1. Truyền tải CSTT qua kênh bảng cân đối tài sản của người đi vay a/ Thông qua tác động tới rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch M↓→i↑→Pequity↓→lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức↑→tín dụng↓→I↓→Y↓ trong đó: M là cung tiền, i là lãi suất, Pequity là giá trị tài sản ròng, I là đầu tư, Y là tổng sản lượng. M↓→i↑→CF↓→ lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức↑→tín dụng↓→I↓→Y↓ trong đó: CF là dòng tiền. b/ Thông qua chuẩn mực đánh giá khách hàng của ngân hàng c/ Thông qua sự biến động của mức giá chung M↑→i↓→Punexpected↑→lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức↓→tín dụng↑→I↑→Y↑ trong đó: Punexpected là mức giá cả không dự tính. 1.2.1.2. Truyền tải CSTT qua kênh khả năng cấp tín dụng của ngân hàng M↓→dự trữ hệ thống ngân hàng↓→ khả năng cung ứng tín dụng↓→I↓→Y↓. M↓→giá trị tài sản↓→vốn chủ sở hữu↓→ khả năng cấp tín dụng↓→I↓→Y↓ , trong đó: M là cung tiền, I là đầu tư, Y là tổng sản lượng. 1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến truyền tải CSTT qua kênh tín dụng của NHTM 1.2.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến truyền tải CSTT qua kênh bảng cân đối tài sản a/ Tỷ trọng vay nợ trong nguồn vốn của doanh nghiệp và hộ gia đình b/ Năng lực quản trị và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 1.2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến truyền tải CSTT qua kênh khả năng cấp tín dụng của ngân hàng a/ Tỷ lệ tín dụng trên tổng tài sản b/ Tỷ lệ nợ xấu (dự phòng rủi ro) trên dư nợ tín dụng c/ Tính thanh khoản của ngân hàng d/ Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản của ngân hàng e/ Mức độ đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của ngân hàng f/ Mức độ đa dạng hóa danh mục tín dụng của ngân hàng g/ Khả năng sinh lời của ngân hàng Truyền tải CSTT qua kênh tín dụng còn chịu ảnh hưởng từ quy mô thị trường tài chính chính thức, mức độ hiệu quả của TTLNH, mức độ phát triển của thị trường chứng khoán và BĐS, mức độ cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng. 6 1.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG TRONG CÁC NGHIÊN CỨU VỀ TRUYỀN TẢI CSTT QUA KÊNH TÍN DỤNG 1.3.1. Kênh khả năng cấp tín dụng của ngân hàng Các nghiên cứu định lượng về truyền tải CSTT qua kênh tín dụng phần lớn tập trung vào kiểm chứng sự tồn tại của kênh khả năng cấp tín dụng. Phương pháp tiếp cận đầu tiên, và sau này được nhiều nghiên cứu lặp lại, tập trung vào xem xét mối quan hệ giữa tiền tệ, tín dụng và sản lượng và đo lường mức độ phản ứng của tiền tệ, tín dụng trước thay đổi điều hành CSTT của NHTW và ngược lại. Các nghiên cứu này thường sử dụng mô hình VAR với các biến số đại diện cho các yếu tố từ bên ngoài nền kinh tế, biến số đại diện cho các chỉ tiêu vĩ mô bên trong nền kinh tế và các yếu tố tiền tệ như cung tiền, lãi suất, tỷ giá. Một nhóm các nghiên cứu khác xem xét phản ứng của các nhóm ngân hàng có đặc điểm khác nhau trước cú sốc tiền tệ thông qua việc kết hợp sử dụng dữ liệu vĩ mô và dữ liệu vi mô các ngân hàng. 1.3.2. Kênh bảng cân đối tài sản của người đi vay Tương tự như kênh khả năng cấp tín dụng của ngân hàng, các nghiên cứu về kênh bảng cân đối tài sản của người đi vay cũng gồm hai nhóm nghiên cứu sử dụng dữ liệu theo chuỗi thời gian và dữ liệu mảng. Thông qua việc sử dụng các mô hình VAR, OLS, hồi quy hai bước…, các nghiên cứu kiểm chứng tác động của CSTT truyền tải qua kênh tín dụng tới hoạt động của doanh nghiệp và hộ gia đình, hoặc xem xét phản ứng về nguồn vốn trước CSTT của các doanh nghiệp với đặc điểm khác nhau. 1.3.3. Kênh tín dụng ngân hàng Để so sánh mức độ khuếch đại của kênh tín dụng so với trường hợp chỉ tồn tại kênh truyền tải truyền thống, một vài nghiên cứu đã so sánh hàm phản ứng và phân rã phương sai của mô hình VAR trong trường hợp biến tín dụng được đưa vào trong mô hình VAR thứ nhất và bị đưa ra làm biến ngoại sinh trong mô hình VAR thứ hai. Qua so sánh hàm phản ứng và mức độ giải thích của lãi suất đối với sự biến động của các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, các tác giả đưa ra kết luận về vai trò của kênh tín dụng trong truyền tải CSTT. Qua xem xét các nghiên cứu định lượng ngoài nước và trong nước (xem phần tổng quan nghiên cứu) về truyền tải CSTT qua kênh tín dụng, có thể thấy nổi bật lên việc sử dụng mô hình VAR (và gần đây là SVAR, Bayesian VAR) để kiểm chứng sự tồn tại của kênh tín dụng cũng như đo lường vai trò của kênh tín dụng so với các kênh truyền tải CSTT khác. 7 Chương 2 TRUYỀN TẢI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUA KÊNH TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 2.1. ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN VIỆT NAM 2.1.1. Bối cảnh kinh tế vĩ mô và những vấn đề đặt ra đối với điều hành CSTT 2.1.1.1. Bối cảnh kinh tế vĩ mô Đòn bẩy kinh tế, chủ yếu là CSTK và CSTT nới lỏng từ phía Chính phủ, cùng với nguồn vốn đầu tư và lao động dồi dào đã đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Trong khi đó, đầu tư vào yếu tố công nghệ và chất lượng lao động không được quan tâm tương xứng và hệ quả tất yếu của thực trạng này là hiệu quả đầu tư ngày càng giảm, mức độ rủi ro tài chính của nền kinh tế tăng lên, và các bong bóng tài sản dần hình thành. Sai lầm trong tư duy về quản trị doanh nghiệp cùng với tỷ lệ đầu tư thấp và thiếu hiệu quả vào các yếu tố sản xuất cốt lõi đã khiến cho khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam giảm mạnh trong khi khả năng chống chọi với các cú sốc từ bên trong nền kinh tế ngày càng suy yếu. Hệ quả của những yếu kém kể trên là ngoại trừ sự phục hồi nhẹ năm 2009 và 2010, nền kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong xu thế suy giảm kể từ năm 2008 cho tới nay. Trong khi đó, kinh tế các nước trên thế giới, khu vực các nền kinh tế mới nổi tại châu Á, và các quốc gia trong khu vực ASEAN đều chứng kiến sự phục hồi. Rõ ràng, sự suy giảm kinh tế của Việt Nam không còn là nguyên nhân từ phía bên ngoài mà nằm chủ yếu từ những yếu kém, bất ổn bên trong nền kinh tế. Thực trạng này phản ánh những nỗ lực tái cấu trúc nền kinh tế, tìm kiếm lại thời kỳ tăng trưởng mạnh mẽ như trước đây chỉ có tác dụng trong ngắn hạn chứ chưa tạo ra những bước tiến có tính chất đột phá. 2.1.1.2. Những vấn đề đặt ra đối với điều hành CSTT Thứ nhất, công tác điều hành CSTT của NHNN phải hướng tới mục tiêu kiềm soát lạm phát ở mức hợp lý và ổn định, tạo dựng nền tảng quan trọng cho ổn định kinh tế vĩ mô. Thứ hai, cung tiền và tín dụng chưa hẳn là mục tiêu cần đạt được khi muốn kiểm soát lạm phát. Khi diễn biến lạm phát đi vào ổn định, việc lựa chọn lãi suất làm mục tiêu trung gian là một gợi ý cần được xem xét áp dụng. Thứ ba, NHNN cần chủ động, linh hoạt, và kịp thời trong việc sử dụng, 8 phối hợp các công cụ CSTT, nhất là các lãi suất và lượng tiền cung ứng. Thứ tư, NHNN cần triển khai chính sách nhằm tạo điều kiện, hỗ trợ các NHTM mở rộng tín dụng có hiệu quả, phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn tiêu dùng thiết yếu và bảo đảm an sinh xã hội. Thứ năm, NHNN cần tập trung xử lý đồng bộ và triệt để bốn vấn đề lớn nhằm bảo đảm hiệu quả cho việc sử dụng các công cụ CSTT: Giảm quy mô thị trường nợ ngoại tệ, giảm thiểu tình trạng đô la hóa. Tăng cường quản lý thị trường vàng, hướng đến mục tiêu giảm tình trạng “vàng hóa” nền kinh tế. Đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại và lành mạnh hóa hệ thống TCTD nhằm hỗ trợ việc thực thi hiệu quả CSTT. Giải quyết các vấn đề của TTLNH nhằm tăng cường khả năng truyền tải những thay đổi trong điều hành CSTT của NHNN tới mặt bằng lãi suất và lượng cung ứng tín dụng. Thứ sáu, NHNN cần tăng cường công tác thanh tra, giám sát thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng, kiểm soát chặt chẽ tình hình hoạt động của các TCTD nhằm phát hiện kịp thời, và xử lý nghiêm những sai phạm. Thứ bảy, tăng cường công tác phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước trong điều hành chính sách vĩ mô. Thứ tám, tăng cường công tác thông tin, truyền thông về các quy định của pháp luật, các chủ trương và giải pháp điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng tới mọi tầng lớp công chúng. Thứ chín, NHNN cần giữ vai trò định hướng, cùng với nỗ lực của toàn thể ngành ngân hàng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. 2.1.2. Thực trạng điều hành CSTT của NHNN Việt Nam 2.1.2.1. Hoàn thiện khung chính sách tiền tệ a/ Lựa chọn mục tiêu của chính sách tiền tệ NHNN kiên trì thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. NHNN điều tiết lượng cung ứng tiền tệ thận trọng, dần hướng vào mục tiêu lãi suất thị trường, phù hợp với diễn biến lạm phát, thị trường tiền tệ và góp phần tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. NHNN kiểm soát chặt chẽ lượng tiền cơ sở thông qua nghiệp vụ thị trường mở và tái cấp vốn. 9 b/ Điều hành công cụ chính sách tiền tệ NHNN điều chỉnh tăng, giảm các mức lãi suất điều hành phù hợp với thực trạng và dự báo tình hình kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ. Về quy định trần lãi suất huy động và cho vay các lĩnh vực ưu tiên, NHNN đã tuân thủ quy định tại Luật NHNN năm 2010, phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ, và thực trạng nền kinh tế. NHNN điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở phù hợp với cung cầu vốn trên thị trường; phối hợp hiệu quả với hoạt động can thiệp trên thị trường ngoại tệ và vàng. NHNN đã linh hoạt sử dụng công cụ tái cấp vốn để bảo đảm thanh khoản cho các TCTD và định hướng tín dụng phục vụ các lĩnh vực NNNT. NHNN giữ nguyên tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND nhằm ổn định thị trường tiền tệ. NHNN kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng gắn với bảo đảm chất lượng tín dụng, hướng tín dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc lĩnh vực ưu tiên của Nhà nước. NHNN điều hành chính sách tỷ giá chủ động, dẫn dắt thị trường nhằm mục tiêu duy trì tỷ giá ổn định, tạo niềm tin của công chúng vào giá trị của đồng nội tệ. 2.1.2.2. Tạo dựng môi trường cho CSTT vận hành Nhận thức được những bất ổn trong thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường nợ ngoại tệ, nợ vàng và thị trường tiền tệ liên ngân hàng, cũng như sự yếu kém của hệ thống TCTD đã ảnh hưởng tới công tác ra quyết định điều hành và làm giảm đi hiệu quả truyền tải CSTT, NHNN đã triển khai nhiều giải pháp để tạo dựng một môi trường tốt cho điều hành và truyền tải CSTT. Hệ thống các giải pháp được thực hiện trong giai đoạn 2011 - 2015 bao gồm xử lý tình trạng đô la hóa, vàng hóa trong nền kinh tế; giải quyết các vấn đề bất cập của TTLNH; thực hiện tái cấu trúc hệ thống TCTD và xử lý nợ xấu, hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiền tệ, ngân hàng, tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong điều hành CSTT… 2.1.3. Truyền tải CSTT tại Việt Nam qua nghiên cứu định lượng Luận án sử dụng mô hình VAR để kiểm tra mức độ truyền tải CSTT qua các kênh lãi suất, giá cổ phiếu, kênh tỷ giá, và kênh tín dụng đến nền kinh tế Việt Nam. Kết quả hàm phản ứng cho thấy cho thấy nhìn chung, kênh 10 lãi suất và kênh tỷ giá truyền tải tác động của cung tiền tới sản lượng và giá cả của nền kinh tế tốt hơn hai kênh còn lại. Kênh giá cổ phiếu là kênh có khả năng truyền tải kém nhất trong số các kênh được nghiên cứu, phần nào phản ánh thực trạng phát triển của thị trường cổ phiếu Việt Nam. Kết quả phân rã phương sai cho thấy: Thứ nhất, cung tiền là nhân tố quan trọng gây ra sự biến động của giá cả nhưng không phải là nhân tố quan trọng gây ra sự biến động của sản lượng. Kết luận này hàm ý rằng việc nỗ lực thúc đẩy kinh tế tăng trưởng dựa nhiều vào CSTT sẽ chỉ mạng lại tác động tích cực trong ngắn hạn nhưng lại gây ra những hệ lụy lớn cho nền kinh tế trong trung và dài hạn. Thứ hai, việc bổ sung thêm các kênh vào mô hình truyền tải CSTT góp phần tăng khả năng giải thích sự biến động của các chỉ tiêu vĩ mô như sản lượng và giá cả, dù ở mức độ khác nhau. Bổ sung thêm kênh tín dụng vào mô hình truyền tải góp phần tăng khả năng giải thích sự biến động của chỉ số giá tiêu dùng trong cả ngắn hạn và dài hạn. Kênh tỷ giá và kênh tín dụng cũng góp phần tạo nên sự biến động của độ lệch sản lượng cho dù chỉ trong trung, dài hạn và mức độ ảnh hưởng là khá hạn chế. Thứ ba, vai trò của cung tiền trong sự thay đổi của các chỉ tiêu tài chính tiền tệ cho thấy trong cả ngắn hạn và dài hạn, cung tiền giải thích sự biến động của tín dụng tốt hơn các chỉ tiêu tiền tệ khác (đặc biệt là trong ngắn hạn). Kết luận này đưa đến hàm ý rằng trong ngắn hạn và trường hợp cấp bách, việc can thiệp trực tiếp của NHNN đối với lãi suất thị trường là cần thiết để bảo đảm việc thực hiện các mục tiêu của CSTT. 2.2. THỰC TRẠNG TRUYỀN TẢI CSTT QUA KÊNH TÍN DỤNG CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM 2.2.1. Tổng quan về hệ thống NHTM Việt Nam Hệ thống NHTM Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần thúc đẩy tiến trình đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Hệ thống NHTM đã phát triển nhanh chóng về loại hình, quy mô, hình thức sở hữu… phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế đang chuyển đổi tồn tại nhiều thành phần kinh tế, đa ngành nghề, đa sở hữu. Mạng lưới các NHTM không những bao phủ thị trường nội địa mà còn có những bước tiến lớn trong việc phát triển mạng lưới tại một số thị trường quốc tế. Thông qua hoạt động huy động vốn và cho vay, làm trung gian thanh 11 toán và cung cấp các dịch vụ ngân hàng, hệ thống NHTM đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và góp phần quan trọng trong quá trình truyền tải CSTT của NHNN đến nền kinh tế. Dù vậy, vẫn tồn tại những điểm quan ngại về sự lành mạnh và phát triển bền vững của hệ thống NHTM. Quy mô tín dụng tăng nhanh nhưng chất lượng tín dụng của hệ thống NHTM không được bảo đảm. Nợ quá hạn, nợ xấu tăng nhanh trên cả thị trường 1 và thị trường 2, cơ cấu tín dụng tập trung vào một số lĩnh vực có mức độ rủi ro cao, mức độ tập trung tín dụng vào một số khách hàng và khách hàng có liên quan rất lớn. Trong khi đó, DPRR lại chưa được trích lập tương xứng với mức độ rủi ro mà hệ thống đang phải đối mặt. Tình hình thanh khoản của hệ thống NHTM trong năm 2011 và nửa đầu năm 2012 là khá nghiêm trọng do mất cân đối sâu sắc giữa huy động và cho vay, giữa cơ cấu kỳ hạn huy động và cho vay, không chỉ bao gồm nội tệ mà có cả ngoại tệ trong khi doanh số rút tiền gửi rút trước hạn tăng mạnh. Trong khi đó, rủi ro trên thị trường 2 gia tăng mạnh, một số thời điểm diễn ra tình trạng mất thanh khoản cục bộ, ảnh hưởng tới an toàn của hệ thống. Khả năng sinh lời của hệ thống NHTM không chỉ giảm xuống mà còn thể hiện ở cơ cấu thu nhập thiếu bền vững, chứa đựng nhiều rủi ro, khiến cho lợi nhuận của toàn hệ thống sụt giảm mạnh khi nền kinh tế gặp khó khăn. Tình hình an toàn vốn của hệ thống NHTM tuy đạt mức quy định nhưng lại thiếu sự ổn định và tính bền vững. Thực trạng này làm dấy lên quan ngại về khả năng chống chọi rủi ro của toàn hệ thống trong điều kiện xảy ra những cú sốc mang tính hệ thống khi tấm đệm phòng ngừa rủi ro quá mỏng. Tình hình quản trị trong hệ thống NHTM còn tồn tại nhiều bất cập, là nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự yếu kém của hệ thống do những sai lầm về tư duy quản trị ngân hàng. Những vấn đề về quản trị doanh nghiệp, cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm quy định của pháp luật, và sở hữu chéo là những vấn đề nổi cộm cần được khắc phục nhằm lành mạnh hóa hệ thống NHTM. 2.2.2. Thực trạng truyền tải CSTT qua kênh tín dụng của các NHTM Việt Nam 2.2.2.1. Thực trạng truyền tải CSTT qua kênh bảng cân đối tài sản của các NHTM Việt Nam a/ Truyền tải CSTT qua kênh bảng cân đối tài sản của các NHTM Việt Nam Lãi suất tăng khiến chi phí lãi vay tăng, làm lợi nhuận và giá trị tài sản 12 ròng giảm mạnh, khiến các doanh nghiệp giảm nhu cầu vay lẫn khả năng sử dụng vốn vay hiệu quả Sức cầu của nền kinh tế suy yếu, hàng hóa sản xuất không tiêu thụ được, hàng tồn kho gia tăng mạnh, dẫn tới các khoản tín dụng thương mại khó thanh toán, dòng tiền của doanh nghiệp sụt giảm Giá trị và tính thanh khoản của TSBĐ, đặc biệt là bất động sản, giảm mạnh do tác động của CSTT thắt chặt và quy định về tỷ trọng cho vay lĩnh vực không khuyến khích dưới 16% Mức độ rủi ro trong kinh doanh tăng lên, tình trạng vi phạm pháp luật trong hoạt động tín dụng diễn ra phổ biến khiến các NHTM trở nên thận trọng hơn trong việc đưa ra quyết định tín dụng Mức độ truyền tải CSTT qua kênh bảng cân đối tài sản cho thấy CSTT thắt chặt ban đầu đã được khuếch đại, làm giảm đi nhu cầu tín dụng và khả năng được chấp thuận tín dụng của các chủ thể kinh tế. Những đặc điểm về cơ cấu vốn, khả năng hấp thụ vốn cùng với đặc điểm về quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp với ngân hàng có xu hướng làm cho những ảnh hưởng tiêu cực từ việc thắt chặt CSTT trở nên mạnh mẽ hơn, khiến cho công tác điều hành CSTT dẫn tới sự đánh đổi lớn giữa các mục tiêu. Đây là nguyên nhân dẫn tới thực trạng nhu cầu tín dụng suy giảm mặc dù kể từ giữa năm 2012, NHNN đã triển khai nhiều biện pháp nhằm thúc đẩy tín dụng thông qua nới lỏng CSTT mà chưa đem lại được hiệu quả như kỳ vọng. b/ Các nhân tố ảnh hưởng đến vai trò truyền tải CSTT qua kênh bảng cân đối tài sản của các NHTM Việt Nam Hệ thống doanh nghiệp phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng khi tín dụng ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn Khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp Việt Nam ở mức thấp và thể hiện xu hướng giảm rõ rệt. 2.2.2.2. Thực trạng truyền tải CSTT qua kênh khả năng cấp tín dụng của các NHTM Việt Nam a/ Truyền tải CSTT qua kênh khả năng cấp tín dụng của các NHTM Việt Nam Dự trữ của hệ thống NHTM giảm, dẫn đến giảm lượng vốn sẵn có để cấp các khoản tín dụng mới 13 Chất lượng tín dụng suy giảm khiến hệ thống NHTM ngần ngại cấp các khoản tín dụng mới Hệ thống NHTM sử dụng lượng tiền dự trữ để đầu tư vào trái phiếu Chính phủ trong bối cảnh rủi ro tín dụng khó kiểm soát Qua phân tích ba nhân tố kể trên, mức độ truyền tải CSTT qua kênh khả năng cấp tín dụng cho thấy CSTT thắt chặt đã được khuếch đại, làm giảm đi khả năng lẫn mong muốn cấp tín dụng của hệ thống NHTM. Những đặc điểm về tính ổn định và cơ cấu nguồn vốn, chất lượng tài sản có có xu hướng làm cho những ảnh hưởng từ việc thắt chặt CSTT trở nên dai dẳng và chứa đựng nhiều rủi ro như gây ra sự mất ổn định trong hệ thống NHTM và làm giảm đi vai trò cấp tín dụng của hệ thống với nền kinh tế. b/ Các nhân tố ảnh hưởng đến vai trò truyền tải CSTT qua kênh khả năng cấp tín dụng của các NHTM Việt Nam Tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong TTS, các tài sản thanh khoản chiếm tỷ trọng thấp Chất lượng tín dụng thấp, nhạy cảm với biến động kinh tế vĩ mô trong khi khả năng chống đỡ rủi ro ở mức thấp Nguồn vốn huy động thiếu ổn định, tập trung vào các kỳ hạn ngắn Mức độ phụ thuộc vào thị trường liên ngân hàng và NHNN cao Tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao, hệ số an toàn vốn thấp và có xu hướng giảm khi NHNN thắt chặt CSTT do vốn điều lệ tăng chậm và lợi nhuận suy giảm Cơ cấu thu nhập tập trung vào thu lãi từ hoạt động tín dụng Mức sinh lời của hệ thống NHTM thấp Ảnh hưởng tổng hợp của hai kênh truyền truyển CSTT qua kênh tín dụng Tổng hợp ảnh hưởng khuếch đại của truyền tải CSTT qua kênh bảng cân đối tài sản và khả năng cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng là xu hướng giảm sâu của tốc độ tăng trưởng tín dụng (giai đoạn năm 2011 – 2012) và chậm phục hồi (năm 2013 – 2014). Sau nhiều năm tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức cao hơn tốc độ tăng trưởng huy động vốn, kể từ quý 1 năm 2012, tốc độ tăng trưởng huy động vốn luôn cao hơn tăng trưởng tín dụng (trừ quý 3 năm 2013). Trong suốt giai đoạn giữa năm 2012 – 2014, ngành Ngân hàng đã triển khai nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng nhưng tăng trưởng tín dụng rất khó đạt mục tiêu đề ra, thậm chí còn tăng trưởng âm 14 trong một vài tháng đầu năm. Mặt bằng lãi suất sau khi bị đẩy lên cao trong năm 2012 và 2013 đã giảm dần về mức của năm 2009, 2010 và thấp hơn cả giai đoạn trước năm 2008 nhưng tăng trưởng tín dụng vẫn ở mức thấp hơn nhiều so với giai đoạn trước đó.Thực trạng này phản ánh tín dụng bị thu hẹp từ cả phía cầu (bao gồm cả khả năng và mong muốn vay vốn) lẫn phía cung (khả năng và mong muốn cấp tín dụng). Với kênh lãi suất truyền thống, khi mặt bằng lãi suất giảm về các mức thấp hơn nhiều trong quá khứ, kết hợp với kỳ vọng lạm phát được duy trì ổn định, phản ứng của thị trường sẽ là đẩy mạnh hoạt động vay vốn, tiêu dùng và đầu tư. Tuy nhiên, sự khuếch đại ảnh hưởng của kênh lãi suất truyền thống thông qua vai trò của kênh tín dụng đã cho thấy mức độ truyền tải CSTT là mạnh và dai dẳng hơn nhiều. Diễn biến nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015 cho thấy mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đã phải phần nào “hi sinh” để đổi lại mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. NHNN và các NHTM đã triển khai nhiều biện pháp từ giữa năm 2012 nhằm giảm mặt bằng lãi suất, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, cho dù mặt bằng lãi suất đã về mức của năm 2006 - 2007 nhưng tín dụng vẫn tăng trưởng khá chậm chạp, một bộ phận lớn các doanh nghiệp vẫn không thể tiếp cận và hấp thụ được nguồn vốn tín dụng. Lúc này, những biện pháp hỗ trợ nền kinh tế thông qua thúc đẩy tăng trưởng tín dụng không còn phát huy được nhiều hiệu lực và hiệu quả như trong điều kiện thông thường. Sự sụt giảm tiêu dùng và đầu tư (hai cấu phần quan trọng trong tổng sản phẩm quốc nội) khiến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam ở mức thấp so với giai đoạn trước. Tốc độ phục hồi tăng trưởng cũng sau giai đoạn khủng hoảng tài chính cũng chậm chạp hơn so với các quốc gia trong khu vực. Cùng với đó, tỷ lệ lạm phát giảm sâu trong năm 2014 và 2015 cho thấy tình trạng thiểu phát đã diễn ra khá rõ rệt. Tóm lại, việc thiếu hụt một cơ chế kiểm soát mức độ khuếch đại ảnh hưởng của CSTT qua kênh tín dụng là một nguyên nhân chủ chốt khiến hiệu quả của truyền tải của kênh này không những không được như kỳ vọng mà còn gây ra những bất ổn cho nền kinh tế. Sau đó, những bất ổn này lại quay lại đặt áp lực lên công tác điều hành CSTT của NHNN như phải hạ mặt bằng lãi suất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp giảm và nợ quá hạn, nợ xấu trong NHTM gia tăng. 15 2.3. NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG VÈ TRUYỀN TẢI CSTT QUA KÊNH TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM 2.3.1. Xây dựng mô hình Luận án sử dụng mô hình vector tự hồi quy cấu trúc để mô hình hóa các mối quan hệ giữa các biến số kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế Việt Nam. Xuất phát từ thực tế Việt Nam là một nền kinh tế nhỏ với độ mở kinh tế lớn, ngoài những biến số vĩ mô trong nền kinh tế, luận án bổ sung thêm những ảnh hưởng của các cú sốc bên ngoài như giá cả hàng hóa thế giới. Các biến số trong mô hình được lựa chọn bao gồm: giá dầu thế giới (OIL), tổng sản phẩm quốc nội (GDP), chỉ số giá tiêu dùng (CPI), cung tiền (MS), tín dụng đối với nền kinh tế (CRE), lãi suất cho vay ngắn hạn (INT), và tỷ giá (EXC). Các chuỗi số liệu được lựa chọn nghiên cứu trong giai đoạn từ quý 1/2000 tới quý 4/2015. Để đo lường vai trò của kênh tín dụng, tác giả sử dụng phương pháp “shutdown” được đề xuất bởi Ramey (1993), cho phép loại bỏ một kênh truyền tải CSTT ra khỏi mô hình nhằm đánh giá mức độ đóng góp của kênh truyền tải này trong việc truyền tải CSTT tới sản lượng và lạm phát. 1 0 0 0 0 0 0 𝑢𝑡𝑜𝑖𝑙 𝜀𝑡𝑜𝑖𝑙 𝑔𝑑𝑝 𝑎21 1 0 0 0 0 0 𝜀𝑡 𝑐𝑝𝑖 𝑎31 𝑎32 1 0 0 0 0 𝜀𝑡 0 𝑎42 𝑎43 1 𝑎45 0 0 𝜀𝑡𝑚𝑠 𝑢𝑡𝑖𝑛𝑡 0 0 0 𝑎54 1 𝑎56 𝑎57 𝜀𝑡𝑖𝑛𝑡 𝑢𝑡𝑒𝑥𝑐 𝑎61 𝑎62 𝑎63 𝑎64 𝑎65 1 0 𝜀𝑡𝑒𝑥𝑐 ( 𝑢𝑡𝑐𝑟𝑒 ) [𝑎71 𝑎72 𝑎73 𝑎74 𝑎75 𝑎76 𝑢𝑡 𝑢𝑡 𝑢𝑡 = 𝑢𝑡𝑚𝑠 = 𝑔𝑑𝑝 𝑐𝑝𝑖 1 ] ( 𝜀𝑡𝑐𝑟𝑒 ) 2.3.1.1. Số liệu và kiểm định khuyết tật mô hình 2.3.2. Kết quả mô hinh So sánh hàm phản ứng của tổng sản phẩm quốc nội trước cú sốc lãi suất trong trường hợp có kênh tín dụng và không có kênh tín dụng cho thấy, phản ứng của tổng sản phẩm quốc nội trước cú sốc lãi suất trong trường hợp có kênh tín dụng mạnh và dai dẳng hơn (kéo dài tới 10 quý) so với trường hợp không có kênh tín dụng (6 quý). Hàm phản ứng của chỉ số giá tiêu dùng 16 trước cú sốc lãi suất cũng cho thấy kênh tín dụng phát huy ảnh hưởng rõ rệt từ quý thứ 3 đến quý thứ 12. Kết quả hàm phản ứng của sản lượng và giá cả trước cú sốc cung tiền cũng cho thấy kênh tín dụng có tác dụng khuếch đại mạnh mẽ ảnh hưởng của việc mở rộng cung tiền. Hàm phản ứng của GDP trước cú Hàm phản ứng của CPI trước cú sốc lãi suất khi có kênh tín dụng và sốc lãi suất khi có kênh tín dụng và không có kênh tín dụng không có kênh tín dụng 0.001 0.002 0.001 0.000 0.000 -0.001 -0.001 -0.002 -0.003 -0.002 -0.004 1 5 10 15 20 Nguồn: Tính toán của tác giả Hàm phản ứng của GDP trước cú sốc cung tiền khi có kênh tín dụng và không có kênh tín dụng 0.003 1 5 10 15 20 Nguồn: Tính toán của tác giả Hàm phản ứng của CPI trước cú sốc cung tiền khi có kênh tín dụng và không có kênh tín dụng 0.010 0.002 0.005 0.001 0.000 0.000 -0.001 -0.002 -0.005 1 5 10 15 20 1 5 10 15 20 Nguồn: Tính toán của tác giả Nguồn: Tính toán của tác giả Như vậy, có thể nhận thấy sự tồn tại và vai trò nhất định của kênh tín dụng trong truyền tải CSTT của Việt Nam. Theo đó, ảnh hưởng của điều hành CSTT sẽ phát huy tác dụng nhanh và mạnh hơn trong trường hợp có kênh tín dụng so với trường hợp không có kênh tín dụng.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan