VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐẶNG MINH THẮNG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO GIÁO DỤC Ý THỨC ĐỘC LẬP
DÂN TỘC CHO HỌC VIÊN CỦA TRƯỜNG CAO ĐẲNG
AN NINH NHÂN DÂN 2 HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐẶNG MINH THẮNG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO GIÁO DỤC Ý THỨC ĐỘC LẬP
DÂN TỘC CHO HỌC VIÊN CỦA TRƯỜNG CAO ĐẲNG
AN NINH NHÂN DÂN 2 HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết Học
Mã số: 60 22 03 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN XUÂN TRUNG
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do chính tôi thực hiện, các số liệu được
trích dẫn trong luận văn là hoàn toàn trung thực, đáng tin cậy và là kết quả của quá
trình tiến hành khảo sát thực tế. Những nội dung và kết luận trong luận văn mà tôi
nghiên cứu chưa được công bố ở bất kể đâu. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về
công trình nghiên cứu của mình.
Người làm luận văn
Đặng Minh Thắng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC .............. 8
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc ........................... 8
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc ..................................... 16
1.3. Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc ... 27
Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA HỒ CHÍ
MINH VÀO NÂNG CAO HƠN NỮA CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Ý THỨC
ĐỘC LẬP DÂN TỘC CHO HỌC VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG AN NINH
NHÂN DÂN 2 HIỆN NAY .............................................................................. 38
2.1. Thực trạng và một số vấn đề đặt ra trong việc giáo dục ý thức độc lập dân tộc
cho học viên Trường Cao đẳng An ninh nhân dân 2 hiện nay .............................. 38
2.2. Phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giáo
dục ý thức độc lập dân tộc cho học viên của Trường Cao đẳng An ninh nhân dân 2
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh ..................................................................... 53
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 72
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Kết quả điều tra đối với giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục
Bảng 2.2: Kết quả điều tra đối với học viên về mức độ của sự cần thiết giáo dục ý
thức độc dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho học viên trường hiện nay
Bảng 2.3: Kết quả điều tra ý kiến về giáo dục ý thức độc lập dân tộc cho học viên
cần tập trung những nội dung
Bảng 2.4: Kết quả điều tra ý kiến của học viên về các mức độ quan trọng của những
nội dung cần giáo dục cho học viên của trường hiện nay
Bảng 2.5: Kết quả học viên đánh giá về việc giáo dục ý thức độc dân tộc cho học
viên của trường hiện nay
Bảng 2.6: Kết quả số lượng học viên kết nạp Đảng (giai đoạn 2012 - 2015)
Bảng 2.7: Kết quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho học viên (giai đoạn
2012 - 2015)
Bảng 2.8: Kết quả phong trào thi đua thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy gắn với Cuộc
vận động đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh (giai đoạn 2012 - 2015)
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa
kiệt xuất của Việt Nam. Cả cuộc đời, sự nghiệp của Người đã phấn đấu cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, cho tự do và hạnh phúc của nhân dân. Đánh giá về Hồ
Chí Minh, Nghị quyết của Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên hợp quốc
(UNESCO) nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người đã viết: “Chủ tịch Hồ
Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến
trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần
vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội” [21, tr. 9]. Đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
để lại cho Đảng và nhân dân ta tài sản tinh thần vô cùng to lớn. Trong đó, tư tưởng
về độc lập dân tộc là tư tưởng chính trị đặc sắc, sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm
trong toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người.
Trải qua quá trình hình thành và phát triển cho đến nay, tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc vẫn luôn soi sáng con đường cách mạng của nhân dân Việt
Nam, đặt nền tảng vững chắc cho sự hình thành và phát triển lý luận cách mạng của
Đảng ta, cho đường lối cách mạng kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội,
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng (2011) khẳng định: “Tư tưởng vĩ đại của Người cùng với chủ
nghĩa Mác - Lênin mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng
và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và
dân tộc ta” [11, tr. 6] và “...trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào phải kiên trì
thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” [11, tr. 21].
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi đất nước ta đang thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, cùng với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân là lực
lượng vũ trang trọng yếu, tin cậy của Đảng Cộng sản Việt Nam, vũ khí sắc bén của
1
nhà nước xã hội chủ nghĩa, là lực lượng nòng cốt, đóng vai trò xung kích trong sự
nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, góp phần đắc lực cho
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đảm bảo cuộc sống yên vui, hạnh phúc
cho nhân dân. Muốn vậy, lực lượng này phải được quan tâm, giáo dục, xây dựng
thành lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại hóa.
Học viên Trường Cao đẳng An ninh nhân dân 2 là bộ phận quan trọng, có
vai trò gánh vác những trọng trách to lớn trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia,
giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Đội ngũ này cần phải được thường xuyên chăm lo,
giáo dục, rèn luyện để trở thành những người có đủ đức, đủ tài thực hiện nhiệm vụ
chính trị của Đảng, của ngành Công an giao phó. Trong “Di chúc”, Bác Hồ đã căn
dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và
rất cần thiết”. Thấm nhuần lời dạy đó, Đảng ta và ngành Công an đã thường xuyên
quan tâm đến công tác giáo dục phẩm chất chính trị, giáo dục ý thức độc lập dân
tộc cho đội ngũ học viên, coi đây là một trong những nhiệm vụ then chốt trong các
trường Công an nhân dân.
Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang đặt ra cho học viên Trường Cao
đẳng An ninh nhân dân 2 những nhiệm vụ mới hết sức nặng nề nhưng vô cùng vẻ
vang. Để đội ngũ này thực hiện tốt nhiệm vụ của mình thì cần phải được quan tâm
đào tạo một cách toàn diện cả về chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức để
có những cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân vừa “hồng”, vừa “chuyên”, vừa có
năng lực chuyên môn giỏi, vừa có đạo đức cách mạng trong sáng. Do đó, công tác
giáo dục phẩm chất chính trị, giáo dục ý thức độc lập dân tộc cho đội ngũ học viên
luôn giữ vị trí quan trọng, góp phần không nhỏ cho việc giữ vững an ninh quốc
gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giáo dục ý thức độc
lập dân tộc cho học viên Trường Cao đẳng An ninh nhân dân 2 vẫn còn tồn tại
nhiều hạn chế cần phải được khắc phục. Tình hình đó đòi hỏi cần phải có sự nghiên
cứu nghiêm túc, đánh giá đúng thực trạng nhằm đề xuất các giải pháp góp phần
2
khắc phục những tồn tại, hạn chế, trong công tác giáo dục ý thức độc lập dân tộc
cho học viên Trường Cao đẳng An ninh nhân dân 2, qua đó góp phần xây dựng lực
lượng Công An nhân dân từng bước chính quy, hiện đại.
Xuất phát từ những yêu cầu nói trên, tác giả chọn đề tài “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về độc lập dân tộc và sự vận dụng vào giáo dục ý thức độc lập dân
tộc cho học viên của Trường Cao đẳng An ninh nhân dân 2 hiện nay” làm luận
văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nhận thức sâu sắc giá trị khoa học và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh
về độc lập dân tộc, những năm qua, theo chủ trương của Đảng, các nhà khoa học,
các nhà nguyên cứu, các nhà giáo dục đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu
công phú, đa dạng theo nhiều hướng khác nhau, phản ánh khá sâu sắc và toàn
diện hệ thống lý luận của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc. Có thể kể đến những
công trình tiêu biểu như:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh - độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”
do Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Bá Linh (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2005, đã làm rõ tư tưởng độc lập dân tộc là ngọn cờ bách chiến, bách
thắng của cách mạng Việt Nam, thêm vào đó là những vận dụng sáng tạo của Hồ
Chí Minh về lý luận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
“Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư
tưởng Hồ Chí Minh” do Phó giáo sư, Tiễn sĩ Nguyễn Bá Linh (chủ biên), Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009. Cuốn sách đã luận giải một cách khoa học về
quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, những nội dung cốt lõi trong tư tưởng
của Người về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phân tích sâu sắc về
hoàn cảnh ra đời, ý nghĩa to lớn của cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt
Nam do Hồ Chí Minh khởi thảo đã trở thành nền tảng, kim chỉ nam cho cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
“Hồ Chí Minh với sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” do Phó
giáo sư, Tiễn sĩ Vũ Đình Hòe và Phó giáo sư, Tiễn sĩ Bùi Đình Phong (đồng chủ
3
biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2010. Cuốn sách đã tổng kết bước đầu về
những cống hiến to lớn, quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh cho cách mạng
Việt Nam. Trên cơ sở đó, các tác giả khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn to lớn
của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với công cuộc giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Ngoài ra, còn có rất nhiều bài báo viết về độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh
được đăng trên các báo, Tạp chí như: “Độc lập dân tộc gằn liền với chủ nghĩa xã
hội, luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam” của Giáo sư Trịnh
Nhu, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5, năm 1997; “Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh
về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” của Tiến sĩ Lê Văn Tích, Tạp chí
Lịch sử Đảng, số 2, năm 2001; “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong
tư tưởng Hồ Chí Minh” của Phó giáo sư, Tiễn sĩ Mạch Quang Thắng, Tạp chí Giáo
dục lí luận, số 6, năm 2010.
Các công trình luận văn nghiên cứu liên quan đến vấn đề tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong số đó, trước hết phải kể đến:
Luận văn Thạc sĩ Triết học: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội” của Nguyễn Thạc Dũng (2008), Đại học Khoa học Xã hội xã hội và
Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn đã phân tích một cách cụ thể và có hệ
thống những điều kiện, tiền đề hình thành và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, làm rõ sự vận dụng sáng tạo và phát
triển sáng tạo của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thông qua
những xử lý của Người theo trình tự thời gian và điều kiện lịch sử cụ thể.
Luận văn Thạc sĩ Triết học: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và
việc giáo dục ý thức độc lập dân tộc cho thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay” của Nguyễn
Thị Ly (2014), Học viện Khoa học xã hội Việt Nam.
Luận văn Thạc sĩ Sư phạm lịch sử: “Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộc trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975, lớp 12
Trung học phổ thông” của Nguyễn Thị Huệ (2014), Đại học giáo dục. Luận văn đã
tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, lý luận tâm lý giáo dục, giáo dục
4
lịch sử về việc giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo đức cho học sinh, đề xuất biện pháp
giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, trong dạy học Lịch sử Việt Nam
từ 1945 đến 1975, lớp 12 trung học phổ thông.
Luận văn Thạc sĩ Triết học: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và
nhiệm vụ của Đảng, Nhà Nước trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền nước ta hiện
nay” của Lê Thị Lan (2016), Học viện Khoa học xã hội Việt Nam. Luận văn đã tìm
hiểu và làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, phân tích sự vận
dụng sáng tạo những điểm mới của quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc của Đảng ta, đồng thời, đề xuất một số giải pháp
tiến hành đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền của nước ta hiện nay.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, trong đó có tư tưởng về độc lập
dân tộc được nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Tuy nhiên, việc đi sâu
nghiên cứu “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và sự vận dụng vào giáo dục
ý thức độc lập dân tộc cho học viên của Trường Cao đẳng An ninh nhân dân 2 hiện
nay” vẫn là một lĩnh vực chưa được ai nghiên cứu. Vì vậy, ở luận văn này, tác giả sẽ
kế thừa những thành tựu nghiên cứu trước đây, đồng thời bổ sung, hoàn thiện và góp
phần làm sáng tỏ phương diện giáo dục ý thức độc lập dân cho đối tượng học viên
Công an nhân dân trong giai đoạn hiện nay theo mục đích và yêu cầu của đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Luận văn làm rõ thực trạng của công tác giáo
dục ý thức độc lập dân tộc cho học viên, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả công tác giáo dục đạo ý thức về độc lập dân tộc cho học viên của
Trường trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ chủ yếu sau:
Thứ nhất, làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
độc lập dân tộc.
Thứ hai, phân tích, làm rõ thực trạng công tác giáo dục ý thức độc lập dân tộc
cho học viên tại Trường Cao đẳng An ninh nhân dân 2 hiện nay.
5
Thứ ba, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục ý
thức độc lập dân tộc cho học viên của Trường Cao đẳng An ninh nhân dân 2 hiện nay,
đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong tình hình mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộc và sự vận dụng vào giáo dục ý thức độc lập dân tộc cho học viên của
Trường Cao đẳng An ninh nhân dân 2 hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu trong giới hạn giáo
dục ý thức độc lập dân tộc cho học viên của Trường Cao đẳng An ninh nhân dân 2.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về độc lập dân tộc.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu
như: Phân tích - tổng hợp; lôgíc - lịch sử, quy nạp - diễn dịch, so sánh - đối chiếu,
khảo sát thực tế và xử lý số liệu…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận: Luận văn góp phần vào việc nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về
vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục ý thức độc lập dân tộc cho học viên trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Về thực tiễn: Kết quả của luận văn sẽ cung cấp thêm những luận cứ khoa học
và thực tiễn góp phần làm tốt công tác giáo dục ý thức độc lập dân tộc cho hoc viên
Công an nhân dân; làm cơ sở cho việc bổ sung vào giảng dạy các nội dung môn học
chuyên ngành tại Trường. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng
làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu và học tập tại các trường Đại học, Cao đẳng
Công an nhân dân, Bộ Công an.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu thành 02 chương, 05 tiết.
6
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Chương 2: Vận dụng tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh vào nâng
cao hơn nữa chất lượng giáo dục ý thức độc lập dân tộc cho học viên Trường Cao
đẳng An ninh nhân dân 2 hiện nay
7
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc không chỉ kết tinh những giá trị
truyền thống văn hóa dân tộc, nguyên lý cách mạng không ngừng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, mà còn bắt nguồn từ cơ sở thực tiễn cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc của nhân dân Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và thực tiễn của cuộc
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
1.1.1. Cơ sở lý luận
Thứ nhất, giá trị truyền thống văn hoá dân tộc Việt Nam
Giá trị truyền thống văn hóa đó là: “Những giá trị văn hóa vật chất và tinh
thần được hình thành trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc; là các giá
trị chuẩn mực được nhân dân ta chắt lọc, đúc kết, kế thừa và phát triển; được
truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác trong cộng đồng
dân tộc Việt Nam” [54, tr. 10].
Trải qua quá trình phát triển lâu dài, dân tộc Việt Nam đã tạo cho mình một
nền văn hóa mang đậm bản sắc riêng, phong phú và bền vững với những truyền
thống cao đẹp. Đó là chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập, tự lực, tự cường, tinh thần
đoàn kết, tương thân, tương ái, sự cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động và
tính lạc quan yêu đời... của dân tộc. Trong những giá trị đó, nổi bật nhất đó là chủ
nghĩa yêu nước, “động lực tình cảm lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc
thang cao nhất trong hệ giá trị đạo đức của dân tộc ta” [25, tr. 74].
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, theo dòng chảy của lịch sử
dân tộc, chủ nghĩa yêu nước đã trở thành bảng giá trị cao quý nhất của đạo lý và
đứng đầu trong bậc giá trị truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam. Chính tinh thần
yêu nước đã tạo cho nhân dân ta ý chí quật cường, không quản ngại hy sinh gian
khổ bảo vệ độc lập cho nước nhà, tạo nên sức mạnh to lớn để chiến thắng mọi quân
thù xâm lược. Đúng như Hồ Chí Minh đã tổng kết: “Dân ta có một lòng nồng nàn
8
yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc
bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh
mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước” [37, tr. 38].
Đối với Hồ Chí Minh chủ nghĩa yêu nước còn là truyền thống, là sức mạnh vô
địch của dân tộc, đã thấm đậm và lưu truyền qua các thế hệ người Việt Nam trong
quá trình lịch sử. Chủ nghĩa yêu nước ở Hồ Chí Minh là sự kế thừa những giá trị của
chủ nghĩa yêu nước truyền thống dân tộc nhưng được phát triển với tinh thần nhân
văn, đổi mới phù hợp với thực tiễn của thời đại.
Tiếp thu truyền thống yêu nước với tư duy độc lập sáng tạo, Hồ Chí Minh đã
sớm hình thành chí hướng và tìm con đường đi riêng của mình. Truyền thống yêu
nước, tấm lòng sắt son vì Tổ quốc, đồng bào đã đem lại cho Người sức mạnh trên
hành trình ra đi tìm đường cứu nước của mình. Đồng thời, Người đã nâng chủ nghĩa
yêu nước lên tầm cao mới, yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sẵn sàng hy
sinh vì độc lập, tự do của dân tộc.
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống đoàn kết, tinh thần cố kết
cộng đồng, tương thân, tương ái. Những truyền thống này được hình thành cùng
với sự ra đời của dân tộc, trong đó, tình đoàn kết của dân tộc Việt Nam được thể
hiện không chỉ trong cuộc sống, trong lao động sản xuất, mà ngay từ buổi ban đầu
dựng nước, dân tộc ta đã phải chiến đấu gian khổ với thiên tai, địch họa để tồn tại
và phát triển. Chính trong cuộc đấu tranh gian khổ đó dân tộc Việt Nam đã sớm
nhận biết đoàn kết và gắn bó với nhau để cùng nhau vượt qua khó khăn, hình
thành nên ý thức cộng đồng, ý thức tập thể và cao hơn là ý thức dân tộc.
Truyền thống đoàn kết của dân tộc không chỉ được thể hiện ở trong
truyền thuyết mẹ Âu Cơ và Lạc Long Quân sinh ra một bọc trăm trứng, mà còn
trong ca dao, tục ngữ của nhân dân ta như: “Một cây làm chẳng nên non. Ba
cây chụm lại nên hòn núi cao” hay “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong
một nước phải thương nhau cùng”. Những câu ca dao, tục ngữ, những lời ru,
9
điệu hò, câu ví đã khắc sâu vào tâm trí của mỗi con người Việt Nam luôn được
Hồ Chí Minh nâng niu, trân trọng.
Truyền thống đoàn kết của người Việt Nam được thể hiện trước hết trong
từng gia đình cho đến hàng xóm, láng giềng, sống ở gần nhau, “tối lửa tắt đèn có
nhau” và xa hơn hết, trong toàn thể cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, tinh thần đoàn kết dân tộc ta lại trở nên
mãnh liệt hơn bao giờ hết, tướng sĩ đồng cam cộng khổ, quân dân đồng bào tạo
thành sức mạnh giúp dân tộc ta chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Tiếp thu truyền thống đoàn kết cộng đồng của dân tộc, trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn gắn bó với dân tộc, cùng với
nhân dân chia sẻ tất cả những ngọt bùi, đắng cay, những nỗi gian khổ và vinh
quang. Từ thực tiễn lịch sử của quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, Hồ
Chí Minh đã khẳng định: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết
muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn
kết thì bị nước ngoài xâm lấn” [33, tr. 256]. Hồ Chí Minh rất đề cao tầm quan trọng
của tinh thần đoàn kết dân tộc, Người nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành
công, thành công, đại thành công” [45, tr. 628]. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng rất
chú ý đến tình đoàn kết cách mạng với bạn bè quốc tế, cùng phấn đấu vì sự nghiệp
chung giải phóng dân tộc.
Thứ hai, chủ nghĩa Mác - Lênin về nguyên lý cách mạng không ngừng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc là sản phẩm của sự vận dụng, phát
triển sáng tạo nguyên lý cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam. Cơ sở lý luận quan trọng nhất hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.
Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX như một tất yếu
lịch sử, do điều kiện kinh tế - xã hội quy định, đồng thời kế thừa và phát triển những
thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại nhằm giải đáp về lý luận những vấn đề cơ
bản của thời đại đặt ra. Chủ nghĩa Mác tiếp tục được Lênin kế thừa, bổ sung và phát
triển trong giai đoạn lịch sử mới.
10
Mác và Ăngghen đã nghiên cứu chủ nghĩa tư bản, phát hiện ra sứ mệnh
lịch sử của giai cấp vô sản trên toàn thế giới và vạch ra lý luận, sách lược của
cách mạng vô sản. Mác đề ra lý luận cách mạng không ngừng theo quan điểm
cách mạng vận động và phát triển một cách biện chứng. Mác và Ăngghen xem
cách mạng như một quá trình gồm hai giai đoạn, nhưng phát triển liên tục, thông
qua việc hoàn thành mục tiêu của giai đoạn thứ nhất rồi tiến tới mục tiêu cuối
cùng. Song theo Mác, trong điều kiện chủ nghĩa tư bản, cách mạng vô sản chỉ có
thể nổ ra và thắng lợi trước ở các nước tư bản phát triển. Lý thuyết cách mạng
không ngừng của Mác và Ănghen vì thế mà lấy các nước tư bản phát triển làm
điểm xuất phát, khả năng ấy chưa thành hiện thực.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành
chủ nghĩa đế quốc. Trong điều kiện lịch sử ấy, kế thừa và vận dụng sáng tạo học
thuyết cách mạng không ngừng của Mác vào điều kiện nước Nga Sa hoàng, đồng
thời, Lênin đã làm phong phú thêm học thuyết này bằng những nguyên lý, những
luận điểm mới phù hợp với điều kiện khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành
chủ nghĩa đế quốc.
Khái niệm “cách mạng không ngừng” là do Lênin sáng tạo ra đã đem lại sự
thành công của cách mạng Nga vào năm 1917. Trong khí thế sôi sục của các phong
trào cách mạng Nga cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Lênin nhận thấy rõ hòa bình,
dân sinh, dân chủ trở thành mẫu số chung. Cùng một lúc ở nước Nga đã xuất hiện
tiền đề của hai cuộc cách mạng, đó là cách mạng dân chủ và cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Vì thế, cương lĩnh cách mạng do Lênin nêu ra là tiến hành một cuộc cách
mạng dân chủ triệt để rồi chuyển biến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là cuộc
cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới do giai cấp công nhân lãnh đạo. Sự hoàn thành
triệt để của cuộc cách mạng đó sẽ kiến tạo nên chiếc cầu nối trực tiếp để chuyển
sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nước Nga không thể bỏ qua cuộc cách mạng dân
chủ để tiến ngay lên cách mạng xã hội chủ nghĩa nhưng cuộc cách mạng dân chủ
mà nước Nga tiến hành cũng không dừng lại ở thắng lợi đối với chế độ xã hội
phong kiến mà phải chuyển biến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự kết nối này
11
biểu hiện ở chỗ trong cách mạng dân chủ đã giải quyết một số nhiệm vụ nhằm tạo
tiền đề để cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Còn khi chuyển sang cách mạng xã hội
chủ nghĩa thì vẫn phải tiếp tục hoàn thiện những nhiệm vụ còn lại của cách mạng
dân chủ. Sự kết nối đó gắn hai giai đoạn cách mạng vào một tiến trình tất yếu liên
tục và thống nhất. Thắng lợi của cuộc cách mạng dân chủ đến cách mạng xã hội chủ
nghĩa đã chứng minh chủ trương “cách mạng không ngừng” của Lênin có cơ sở lý
luận và có ý nghĩa thực tiễn to lớn.
Bước đột phá có tính quyết định và định hướng đi của Người cho tiến trình
cách mạng Việt Nam là từ khi Người tìm thấy chủ nghĩa Mác - Lênin qua đọc bản
“Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin
(được đăng trên báo “nhân đạo” tháng 7/1920). Bản sơ thảo luận cương của Lênin
đã trả lời được câu hỏi bức thiết nhất của thời đại cũng như của nhân dân Việt Nam.
Từ đây Nguyễn Ái Quốc đã tự mình “hòa vào” trào lưu cách mạng của thời
đại, đồng thời, Người cũng chuẩn bị cho mình những tri thức căn bản để tiếp thu
các vấn đề lý luận sâu sa của chân lý: “...Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa
nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được
rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc
bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” [42, tr. 563]. Quá
trình nhận thức của Nguyễn Ái Quốc đã trưởng thành rất nhanh chóng và đưa đến
sự hình thành ở Người một hệ thống lý luận về vấn đề dân tộc, cách mạng giải
phóng dân tộc, trước hết là cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam đã thể hiện sự
phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện hoàn
cảnh cách mạng nước ta.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Thứ nhất, thực tiễn cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt
Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, triều đình nhà Nguyễn đã đấu tranh
một cách yếu ớt, từng bước nhượng bộ và cuối cùng là đầu hàng, dâng đất nước cho
thực dân Pháp, chấp nhận làm bù nhìn, đẩy nhân dân ta rơi vào cảnh một cổ hai
12
chòng, nước mất nhà tan. Một trong những chính sách cơ bản, xuyên suốt của thực
dân Pháp chính là chia để trị. Nước Việt Nam thống nhất bị chia ra làm ba xứ với
những chế độ cai trị khác nhau: Nam kỳ là đất thuộc địa, Bắc kỳ là xứ bảo hộ,
Trung kỳ là xứ lưỡng trị. Không dừng ở đó, thực dân Pháp còn áp dụng nguyên tắc
chia để trị cả trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trải qua hai chương trình khai
thác thuộc địa do thực dân Pháp tiến hành ở Đông Dương trước và sau chiến tranh
thế giới thứ nhất, xã hội Việt Nam đã diễn ra bước chuyển biến mãnh mẽ về mọi
mặt, từ một nước phong kiến trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Lúc này, tất cả mọi người Việt Nam yêu nước không phân biệt giai cấp, tôn
giáo, dân tộc… đã đồng tâm hợp lực, đoàn kết cùng nhau đứng lên đánh đuổi bọn
xâm lược. Từ phong trào Cần Vương thuộc về hệ tư tưởng phong kiến cuối thế kỷ
XIX, cho thấy ngọn cờ phong kiến đã không còn đủ khả năng huy động và tổ chức
người dân chống giặc ngoại xâm như trước nữa “rõ ràng là đối với kẻ thù mới tư
bản chủ nghĩa phương Tây, không thể dùng vũ khí cũ đã được ông cha dùng một
cách đắc lực để đối đầu với kẻ thù phong kiến xưa kia nữa” [17, tr. 371 - 372], qua
phong trào Đông Du, Duy Tân theo xu hướng tư sản đầu thế kỷ XX, đến cuộc khởi
nghĩa Yên Bái, phong trào chống thuế ở Trung kỳ. Tất cả các phong trào trên đã
chứng minh tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta với mục tiêu
đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập cho dân tộc nhưng tất cả đều thất bại, điều
này thể hiện sự bế tắc, sự khủng hoảng về đường lối cách mạng Việt Nam.
Nhiệm vụ lịch sử lúc này đặt ra cho cách mạng Việt Nam là phải tìm ra một
con đường mới, một hệ tư tưởng mới, một giai cấp mới có đủ sức đại diện và tập
hợp được sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam, tiến hành cuộc cách mạng dân
tộc, dân chủ đi đến thắng lợi. Bằng thiên tài về trí tuệ, nhãn quan chính trị sắc bén
và cùng chung khát vọng về độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, Hồ Chí Minh đã
nhận ra những hạn chế trong đường lối đấu tranh giành độc lập dân tộc của các thế
hệ đi trước và “không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào” [51, tr. 12].
Đây chính là điểm xuất phát để Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước “muốn
13
đi ra ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ
trở về giúp đồng bào chúng ta” [49, tr. 13] giành độc lập dân tộc.
Thứ hai, thực tiễn của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sự phát triển của lực lượng sản xuất chủ
nghĩa tư bản có sự chuyển biến mạnh mẽ. Các nước chủ nghĩa tư bản phương Tây
chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền - giai đoạn đế quốc.
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển nhanh và mạnh mẽ. Tình hình đó
đã đặt ra yêu cầu bức thiết về việc mở rộng thị trường để tiêu thụ sản phẩm hàng hóa,
mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản cho chủ nghĩa
đế quốc. Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược.
Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành hiện tượng quốc tế, lan rộng trên khắp thế
giới. Chúng ra sức tranh giành, xâu xé, kìm kẹp thuộc địa và các dân tộc nhỏ yếu.
Sự áp bức và thôn tính ngày càng gia tăng thì mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa
với chủ nghĩa thực dân cũng ngày càng trở nên gay gắt.
Trong hoàn cảnh đó, trên khắp thế giới vào những năm cuối thế kỷ XIX,
trung tâm của các mạng chuyển từ chuyển từ các nước châu Âu sang nước Nga.
Vận dụng, kế thừa và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác vào tình hình mới để giải
quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra đối với phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, Lênin đã bổ sung và phát triển lý luận chủ nghĩa
Mác nhiều nội dung mới với thực tiễn cách mạng và lý luận ấy trở thành chủ nghĩa
Mác - Lênin, soi sáng con đường cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trên toàn thế giới.
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Bôsêvích
Nga đã lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Mười vĩ đại giành thắng lợi năm 1917.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng mạng Tháng Mười đã làm cho chủ nghĩa cộng sản
từ lý luận trở thành thực tiễn sinh động, không chỉ giải phóng cho giai cấp công
nhân, nông dân và nhân dân lao động, đưa họ đến địa vị của loài người là làm chủ
xã hội “Cách mạng Tháng Mười đã dùng bạo lực cách mạng đánh đổ giai cấp tư sản
và giai cấp phong kiến địa chủ, lập nên chính quyền của người lao động, xây dựng
14
một xã hội hoàn toàn mới, một xã hội không có người bóc lột người” [45, tr. 388],
mà còn làm rung chuyển thế giới, mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại,
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Cách mạng Tháng Mười đồng thời còn mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên độc lập dân tộc lên chủ nghĩa xã hội “Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Cộng sản
từ chỗ chỉ là một mơ ước cao đẹp của loài người, sau cách mạng Tháng Mười vĩ đại
đã trở thành một hiện thực trong xã hội, có sức vô cùng to lớn lôi cuốn hàng nghìn
triệu người vào hành động cách mạng, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội” [45, tr. 390].
Cách mạng Tháng Mười thành công đã phá vỡ một khâu quan trọng của hệ
thống tư bản chủ nghĩa, thành lập nhà nước đầu tiên thật sự thuộc về nhân dân lao
động. Cách mạng Tháng Mười đã đánh thức và cổ vũ đã đánh thức và cổ vũ những
người bị áp bức, bóc lột trên thế giới, khơi dạy tinh thần đấu tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công.
Sau khi giành được chính quyền, Lênin và Đảng Bôsêvích đã lãnh đạo giai
cấp công nhân và nhân dân lao động nước Nga thiết lập chính quyền Xôviết - bộ
máy nhà nước mới của nhân dân lao động. Chính quyền Xôviết đã xây dựng nhiều
chính sách hết sức tiến bộ như: Xóa bỏ phân biệt đẳng cấp, sắc tộc, tuyên bố quyền
bình đẳng nam nữ, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và thừa nhận bình đẳng và chủ
quyền giữa các dân tộc.
Đánh giá về ý nghĩa và thời đại của Cách mạng Tháng Mười, Hồ Chí Minh
đã khẳng định: “Cách mạng tháng Mười đã chặt đứt xiềng xích của chủ nghĩa đế
quốc, phá tan cơ sở của nó và giáng cho nó một đòn chí mạng. Cách mạng Tháng
Mười như tiếng sét đánh thức nhân dân châu Á thức tỉnh giấc mê hàng thế kỷ ngay
mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”
[41, tr. 163 - 164].
Như vậy, thực tiễn cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt
Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và thực tiễn của cuộc Cách mạng Tháng
15
- Xem thêm -