ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------
TRẦN THỊ HƢƠNG
TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ
TƢ TƢỞNG VIỆT NAM ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ
XX
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------
TRẦN THỊ HƢƠNG
TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ
TƢ TƢỞNG VIỆT NAM ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ
XX
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 60 22 03 01
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ THỊ LAN
HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................ 7
CHƢƠNG 1: NGUỒN GỐC CỦA TƢ TƢỞNG THÂN DÂN Ở VIỆT
NAM ................................................................................................................... 7
1.1. Quan niệm về dân trong triết học Trung Hoa cổ đại ............................ 7
1.1.1. Khái niệm dân và tư tưởng “thân dân” ............................................... 7
1.1.2. Quan niệm về dân trong học thuyết “kiêm ái” của Mặc Tử ...............10
1.1.3. Quan niệm về dân trong học thuyết “pháp trị” của Hàn Phi Tử ........12
1.2. Quan niệm về dân của Nho gia tiên Tần ...............................................14
1.2.1. Thái độ khác nhau về dân trong Nho gia tiên Tần ..............................14
1.2.2. Nhận thức của Nho gia tiên Tần về vai trò của dân ...........................18
1.2.3. Những nội dung “thân dân” của Nho gia tiên Tần.............................22
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ TƢ TƢỞNG NỔI BẬT VỀ THÂN DÂN TRONG
LỊCH SỬ TƢ TƢỞNG VIỆT NAM (QUA MỘT SỐ ĐẠI BIỂU TIÊU
BIỂU) ................................................................................................................36
2.1. Tƣ tƣởng lấy dân làm gốc của Trần Quốc Tuấn ..................................36
2.2. Tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi ....................................................39
2.2.1. Cơ sở hình thành tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi .......................39
2.2.2. Nội dung tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi ....................................43
2.3. Tƣ tƣởng dân chủ của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh ..................52
2.4. Ý nghĩa của tƣ tƣởng thân dân đối với việc xây dựng quan điểm
“lấy dân làm gốc” của Đảng ta hiện nay .....................................................62
2.4.1. Quan điểm “Lấy dân làm gốc” của Đảng ..........................................62
2.4.2. Sự kế thừa và phát triển những hạt nhân hợp lý trong truyền thống
tư tưởng thân dân của Đảng ta hiện nay ......................................................71
2.4.3. Vận dụng quan điểm “Lấy dân làm gốc” trong sự nghiệp đổi mới
đất nước hiện nay ........................................................................................75
PHẦN KẾT LUẬN ...........................................................................................84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................86
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đánh giá về vai trò của dân và giải quyết mối quan hệ giữa những ngƣời
cầm quyền với dân là một vấn đề luôn luôn đƣợc đặt ra và thể hiện những quan
điểm rất khác nhau ở các chế độ, các thời đại.
Truyền thống “thân dân”, “lấy dân làm gốc” là một tƣ tƣởng tiến bộ đã có
từ hơn 2500 năm trƣớc đây trong tƣ tƣởng Nho giáo. “Lấy dân làm gốc” cũng là
một bài học chính trị và lời dặn dò quí báu của ông cha ta thể hiện ở các triều đại
tiến bộ trong lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc mấy nghìn năm của dân tộc, đƣợc
biểu hiện trong tƣ tƣởng và hành động của nhiều vị vua anh minh thời Lý, Trần,
Lê; của nhiều nhà tƣ tƣởng nhƣ Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh, v.v….Đến chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm nhân dân là
ngƣời chủ đất nƣớc của Ngƣời là tiếp thu từ truyền thống dân tộc và từ tƣ tƣởng
dân chủ tƣ sản Pháp từ rất sớm. Có thể nói rằng tƣ tƣởng “nƣớc lấy dân làm
gốc” là tƣ tƣởng thể hiện những giá trị triết học và nhân văn sâu sắc và nhất
quán trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Ngƣời.
Quan điểm đó còn biểu hiện sự thấm nhuần quan điểm triết học Mác – Lênin về
vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân lao động, biểu hiện ở quan
điểm nhân văn cao cả của Bác, luôn chăm lo xây dựng, bồi dƣỡng giáo dục và
phát triển nhân tố con ngƣời. Đó chính là sự kế thừa và phát triển những giá trị
tƣ tƣởng Triết học phƣơng Đông, Việt Nam và thế giới trong thời đại mới.
Tƣ tƣởng “Lấy dân làm gốc” không chỉ đã trở thành nội dung, mục tiêu
chủ yếu mà còn là cơ sở, là căn cứ để hình thành và triển khai đƣờng lối cai trị,
quản lý xã hội của các triều đại phong kiến Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
quá trình xây dựng và phát triển đất nƣớc. Ngày nay, việc phát huy tinh thần
“Lấy dân làm gốc” đã trở thành bài học quý giá cho Đảng và Nhà nƣớc ta trong
quá trình lãnh đạo nhân dân thực hiện những mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1
Đảng ta ngay từ khi mới thành lập, xuất phát từ lợi ích của dân đã gắn bó
chặt chẽ với dân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã thật
sự đƣợc nhân dân yêu mến, tin cậy và ủng hộ.
Bài học “nƣớc lấy dân làm gốc” đƣợc Đảng tổng kết trong nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12–1986) có giá trị vô cùng to lớn đối
với sự nghiệp đổi mới của đất nƣớc ta. Đây chính là sự kế thừa tƣ tƣởng “lấy
dân làm gốc” của các nhà tƣ tƣởng dân tộc, của Nguyễn Trãi, của chủ tịch Hồ
Chí Minh, đồng thời là sự đúc rút từ lý luận và thực tiễn lãnh đạo cách mạng
Việt Nam của Đảng.
Sự nghiệp đổi mới xã hội hiện nay của chúng ta do Đảng cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, là công việc to lớn, lâu dài, không ít khó khăn gian khổ, nhằm
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp ấy đòi hỏi hơn bao giờ hết,
phải phát huy cao nhất sự sáng tạo cách mạng của quần chúng nhân dân lao
động. Chân lý “lấy dân làm gốc” tƣởng nhƣ đơn giản, nhƣng trên thực tế tổ chức
thực tiễn cách mạng vẫn chƣa phát huy đƣợc hết sức mạnh to lớn của quần
chúng nhân dân lao động. Do đó, việc quán triệt tƣ tƣởng “lấy dân làm gốc” của
Đảng vừa là mục đích, vừa là động lực để chúng ta nhanh chóng đạt tới thắng lợi
các mục tiêu đổi mới xã hội. Từ việc thấm nhuần tƣ tƣởng “lấy dân làm gốc”
của Bác Hồ, của Đảng cộng sản Việt Nam mà chúng ta có những giải pháp hiện
thực hóa nó bằng thực tiễn cách mạng.
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài “Tƣ tƣởng thân dân trong lịch sử tƣ
tƣởng Việt Nam đến thế kỷ XX” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ
Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu tƣ tƣởng về dân nói chung và tƣ tƣởng thân dân nói riêng là
một vấn đề lớn, đã đƣợc nhiều ngƣời quan tâm nghiên cứu. Liên quan đến đề tài
luận văn, có thể khái quát một số công trình tiêu biểu sau:
(1). Trong tác phẩm Đại cƣơng lịch sử văn hóa Trung Quốc (do các giáo
sƣ Ngô Vĩnh Chính, Vƣơng Miện Quý chủ biên – NXB Văn hóa Thông tin,
2
1994). Các tác giả đã khẳng định tính nhân văn, nhân bản của Nho giáo. Theo
quan điểm của các tác giả này, Nho giáo luôn xem dân là rƣờng cột của xã tắc,
nhƣng cũng đề cao một cách phiến diện việc giáo dục đạo đức nhân luân, coi
thƣờng lao động chân tay và không quan tâm đến việc dạy kỹ thuật lao động cho
dân chúng.
(2). Trần Trọng Kim trong tác phẩm Nho giáo (NXB Thành phố Hồ Chí
Minh, 1992), đã nhìn nhận Nho giáo không chỉ là học thuyết chính trị xã hội,
học thuyết đạo đức mà còn là học thuyết triết học. Tác giả đã trình bày nhiều
phạm trù, nguyên lý cơ bản của Nho giáo trong sự phát triển của chúng. Bên
cạnh đó, tác giả còn bàn đến nhiều nội dung, khía cạnh trong một số khái niệm
về dân, về vai trò của dân và một số nội dung trong tƣ tƣởng thân dân của Nho
giáo. Đặc biệt trong tác phẩm này, tác giả hết sức đề cao những giá trị của Nho
giáo trong bối cảnh mà đa số ngƣời Việt Nam lúc bấy giờ hoài nghi, xa lánh và
ghét bỏ.
(3). Trong cuốn Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, (Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1993) do Nguyễn Tài Thƣ chủ biên, các tác giả đã phân tích sự phát
triển của tƣ tƣởng Việt Nam qua các thời kỳ (từ khi Nho giáo du nhập vào Việt
Nam đến cuối thế kỉ XVIII). Đặc biệt là từ chƣơng XIV, các tác giả đã trình bày
một cách khái quát về Nho giáo và tình hình chính trị – xã hội, văn hóa và tƣ
tƣởng thời Lý, Trần và Lê Sơ. Bên cạnh đó các tác giả cũng phân tích quan điểm
của các nhà tƣ tƣởng Việt Nam nhƣ Lý Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn
Trãi, Lê Thánh Tông.
(4). Cuốn Học thuyết chính trị – xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng của
nó ở Việt Nam (từ thế kỉ XI đến nửa đầu thế kỉ XIX) của tác giả Nguyễn Thanh
Bình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007. Nhìn nhận Nho giáo với tƣ cách là
học thuyết chính trị – xã hội, tác giả đã trình bày một cách khái quát những nội
dung chủ yếu trong học thuyết, những ảnh hƣởng và vai trò của Nho giáo trong
một số lĩnh vực chủ yếu của xã hội và con ngƣời Việt Nam trong lịch sử, nhất là
việc hoạch định đƣờng lối cai trị và quản lý xã hội của giai cấp phong kiến Việt
3
Nam. Khi phân tích một số biện pháp chủ yếu trong tƣ tƣởng về đƣờng lối đức
trị của Nho giáo, tác giả đã chỉ ra và phân tích quan niệm Nho giáo, nhất là Nho
giáo tiên Tần về vai trò của dân trong việc thực hiện đƣờng lối đức trị. Trong
cuốn sách, tác giả khẳng định Nho giáo luôn quan tâm tới dân, đặc biệt đến vai
trò của dân. Tác giả còn cho rằng, theo các nhà Nho, có xác định đƣợc đầy đủ
vai trò của dân mới xác định đƣợc địa vị xã hội của họ và định ra thái độ trách
nhiệm của tầng lớp thống trị đối với họ.
(5). Trong văn kiện của Đảng ta nhƣ: Nghị quyết Trung Ương 8 (khóa
VI) ra nghị quyết 8B (ngày 27/3/1990) quán triệt tƣ tƣởng “lấy dân làm gốc”,
đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cƣờng mối quan hệ giữa Đảng và
nhân dân, nhấn mạnh quan điểm: cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì
dân, Nghị quyết Trung ương 3 (khóa7), Đại hội VIII (1996), đại hội IX
(2001), đại hội X (2006) của Đảng, đại hội XI (2011) nhiều bài nói và viết của
các đồng chí lãnh đạo Đảng, nhà nƣớc và các đoàn thể nhân dân (Nguyễn Văn
Linh, Đỗ Mƣời,...) nói về vai trò của dân, về mối quan hệ giữa Đảng và dân, và
về bài học “lấy dân làm gốc” trong sự nghiệp cách mạng và trong công cuộc đổi
mới ngày nay....
Ngoài những công trình nghiên cứu trên đây, liên quan đến nội dung đề
tài luận văn còn có những công trình nghiên cứu khoa học khác nhƣ: Một số
quan niệm về dân thời Lý – Trần của tác giả Vũ Văn Vinh đăng trên Tạp chí
triết học, (số 01 – 1998), tr26 – 28; Tư tưởng yêu nước thương dân của Nguyễn
Trãi của tác giả Nguyễn Thu Nghĩa đăng trên Tạp chí triết học, (số 2 –1999),
tr.29 – 30; Hay Lịch sử triết học Phương Đông (gồm 5 tập) của Nguyễn Đăng
Thục; Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam
hiện nay (Nguyễn Tài Thƣ chủ biên) và một số luận án, luận văn đã đƣợc bảo vệ
nhƣ: Quan niệm về dân và tư tưởng thân dân trong Luận ngữ , Mạnh Tử của
Hoàng Thị Bình; Từ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đến tư tưởng “Lấy
dân làm gốc” của Hồ Chí Minh, Đỗ Thị Hồng Thu, Khoa Việt Nam học –
Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội; Tư tưởng về Dân trong Nho giáo tiên Tần và
4
ảnh hưởng của nó đối với tư tưởng Việt Nam (từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV của
Trƣơng Thị Thảo Nguyên, ngành Triết học….
Có thể thấy đề tài luận văn là một miền đất “quen mà lạ”. “Quen” bởi đã
có những ngƣời đi qua để lại những lời bình luận, đánh giá bổ ích. “Lạ” vì chƣa
có ai đặt vấn đề nghiên cứu một cách hệ thống tƣ tƣởng thân dân và sự kế thừa
truyền thống này của Đảng ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: Làm rõ sự phát triển của tƣ tƣởng thân dân trong
lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam đến đầu thế kỷ XX và sự kế thừa quan điểm “lấy dân
làm gốc” của Đảng ta trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc ta
hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn:
– Phân tích nguồn gốc và nội dung của tƣ tƣởng thân dân trong lịch sử tƣ
tƣởng Việt Nam.
– Làm rõ sự kế thừa, tƣ tƣởng thân dân, “lấy dân làm gốc” của Đảng
hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận
Quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng của chủ
tịch Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của quần
chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phƣơng pháp lịch sử – logic, phân tích, so sánh, tổng hợp...
5. Cái mới của luận văn
– Khái quát và hệ thống hóa những tƣ tƣởng chủ yếu về dân, vai trò của
dân, quan điểm thân dân trong lịch sử tƣ tƣởng dân tộc.
5
– Nêu bật ý nghĩa sự kế thừa, phát triển tƣ tƣởng thân dân trong lịch sử
dân tộc trong việc xây dựng quan điểm “lấy dân làm gốc” của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những phân tích, luận giải của luận văn nhằm làm sáng tỏ những giá trị
của tƣ tƣởng thân dân trong lịch sử dựng nƣớc và ý nghĩa của nó đối với việc
xác lập quan điểm “lấy dân làm gốc” của Đảng và chính phủ nhằm phát huy
mạnh mẽ vai trò của quần chúng nhân dân trong xây dựng và phát triển đất nƣớc
giai đoạn hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và
giảng dạy bộ môn: Lịch sử tƣ tƣởng triết học Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn
giúp cho đội ngũ cán bộ đảng viên, các cấp ủy Đảng và chính quyền thấm nhuần
hơn nữa quan điểm “lấy dân làm gốc” của Đảng và phát huy mạnh mẽ vai trò
tích cực của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm có 2 chƣơng, 6 tiết.
Chƣơng 1. Nguồn gốc của tư tưởng thân dân ở Việt Nam, với 2 tiết
Chƣơng 2. Một số tư tưởng nổi bật về thân dân trong lịch sử tư tưởng
Việt Nam (Qua một số đại biểu tiêu biểu), với 4 tiết.
6
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NGUỒN GỐC CỦA TƢ TƢỞNG THÂN DÂN Ở VIỆT NAM
1.1. Quan niệm về dân trong triết học Trung Hoa cổ đại
1.1.1. Khái niệm dân và tƣ tƣởng “thân dân”
Để có thể nắm bắt đƣợc đầy đủ quan niệm về dân trong triết học Trung
Hoa cũng nhƣ những nội dung liên quan đến dân ở thời đại ngày nay, chúng ta
cần xem xét nội hàm khái niệm Dân và tƣ tƣởng thân dân. Dân là một khái niệm
rất cơ bản trong lịch sử tƣ tƣởng chính trị – xã hội. Khái niệm này đã xuất hiện
từ xa xƣa, đƣợc sử dụng rất phổ biến trong các di sản văn thơ của ông cha ta và
trong văn học dân gian qua các thời kỳ lịch sử. Nó còn đƣợc dùng thƣờng xuyên
trong ngôn ngữ hiện đại đời thƣờng, trong báo chí và cả trong các văn kiện
chính thức của Đảng, Nhà nƣớc ta hiện nay.
Tuy nhiên để làm rõ đƣợc một khái niệm, nhất là một khái niệm có nội
hàm rộng nhƣ khái niệm “Dân” là không hề đơn giản. Trƣớc tiên, tác giả sử
dụng cuốn từ điển Triết học và từ điển tiếng Việt là những cuốn sách không xa
lạ gì với những ngƣời nghiên cứu Triết học và Khoa học xã hội để thống nhất
định nghĩa về “dân”. Trong cuốn từ điển tiếng Việt (do Lê Văn Tân chủ biên –
Nxb. Khoa học Xã hội, 1967) có trình bày cả hai khái niệm “Dân” và “Nhân
dân”. Hai khái niệm này về cơ bản là giống nhau, có thể thay thế đƣợc cho nhau.
Tuy vậy, chúng không phải là đồng nhất tuyệt đối và không thể thay thế cho
nhau trong mọi trƣờng hợp. Ví dụ: không thể thay thế cụm từ “vấn đề dân cày”
bằng “Vấn đề nhân dân cày”. Vì vậy cần tìm hiểu cả hai khái niệm đó.
Về khái niệm “Nhân dân”, qua những định nghĩa của các tác giả các từ
điển có thể rút ra mấy điểm chung về khái niệm “Nhân dân” với ý nghĩa khoa
học chặt chẽ nhƣ sau:
7
– Nhân dân là một khái niệm có ý nghĩa chính trị, hình thành trong xã
hội đã phân chia thành giai cấp, thành các tập đoàn ngƣời có địa vị và lợi ích
khác nhau.
– Nhân dân không đồng nhất hoàn toàn với dân cƣ, Nhân dân là khối
ngƣời đông đảo trong dân cƣ chứ không phải toàn bộ dân cƣ.
– Nhân dân gồm những ngƣời thuộc giai cấp và tầng lớp lao động không
bóc lột, trực tiếp sản xuất ra của cải cho xã hội, có khả năng tham gia giải quyết
nhiệm vụ phát triển xã hội.
Còn về khái niệm “Dân”, cách nêu của mỗi cuốn từ điển lại có sự khác
nhau. Trong cuốn Từ điển tiếng Việt (do Lê Văn Tân chủ biên – 1976) có nêu
khái niệm dân với năm nghĩa nhƣ sau:
1. Từ dùng để gọi chung ngƣời trong một nƣớc: nhƣ Dân Việt Nam;
2. Quần chúng đông đảo gồm có: công nhân, nông dân, nhân dân lao động
trong một nƣớc có bóc lột;
3. Quần chúng đông đảo nói chung;
4. Công dân trong một địa phƣơng: Dân Hà Nội;
5. Những ngƣời thuộc một tầng lớp xã hội.
Trong từ điển tiếng Việt (do Hoàng Phê chủ biên – 1994) nêu khái niệm
dân với ba nghĩa:
1. Ngƣời sống trong một khu vực địa lý hành chính, trong quan hệ với
khu vực ấy. Ví dụ: Dân giàu nƣớc mạnh; Làm dân một nƣớc độc lập; Thành phố
đông dân;
2. Ngƣời dân thuộc tầng lớp đông đảo nhất, trong quan hệ với bộ phận
cầm quyền, bộ phận lãnh đạo hoặc quân đội. Ví dụ: Ngƣời dân thƣờng; tình
quân dân;
3. Ngƣời cùng nghề nghiệp, hoàn cảnh… làm thành một lớp ngƣời riêng.
Ví dụ: Dân thợ, dân buôn, dân ngụ cƣ.
Nhìn chung, trong các cuốn từ điển tiếng Việt, nghĩa cơ bản của khái
niệm “Dân” và “Nhân dân” là giống nhau, nhiều trƣờng hợp có nghĩa đồng nhất,
8
có thể sử dụng thay thế cho nhau. Điều đó phù hợp với thực tế trong khẩu ngữ
và cả trong ngôn ngữ văn bản tiếng Việt.
Từ việc phân tích các mối quan hệ, các bình diện, các khía cạnh khác
nhau về Dân, ta có thể khái quát: “Dân là một khái niệm xuất hiện và tồn tại
trong xã hội có giai cấp, có nhà nƣớc, dùng để chỉ những ngƣời lao động bình
thƣờng, đông đảo, không có chức quyền và tƣơng phản với những ngƣời cầm
quyền cai trị ở các địa bàn lãnh thổ, các nghề nghiệp khác nhau trong lĩnh vực
sản xuất vật chất và hoạt động tinh thần của một xã hội nhất định”. Do đó, Khái
niệm “Dân” mang màu sắc và ý nghĩa chính trị khá rõ rệt, phần nào phản ánh
đƣợc các mối quan hệ xã hội. Trong xã hội phong kiến, tuy không còn bị xem là
những công cụ lao động biết nói nhƣng dân vẫn nằm trong địa vị phụ thuộc mà
chế độ phong kiến Trung Quốc gọi là “thần dân”. Thần, nghĩa đen là bề tôi, là
tầng lớp quan lại phải chịu khuất phục, chịu sự chi phối của nhà vua và dĩ nhiên,
theo trật tự xã hội, thần dân phải xếp dƣới tầng lớp quan lại. Điều này không
phải ở phƣơng Đông mà dƣới chế độ phong kiến ở các nƣớc phƣơng Tây, tình
hình này cũng diễn ra tƣơng tự. Thần dân, tiếng Pháp là Sujets (nghĩa đen là phụ
thuộc, là phải phục tùng), tiếng Anh là Subject (là khuất phục, là bắt phải chịu),
theo tiếng Nga là chịu, là bị, là ngả theo. Nhƣ vậy, dân với tƣ cách là thần dân là
những ngƣời thuộc sở hữu của vua. Chỉ trong xã hội hiện đại: xã hội Tƣ bản và
xã hội Xã hội chủ nghĩa vai trò của ngƣời dân mới đƣợc nhận thức đầy đủ.
Ngƣời dân đƣợc đặt trong quan hệ về mặt quyền lợi và nghĩa vụ với nhà nƣớc.
Ngƣời dân có quyền bầu cử, bầu ra những ngƣời xứng đáng vào bộ máy nhà
nƣớc, có thể đại diện cho quyền lợi của mình thì khi đó dân mới có tƣ cách là
công dân.
Từ định nghĩa về “dân” nhƣ trên, chúng ta đi vào tìm hiểu về tƣ tƣởng
“thân dân”. Tƣ tƣởng “thân dân” là một trong những tƣ tƣởng lớn và quan trọng
của lịch sử tƣ tƣởng chính trị Trung Quốc và Việt Nam, đƣợc hình thành và phát
triển xuyên suốt chiều dài lịch sử của nƣớc ta. “Thân dân” có nghĩa là gần gũi,
gắn bó, quý trọng nhân dân. Nhà nƣớc lấy dân làm gốc, phải biết tin tƣởng vào
9
dân, dựa vào dân để xây dựng phát triển đất nƣớc và phải biết quan tâm đến đời
sống nhân dân, chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân thì mới có đƣợc sự tin
tƣởng và ủng hộ của nhân dân.
Nhƣ vậy, “thân dân” có nghĩa là phải hiểu dân, nghe đƣợc dân nói, nói
đƣợc cho dân nghe, làm đƣợc cho dân tin, là nhận biết đƣợc những nhu cầu, tình
cảm, suy nghĩ, mong muốn của ngƣời dân. Và ngƣời lãnh đạo, quản lý phải biết
phát hiện và đáp ứng kịp thời những nhu cầu và lợi ích thiết thực của dân; là
nhìn thấy cả cái thực tại và vạch ra đƣợc viễn cảnh (tƣơng lai) đúng đắn cho dân
phát triển; là biết chia sẻ, đồng cảm và gần gũi với cuộc sống của dân, mọi suy
nghĩ và hành động đều xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của dân, phản ánh đúng
tâm tƣ, tình cảm, nguyện vọng của dân.
1.1.2. Quan niệm về dân trong học thuyết “kiêm ái” của Mặc Tử
Mặc Tử (khoảng 478 - 392 trƣớc Công Nguyên) là ngƣời sáng lập Mặc
Gia - một trong sáu hệ phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, nổi sáng ở thời
Chiến Quốc, sang đến đời Hán thì chấm dứt, nhƣng đến cuối đời Minh, đầu đời
Thanh lại đƣợc phục hƣng. Ông là ngƣời thuộc tầng lớp bình dân, sản xuất nhỏ.
Từ chỗ cảm thông và lo âu với lớp dân nghèo khốn khổ, ông chủ trƣơng theo Hạ
Lễ, kêu gọi thực hành thuyết “kiêm ái”, xem đó là phƣơng sách cứu cánh xã hội
Trung Hoa thời Xuân Thu - Chiến Quốc từ hỗn loạn, suy vong đến thái bình
thịnh trị. Thuyết “kiêm ái”- chủ thuyết đạo đức cơ bản của Mặc Tử, với tƣ tƣởng
chủ đạo là khởi xƣớng và xây dựng tình yêu thƣơng con ngƣời, tình đồng loại,
hàm chứa những giá trị nhân bản sâu sắc, quyện bền vào tâm thức của con ngƣời
từ nhiều thế hệ. Nếu nhƣ Khổng Tử chủ trƣơng “yêu thƣơng ngƣời thân, quý
trọng ngƣời sang”, thì sự yêu thƣơng của Mặc Tử đã vƣợt qua giới hạn phân
chia giai cấp, phân biệt mình - ngƣời, thân - sơ, quý - tiện. Không chỉ trong tƣ
tƣởng, mà chính hành động nghĩa hiệp trong suốt cuộc đời của ông đã nói lên
điều đó.
Mặc Tử chủ trƣơng một chính quyền có hiệu lực và tập trung, nhƣng lại
phản đối sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội. Mặc Tử lên án “Vƣơng công
10
đại nhân” “bóc lột, sống dựa vào sức của “nông phu chức phụ” (dân lao động).
Ông đòi hỏi ngƣời cầm quyền “làm điều lợi, bỏ điều hại” cho dân, phải chọn
ngƣời hiền tài để làm và làm việc hình chính thực sự. Ông phản đối việc dùng
ngƣời dựa vào họ hàng, dựa vào đẳng cấp. Mặc Tử tôn thờ Trời, nhấn mạnh
“thiên chí”, nhƣng chống lại thuyết “thiên mệnh”. Ông nhấn mạnh dân đều là
con Trời để đòi hỏi một thứ bình đẳng xã hội, một cách tuyển chọn hiền tài và
một đời sống dựa vào lực của từng ngƣời. Đó là tƣ tƣởng phản kháng truyền
thống của bình dân, của những ngƣời nông phu, chức phụ.
Có thể nói, “kiêm ái” là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả cuộc đời và tƣ tƣởng của
Mặc Tử. Chủ thuyết “kiêm ái” đã mang trong mình những giá trị nhân bản sâu
sắc, mang hoài vọng của đông đảo nhân dân tầng lớp dƣới của xã hội Trung Quốc
lúc bấy giờ. “Kiêm ái” đã lấy tình yêu thƣơng để thức tỉnh lƣơng tri, xoa dịu lòng
ngƣời, phản đối bạo lực phi nghĩa, tranh đoạt nhau tàn khốc… Kiêm ái – tình yêu
thƣơng giữa con ngƣời, đồng loại với nhau là một chân lý trƣờng tồn trong xã hội.
Tình yêu thƣơng con ngƣời chính là gốc rễ của đức và đức lấy đó làm kế sách lâu
dài để cảm biến lòng ngƣời, thâu phục nhân tâm, hóa giải hận thù tranh đoạt nhau.
Đó chính là ý nghĩa nhân bản và tiến bộ của thuyết “kiêm ái”.
Tất nhiên, cả Trung Hoa cổ đại và nhân loại ngày nay đều cần đến “kiêm
ái”, nhƣng xét trong toàn cục lịch sử tƣ tƣởng Trung Quốc thì vị thế Mặc học
quá ƣ mờ nhạt là một thực tế. Nguyên do rất đơn giản, đó là lý tƣởng “kiêm ái”
thiếu thuyết phục, mang tính phi giai cấp, không thiết thực. Khi thiên hạ đã
chuyển từ công hữu sang tƣ hữu, xã hội phân hoá thứ bậc quý - tiện, sang - hèn,
của cải và quyền lực dồn tụ vào trong tay một thiểu số ngƣời là không thể nào
ngăn cản đƣợc, thì làm sao có thể thực hành “kiêm ái”, làm sao bậc vƣơng công,
quý tộc có thể quý trọng, yêu thƣơng dân nhƣ chính bản thân mình đƣợc? Có thể
nói, học thuyết “kiêm ái” của Mặc Tử chỉ là giải pháp cho phần ngọn, chứ
không cho phần gốc. Không chỉ có vậy, do “kiêm ái” cũng nhƣ Mặc học không
dung nạp vào bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, nên trong suốt thời kỳ chuyên
chế, chúng luôn bị cấm đoán, bài xích; bị cho là “quái dị”, “phi thánh vô pháp”...
11
Sự thật, trong chế độ phong kiến chuyên chế, dƣới nhãn quan của giai cấp thống
trị thì chỉ có vƣơng đạo, còn dân làm gì có đạo. Do đó, dân đạo của Mặc Tử
không những không là công cụ tinh thần cho các thế lực thống trị đƣơng thời,
trở nên lạc điệu với mọi triều đại chuyên chế, mà thậm chí còn trở nên nguy
hiểm, nên Mặc đạo còn luôn bị phỉ báng là tà đạo. Đó có lẽ là nguyên nhân
chính khiến cho Mặc học sớm bị lu mờ và đi vào quên lãng.
1.1.3. Quan niệm về dân trong học thuyết “pháp trị” của Hàn Phi Tử
Pháp gia đƣợc biết đến với tƣ cách một trong bốn trƣờng phái lớn nhất
của hệ thống tƣ tƣởng triết học Trung Quốc thời cổ đại. Trong số các đại biểu
lớn của trƣờng phái này, Hàn Phi Tử đƣợc coi là ngƣời tập đại thành tƣ tƣởng
Pháp gia. Chính vì vậy, vấn đề con ngƣời trong triết thuyết chính trị của ông là
sự tập hợp đầy đủ toàn bộ nội dung căn bản về vấn đề này của trƣờng phái Pháp
gia. Bên cạnh đó, khi nghiên cứu vấn đề này, chúng ta có thể thấy, Pháp gia
thƣờng đƣợc đề cập tới nhƣ một thứ công cụ để trị ngƣời hơn là dạy ngƣời và
dùng ngƣời. Mặt khác, khi nghiên cứu vấn đề con ngƣời trong tƣ tƣởng Hàn Phi,
chúng ta bắt gặp không ít vấn đề của xã hội hiện tại, những giá trị mới trong
những nội dung tƣởng nhƣ đã cũ.
Pháp gia chủ trƣơng xây dựng một chính quyền thống nhất và tập trung
nhƣng không coi nguồn gốc của nhà nƣớc là ở mệnh Trời. Ngƣời làm vua dùng
sức mạnh mà giành lấy nƣớc, lấy dân. Nƣớc và dân là của vua, vua có toàn
quyền sử dụng theo ý mình. Mọi việc chính sự là do vua và vì vua. Dân là những
con ngƣời có tính “tự vị” (ích kỷ, vì mình), ham sống, ham giàu, ham sang, thích
thƣởng, sợ phạt. Thẳng thắn nhìn vào con ngƣời với tƣ cách một sinh vật mang
bản chất hám lợi và ích kỷ, Hàn Phi chấp nhận sự tồn tại một cách tự nhiên và
phổ biến của dạng ngƣời này nhƣ một sản phẩm tất yếu của quá trình phát triển.
Theo ông, đã có thời kỳ lịch sử con ngƣời không đặt cái lợi ích lên hàng đầu, đó
là thời thƣợng cổ. Lúc đó, “đàn ông không cày vì các sản phẩm của cây, cỏ đủ
để ăn; đàn bà không dệt vì da của chim muông đủ để mặc: Không phải vất vả mà
việc nuôi dƣỡng có đủ, số ngƣời thì ít mà tài sản thì có thừa. Vì vậy cho nên
12
nhân dân không phải tranh giành. Bởi vậy không cần phải thƣởng hậu, không
phải dùng hình phạt nặng mà nhân dân tự nhiên trị an” [38, tr.540]. Về sau, con
ngƣời đông lên còn của cải ít đi, nên mặc dù họ đã cố gắng, vất vả làm việc
nhƣng vẫn không đủ sống. Lúc này, xã hội bắt đầu nảy sinh sự tranh giành của
cải, cƣớp bóc lẫn nhau, và xã hội vì thế mà loạn. Ông đã đánh giá xã hội đƣơng
thời và phê phán chế độ quân chủ một cách sắc bén và thẳng thắn. Trong hệ
thống triết học - chính trị của Hàn Phi, mỗi con ngƣời với tƣ cách cá nhân đều bị
“lột trần” cái vỏ bọc bề ngoài để hiện ra với nguyên nghĩa cá thể cần những giá
trị căn bản bên trong nhƣ nhau để tồn tại. Theo Hàn Phi, bản chất hám lợi và sợ
hãi ấy của con ngƣời là cái không thể che giấu, sửa đổi, nhƣng nếu biết sử dụng
nó sao cho hợp lý trong các mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời thì nó sẽ đem lại
hiệu quả nhất định.
Đối với Hàn Phi, các đời Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ đều làm trái cái
nghĩa thông thƣờng, làm cho việc giáo hoá đời sau bị rối loạn. Cho rằng, đức
dày không đủ để ngăn cấm điều loạn nhƣng uy thế thì có thể, ông phản đối cách
đề cao các bậc đế vƣơng theo lối học thuật để dạy dân. Theo Hàn Phi, hình phạt
là gốc của lòng thƣơng, xét cái đạo hiếu đễ, trung thuận cho kỹ mà thi hành.
Chính vì thế, quan niệm của Hàn Phi không quá khó hiểu nhƣng cũng không hẳn
là dễ áp dụng. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn có thể nhận thấy, đằng sau những nội
dung xử thế tƣởng nhƣ khá cực đoan là một Hàn Phi với cách nhìn khách quan,
thẳng thắn, biện chứng về mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời mà không phải nhà
tƣ tƣởng nào cũng có đƣợc và dám nhắc đến. Tuy nhiên, dƣới chế độ quân chủ,
trong xã hội chỉ có một cá thể có quyền cao nhất, đó là nhà vua. Vì thế, về
nguyên tắc, đạo là nguyên lý chung để con ngƣời tồn tại, nhƣng trên thực tế, thi
hành đạo chỉ có nhà vua và chỉ có đạo của vua chúa. Nhà vua phải thông qua hệ
thống pháp luật, dựa vào thế và thuật của mình để vận hành bộ máy quan lại và
cai trị nhân dân. Nói cách khác, nội dung phƣơng pháp giáo hoá đạo làm ngƣời
cho dân theo tƣ tƣởng của Hàn Phi tập trung vào ba phạm trù căn bản: pháp, thế,
thuật. Dùng “thế” (chức vụ), dùng “thuật” (thủ đoạn), biết cách thƣởng phạt,
13
thƣởng hậu và phạt nặng, bắt dân làm việc. Pháp gia phản đối cái chức năng làm
cha, làm thầy của ngƣời cầm quyền, phản đối lối cai trị bằng đức, bằng lễ mà
chủ trƣơng nắm quyền làm chủ, cai trị bằng pháp lệnh. Pháp lệnh coi dân nhƣ
nhau, không phân biệt theo thân sơ, theo đẳng cấp. Đó chính là tính công bằng
của pháp luật.
Nhìn chung, học thuyết Pháp trị của Hàn Phi đƣợc xây dựng và hoàn thiện
dựa trên những tiền đề lý luận và thực tiễn chắc chắn. Ông đề cao vai trò của
pháp luật và coi trọng việc giáo dục. Cho nên, với Hàn Phi, hình phạt là gốc của
lòng thƣơng, sự giáo dục cần phải đƣợc tiến hành sớm và liên tục để ngăn chặn
mọi cơ hội biểu hiện bản chất vụ lợi của con ngƣời. Có thể nói, Hàn Phi đã ghi
dấu ấn của mình vào lịch sử tƣ tƣởng Trung Quốc nói riêng và lịch sử tƣ tƣởng
nhân loại nói chung với một học thuyết dám nhìn thẳng vào sự thật và khẳng
định những giá trị lợi ích căn bản là động cơ cho mọi hành động của con ngƣời,
bóc trần mọi quan hệ giả tạo giữa ngƣời với ngƣời, phê phán chế độ quân chủ từ
bên trong. Tuy nhiên, cũng có thể thấy rằng, quan điểm của Hàn Phi về con
ngƣời còn nhiều hạn chế, nhất là việc ông chỉ thấy khía cạnh vụ lợi của con
ngƣời mà không thấy con ngƣời còn có rất nhiều lý tƣởng cao đẹp để phấn đấu
và hy sinh. Đồng thời, ở một khía cạnh nhất định, mục tiêu xây dựng lý luận của
ông là nhằm tạo ra một công cụ phục vụ cho nhà vua củng cố địa vị và quyền
lực độc tôn của mình. Cho nên, con ngƣời (ngƣời dân) trong học thuyết của ông
luôn ở địa vị thấp hèn và bị phụ thuộc. Sự bình đẳng của con ngƣời trƣớc pháp
luật là sự bình đẳng về thân phận ngƣời nô lệ dƣới ngai vàng của nhà vua.
1.2. Quan niệm về dân của Nho gia tiên Tần
1.2.1. Thái độ khác nhau về dân trong Nho gia tiên Tần
Trong Nho gia Tiên Tần luôn song song tồn tại hai thái độ đối lập về dân,
vừa khinh dân, ức dân, lại vừa thân dân, coi dân là đối tƣợng cần đƣợc quan tâm,
dạy dỗ. Điều đó xuất phát từ nhận thức của họ về địa vị thấp kém và vai trò quan
trọng của dân trong xã hội.
* Tƣ tƣởng “khinh dân”, “ức dân”
14
Trong các cuốn sách đƣợc xem là kinh điển chủ yếu của Nho giáo tiên
Tần nhƣ sách Luận ngữ, sách Mạnh Tử, sách Tuân Tử, thì dân đƣợc đặt trong
mối quan hệ đối lập với tầng lớp khác – tầng lớp trị dân (vua và quan). Cơ sở và
căn cứ chủ yếu để các nhà Nho tiên Tần phân biệt và chỉ ra sự khác nhau giữa
hai tầng lớp này là do sự khác nhau chủ yếu về đạo đức và tài trí, về địa vị và về
vai trò xã hội của các tầng lớp này. Chính quan hệ đối lập này khiến các nhà
Nho tiên Tần còn có một số quan điểm hạn chế về dân. Đó là các nhà Nho còn
có tƣ tƣởng “khinh dân”, “ức dân”, coi những ngƣời lao động chân tay chiếm số
đông trong dân cƣ là hạng tiểu nhân, hèn kém, ngu dốt, chỉ để sai khiến.
Theo quan điểm của các nhà Nho tiên Tần, dân là những ngƣời bị sai
khiến, bị điều khiển. Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử luôn khẳng định địa vị xã
hội của ngƣời dân là những ngƣời nô lệ, bị trị, họ luôn chịu sự sai khiến, cai trị
của tầng lớp thống trị (hay tầng lớp cầm quyền, cai trị gồm nhà vua và đội ngũ
quan lại các cấp). Với ý nghĩa nhƣ vậy thì Dân có nhiều cách gọi khác nhau
Dân đƣợc các nhà Nho tiên Tần xem là những ngƣời không có hoặc hèn
kém về đạo đức, về trí tuệ, lại là những ngƣời bị sai khiến, bị cai trị, cho nên,
dân đƣợc gọi là kẻ “tiểu nhân” và đối lập với ngƣời quân tử. Trong sách Luận
ngữ, chữ “tiểu nhân” – ý chỉ ngƣời dân, đƣợc nhắc đến khoảng hai mƣơi lần.
Cách gọi này chiếm tỷ lệ cao hơn so với cách gọi khác nhằm chỉ “dân” là ngƣời
bị điều khiển, bị thống trị. Trong cách nhìn và quan niệm của các nhà Nho tiên
Tần, dân với tên gọi là kẻ tiểu nhân, là hạng ngƣời không có địa vị và nhất là
không có vai trò, sức mạnh to lớn nhƣ ngƣời quân tử. Khổng Tử nói: “Đức hạnh
của ngƣời quân tử (ngƣời trị dân) nhƣ gió, mà đức hạnh của dân nhƣ cỏ. Gió
thổi thì tất cỏ rạp xuống” [25, tr.205]. Khổng Tử còn cho rằng sở dĩ dân là ngƣời
bị cai trị, bị sai khiến, bị điều khiển là vì họ là kẻ “hạ ngu”. Hạ ngu là chỉ tầng
lớp hèn kém về trí tuệ, là hạng ngƣời không có tài trí, họ là ngƣời đối lập với
những ngƣời hiền, ngƣời trí, ngƣời quân tử. Sử dụng thuật ngữ “hạ ngu” để chỉ
ngƣời dân cho chúng ta thấy, Khổng Tử khinh miệt tầng lớp dân đen, nô lệ trong
xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ. Những kẻ “hạ ngu” có học đi chăng nữa cũng
15
không thể hiểu đƣợc đạo lý, cho nên Khổng Tử nói: “những điều vi diệu cao
siêu thì không nên giảng giải cho họ”. Khổng Tử còn cho rằng, dân – kẻ hạ ngu
là đối lập với bậc thƣợng trí, hạng ngƣời mà theo ông sinh ra không cần học
cũng biết.
Mạnh Tử lại có tƣ tƣởng xem thƣờng dân ở cách gọi khác. Ông gọi dân là
kẻ “lao lực”, tức là những ngƣời lao động chân tay, là lực lƣợng sản xuất ra hầu
hết các của cải vật chất để duy trì sự tồn tại của xã hội, của mỗi ngƣời và của cả
tầng lớp thống trị. Theo Mạnh Tử, dân gồm ba hạng ngƣời: công, nông, và
thƣơng, có trách nhiệm và nghĩa vụ nuôi dƣỡng ngƣời và chăm sóc kẻ “lao tâm”
và phục vụ ngƣời cai trị. Kẻ “lao lực” trong quan niệm của Mạnh Tử cũng tƣơng
tự nhƣ quan niệm của Khổng Tử, thực chất là những ngƣời thiếu đạo đức và trí
tuệ, thuộc tứ dân bách tính tầm thƣờng, trong đó chủ yếu là ngƣời nông dân
trong xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ. Theo sự lý giải của Mạnh Tử thì, trong xã
hội bao giờ cũng “có ngƣời làm việc bằng tâm trí; có kẻ làm việc bằng tay chân.
Ngƣời làm việc bằng tâm trí thì cai trị dân chúng; kẻ làm việc chân tay thì chịu
quyền điều khiển, sai khiến. Kẻ chịu quyền điều khiển có phận sự cung cấp cho
tầng lớp cai trị dân chúng đƣợc dân chúng phụng dƣỡng. Đó là lẽ thông thƣờng
trong thiên hạ vậy” [70, tr.167]. Quan hệ giữa “lao tâm” và “lao lực” ở đây
không chỉ là quan hệ tƣơng tác giữa hai hình thức lao động trong xã hội, mà chủ
yếu là quan hệ giữa tầng lớp thống trị và bị trị và Mạnh Tử xem quan hệ đó là
đƣơng nhiên. Do hạn chế của lịch sử và lập trƣờng giai cấp, cho nên Mạnh Tử
chƣa nhận thức đƣợc nguyên nhân kinh tế sâu xa đã tạo nên sự đối lập giữa “lao
lực” và “lao tâm”, mà ông chỉ dừng lại ở cách nhìn trực quan để rồi xem “đó là
lẽ thông thƣờng trong thiên hạ vậy”. Sự phân biệt, đối lập giữa “lao tâm” và “lao
lực” thể hiện rõ ràng tƣ tƣởng xem thƣờng ngƣời “lao lực”, ngƣời lao động chân
tay của Mạnh Tử nói riêng và Nho gia tiên Tần nói chung.
Ngoài ra, dân – ngƣời bị sai khiến có lúc đƣợc Khổng Tử, Mạnh Tử gọi là
kẻ “thứ dân”, “hạ dân”, “dã dân”. Đây là những ngƣời dân thƣờng, những ngƣời
lao động bình thƣờng trong xã hội. Cách gọi này ít nhiều có sự phân biệt đẳng
16
cấp trong tƣ tƣởng của Khổng Tử, Mạnh Tử nhƣng cũng phần nào phản ánh
đúng địa vị của ngƣời dân trong thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc.
Cũng trong sách của Mạnh Tử, Mạnh Tử còn gọi ngƣời bị sai khiến , bị
điều khiển là kẻ “lê dân” (dân đen), “xích tử” (con đỏ). Cách gọi dân theo ý
nghĩa này, ít nhiều thể hiện sự thƣơng cảm và chứa đựng yếu tố nhân đạo của
Mạnh Tử đối với ngƣời dân đen cơ cực ở đáy cùng trong xã hội Trung Hoa lúc
bấy giờ.
Nhƣ vậy, Phạm trù dân trong quan niệm của các nhà Nho tiên Tần với tƣ
cách là ngƣời bị trị đƣợc gọi là kẻ “tiểu nhân”, “hạ ngu”, “lao lực”, “xích tử”,
“lê dân”...đƣợc hiểu là: Họ đều là những ngƣời bị sai khiến, bị điều khiển, có địa
vị kinh tế, chính trị, xã hội thấp hèn và đƣợc đặt trong sự nhìn nhận đối lập với
những ngƣời quân tử, bậc thƣợng trí, ngƣời lao tâm, ngƣời cai trị.
* Quan niệm dân là thần dân, cần đƣợc chăm lo, dạy dỗ
Trong quan niệm của các nhà Nho tiên Tần, phạm trù dân còn dùng để chỉ
bề tôi tức thần dân trăm họ trong thiên hạ đối lập với nhà vua. Theo ý nghĩa này,
dân bao gồm cả thần và dân, quan và dân, là trăm họ, là cả thiên hạ đối lập với
vua, và chỉ có vua là không thuộc phạm trù dân.
Dân với ý nghĩa là “thần dân” (gồm cả thần và dân) trƣớc đó đã đƣợc đề
cập trong Kinh Thi và thƣờng đƣợc Khổng Tử, Mạnh Tử gọi là “bá tính”, là
“thiên hạ”, tức là tất muôn dân, trăm họ sống trong cõi trời đất này. Dân với ý
nghĩa là thần dân trăm họ lại có lúc đƣợc hai ông gọi là “chúng dân”, “dân
chúng”, có khi Mạnh Tử gọi là “quốc dân” (dân của một nƣớc). Mạnh Tử đã nói
rõ trong sách Mạnh Tử nhƣ sau: “Một vị vua chƣ hầu nên quý trọng ba việc này:
Thổ địa, nhơn dân và chính sự. Nếu chê ba điều ấy mà quý trọng châu ngọc, ắt
thân mình phải vƣớng lấy tai ƣơng” [8, tr.270]. Điều đó có nghĩa là, theo ông,
trong phép trị nƣớc, vua chƣ hầu nên quý ba việc: thổ địa, nhân dân và chính sự,
đặc biệt là cần coi trọng và quan tâm đến lòng dân, lòng tin của nhân dân.
Cần lƣu ý rằng, trong luận điểm của Mạnh Tử: “dân vi quý, xã tắc thứ chi,
quân vi khinh”, phạm trù dân bao gồm cả thần dân trăm họ. Tuy nhiên, phạm trù
17
- Xem thêm -