Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vài nhân tố tác động đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp ...

Tài liệu Vài nhân tố tác động đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở học viện chính trị quân sự hiện nay

.PDF
110
496
119

Mô tả:

Đại học quốc gia hà nội Trường đại học khoa học xã hội & nhân văn Khoa xã hội học Trần Phú Mừng Một số nhân tố tác động đến tính tích cực học tập Của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở học viện chính trị quân sự hiện nay Luận văn thạc sỹ xã hội học Hà Nội - 2005 1 Đại học quốc gia hà nội Trường đại học khoa học xã hội & nhân văn Khoa xã hội học Trần Phú Mừng Một số nhân tố tác động đến tính tích cực học tập Của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở học viện chính trị quân sự hiện nay chuyên ngành xã hội học mã số: 5.01.09 Luận văn thạC sỹ xã hội học Người hướng dẫn khoa học: Đại tá, Phó giáo sư, Tiến Sĩ Phạm Xuân Hảo Hà Nội - 2005 Mục lục Trang Mở đầu 3 1. Lý do chọn đề tài 3 2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu 4 3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 5 4. Giả thuyết nghiên cứu 5 5. Phương pháp nghiên cứu 5 6. Khung lý thuyết 7 Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc luận giải sự tác động của các nhân tố đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan trong các nhà trường quân đội 1.1. Các khái niệm trung tâm 1.2. Một số vấn đề về lý luận 1.3. Một số vấn đề về tổng quan nghiên cứu 9 9 12 26 Chương 2. Thực trạng tác động của một số nhân tố đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự hiện nay 33 2.1. Mô tả địa bàn nghiên cứu và phương pháp điều tra khảo sát thực tế 33 2.2. Tác động của tổ chức cơ sở đảng, tổ chức cơ sở đoàn đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội 36 2.3. Tác động của đội ngũ cán bộ khung đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội 52 2.4. Tác động của đội ngũ giáo viên đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội 2.5. Tác động của gia đình đến tính tích cực học tập của học viên 62 1 đào tạo sĩ quan cấp phân đội 71 2.6. Tác động của tập thể học viên đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội 79 2.7. Tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự hiện nay qua số liệu điều tra khảo sát Kết luận và khuyến nghị Kết luận Khuyến nghị Danh mục tài liệu tham khảo 89 94 94 96 101 2 Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Sĩ quan quân đội là lực lượng rường cột của quân đội, quyết định sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân đội. Để xây dựng đội ngũ sĩ quan đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới, trước hết phải nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo sĩ quan cấp phân đội. Trong các yếu tố làm nên chất lượng đào tạo sĩ quan, tính tích cực học tập của người học (học viên) là một yếu tố quan trọng, vì họ là chủ thể của quá trình nhận thức. Phân tích, đánh giá mức độ tác động của các nhân tố đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan là một vấn đề có ý nghĩa và tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Học viện Chính trị quân sự là trung tâm đào tạo cán bộ chính trị của quân đội. Trong quá trình đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, Học viện đã chú trọng tìm các giải pháp nhằm phát huy tính tích cực học tập của đội ngũ học viên. Trên thực tế, các giải pháp đó đã mang lại nhiều thành tựu trong giáo dục đào tạo và cho những bài học kinh nghiệm thiết thực, cần tiếp thu và nhân rộng. Tuy nhiên, yêu cầu đổi mới giáo dục đào tạo theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hoá” ở Học viện hiện nay vẫn đang rất cần các giải pháp dựa trên những phân tích có cơ sở khoa học. Do vậy, phân tích, đánh giá mức độ tác động của các nhân tố đến tính tích cực học tập của học viên đang là sự đòi hỏi của thực tiễn đối với các khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Trong các nhà trường quân đội nói chung, ở Học viện Chính trị quân sự nói riêng, thời gian vừa qua đã có một số công trình khoa học hướng vào nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, trong đó có các giải pháp phát huy tính tích cực học tập của đội ngũ học viên. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình khoa học nào bàn 3 riêng về sự tác động của các nhân tố đến tính tích cực học tập của đội ngũ học viên, chưa có công trình nào tiếp cận, nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ xã hội học. Vận dụng lý thuyết và phương pháp nghiên cứu xã hội học để phân tích sự tác động của các nhân tố đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội là một hướng nghiên cứu, một vấn đề nghiên cứu hoàn toàn mới trong quân đội nói chung và ở Học viện Chính trị quân sự nói riêng. Với những tri thức xã hội học đã được lĩnh hội, chúng tôi quyết định chọn vấn đề “Một số nhân tố tác động đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện chính trị quân sự hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu Vận dụng lý thuyết và phương pháp nghiên cứu xã hội học để luận giải, phân tích sự tác động của một số nhân tố đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự; trên cơ sở đó rút ra kết luận và đề xuất một số khuyến nghị về xây dựng tính tích cực học tập cho học viên. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc luận giải sự tác động của các nhân tố đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội trong các nhà trường quân đội. - Phân tích thực trạng tác động của các nhân tố: Tổ chức cơ sở đảng, tổ chức cơ sở đoàn; Đội ngũ giáo viên; Đội ngũ cán bộ khung; Gia đình học viên và Tập thể học viên đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự. 4 - Rút ra kết luận, đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát huy tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự và trong các nhà trường quân đội. 3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Tác động của một số nhân tố đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự. - Khách thể nghiên cứu: Cán bộ quản lý học viên (cán bộ khung) và học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội. - Phạm vi điều tra thực tế: Cán bộ khung và học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự. - Thời gian nghiên cứu: từ tháng 7 năm 2004 đến tháng 6 năm 2005. 5. Giả thuyết nghiên cứu Giả thuyết thứ nhất: Tổ chức cơ sở đảng, tổ chức cơ sở đoàn với tính cách như là các thiết chế xã hội trong quân đội có tác động trực tiếp, thường xuyên đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội. Giả thuyết thứ hai: Phẩm chất, năng lực sư phạm của đội ngũ giáo viên; sự sâu sát, mẫu mực của đội ngũ cán bộ khung có tác động đến việc hình thành và duy trì tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội. Giả thuyết thứ ba: Điều kiện vật chất, tinh thần của các gia đình học viên thường xuyên tác động đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội. Giả thuyết thứ tư: Dư luận tập thể quân nhân, phong trào thi đua quyết thắng ở các tập thể học viên (lớp, đại đội, tiểu đoàn) tác động tích cực đến việc hình thành tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội. 5. Phương pháp nghiên cứu 5 Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài luận văn sử dụng các phương pháp sau: Nghiên cứu tài liệu, số liệu thống kê; Điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến; Trao đổi, phỏng vấn sâu. Phương pháp nghiên cứu tài liệu, số liệu thống kê - Nghiên cứu các lý thuyết để làm rõ cơ sở lý luận cho việc phân tích sự tác động của các nhân tố đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan trong nhà trường quân đội. - Nghiên cứu các tài liệu, công trình khoa học liên quan để trình bày tổng quan về vấn đề nghiên cứu và thu thập cơ sở thực tiễn cho việc phân tích thực trạng tác động của các nhân tố đến tính tích cực học tập của học viên. - Thu thập số liệu thống kê về học viên ở Học viện Chính trị quân sự các khoá học những năm gần đây. Phương pháp điều tra phiếu trưng cầu ý kiến - Phương pháp chính trong thu thập thông tin thực tế cho việc phân tích, đánh giá mức độ tác động của các nhân tố đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện chính trị quân sự. - Đối tượng điều tra: Học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện chính trị quân sự. - Phương pháp điều tra: Điều tra chọn mẫu, dung lượng mẫu: 400; chọn mẫu theo phương pháp phân tầng ngẫu nhiên theo các khóa học, mỗi khoá 100 phiếu. - Nội dung điều tra: hướng trọng tâm vào tìm hiểu ý kiến đánh giá của học viên về mức độ tác động của các nhân tố đến sự hình thành tính tích cực học tập của bản thân họ. Trao đổi, phỏng vấn sâu - Trao đổi với cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị để tìm hiểu nhận định, đánh giá của họ về mức độ tác động của các nhân tố đến tính tích cực học tập 6 của học viên đào tạo cấp phân đội. Số cuộc trao đổi là 4, với 4 đơn vị quản lý học viên. - Phỏng vấn sâu học viên ở các khoá học để thu thập các ý kiến về sự tác động của các nhân tố đến tính tích cực học tập của họ. Số lượng 16 học viên, mỗi khoá 4 học viên. Ngoài các phương pháp trên, quá trình nghiên cứu đề tài còn sử dụng các phương pháp khác như quan sát, hỏi ý kiến chuyên gia, tâm tình trò chuyện với cán bộ quản lý học viên và học viên vào những thời điểm thuận lợi. 6. Khung lý thuyết Có nhiều nhân tố tác động đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội, đề tài chỉ hướng vào phân tích sự tác động của 5 nhân tố: Tổ chức cơ sở đảng, tổ chức cơ sở đoàn (đảng bộ, đảng uỷ, chi bộ, chi uỷ; chi đoàn); Đội ngũ giáo viên; Đội ngũ cán bộ khung (cán bộ quản lý ở các tiểu đoàn, đại đội học viên); Gia đình học viên và Tập thể học viên. Nghiên cứu phân tích, đánh giá mức độ tác động của các nhân tố đến tích tích cực học tập của học viên đào tạo cấp phân đội là dạng nghiên cứu mối quan hệ mang tính nhân - quả giữa các hiện tượng xã hội. Do vậy, các nhóm biến số được phân loại như sau: - Nhóm biến số độc lập: Nhóm nhân tố tác động đến tính tích cực học tập của học viên, gồm: Tổ chức cơ sở đảng, tổ chức cơ sở đoàn; Đội ngũ giáo viên; Đội ngũ cán bộ khung; Gia đình học viên; Tập thể học viên. - Nhóm biến số phụ thuộc: Tính tích cực học tập của học viên, biểu hiện trong nhận thức về nhiệm vụ học tập; thái độ đối với nhiệm vụ học tập; hành vi học tập và kết quả học tập của học viên. - Nhóm biến số tham dự: Quá trình học tập, rèn luyện trong nhà trường quân đội của học viên chịu tác động của những biến đổi kinh tế - xã hội của đất nước, của yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội và môi trường văn hoá quân sự ở các nhà trường cùng các yếu tố khác. Các yếu tố đó tham dự vào 7 quá trình hình thành, phát huy tính tích cực học tập của học viên. Trong quá trình nghiên cứu, luận giải về lý luận và thực tiễn có tính đến sự tác động, chi phối của các yếu tố đó. - Mối quan hệ giữa các nhóm biến số được biểu hiện qua mô hình sau: Biến đổi kinh tế - xã hội của đất nước Tổ chức cơ sở đảng Tổ chức cơ sở đoàn Đội ngũ Môi cán bộ khung trường Nhận thức văn hoá quân sự ở Tính tích Đội ngũ giáo viên cực học tập của học viên nhà Thái độ Hành vi Kết quả học tập trường Gia đình học viên Tập thể học viên Yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân Sĩ quan Đảng viên – Cử nhân 8 Chương 1 Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc luận giải sự tác động của các nhân tố đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan trong các nhà trường quân đội 1.1. Các khái niệm trung tâm 1.1.1. Học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự Học viên. Điều 34, Điều lệ Công tác nhà trường quân đội chỉ rõ: “Trong các nhà trường quân đội, người học gọi là học viên” [Bộ Quốc phòng: Điều lệ công tác nhà trường quân đội, Nxb QĐND, H, 2000, tr 32]. Căn cứ vào hình thức, loại hình đào tạo, có nhiều loại học viên: Học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội; Học viên đào tạo cấp chiến thuật, chiến dịch; Học viên cấp chiến lược. Học viên đào tạo sĩ quan. Những công dân, quân nhân (hạ sĩ quan, binh sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng) qua thi tuyển được tham gia các khoá đào tạo trong các nhà trường quân đội từ 4 đến 6 năm để trở thành sĩ quan quân đội. Học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội. Do đặc điểm về tổ chức và hoạt động, trong quân đội thực hiện 3 loại hình đào tạo cơ bản: đào tạo theo chức danh; đào tạo theo trình độ học vấn; đào tạo kết hợp học vấn và chức danh. Đào tạo theo chức danh bao gồm: cấp phân đội; cấp chiến thuật, chiến dịch; cấp chiến lược. Đào tạo theo trình độ học vấn bao gồm: trung cấp; cao đẳng; đại học; sau đại học. Học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội là đối tượng được đào tạo theo chức danh và theo trình độ học vấn. Học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội là những công dân, quân nhân được tuyển chọn vào học trong các nhà trường quân đội qua các kỳ thi tuyển sinh quân sự hàng năm; sau 4 đến 6 năm đào tạo, tốt nghiệp ra trường được cấp bằng cử nhân, được phong quân hàm sĩ quan (cấp thiếu uý hoặc trung uý), được bổ nhiệm giữ các chức vụ ở cấp phân đội (trung đội, đại đội, tiểu đoàn và tương đương). 9 Học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự (học viên đào tạo sĩ quan chính trị cấp phân đội). Căn cứ vào đặc điểm, tính chất hoạt động, sĩ quan quân đội được phân loại thành 3 nhóm: sĩ quan chỉ huy; sĩ quan chính trị; sĩ quan hậu cần - kĩ thuật. Học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự là những học viên được đào tạo về chuyên ngành chính trị, tốt nghiệp ra trường đảm nhiệm hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội. Xét về cơ cấu xã hội: tất cả các công dân Việt Nam, quân nhân không phân biệt về thành phần gia đình, dân tộc, tôn giáo, lãnh thổ nếu trúng tuyển đều có thể trở thành học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự. Hiện nay, Học viện chỉ đào tạo các học viên giới tính nam, chưa đào tạo các học viên giới tính nữ. Học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự là những công dân, quân nhân được tuyển chọn qua các kỳ thi tuyển sinh quân sự hàng năm, được đào tạo trong thời gian 5 năm (tính cả thời gian tạo nguồn, dự khoá), tốt nghiệp ra trường được cấp bằng cử nhân khoa học xã hội và nhân văn, được phong quân hàm sĩ quan (thiếu uý hoặc trung uý), được bổ nhiệm chức vụ ban đầu là phó đại đội trưởng về chính trị. Mục tiêu đào tạo được xác định là: Sĩ quan chính trị - Cử nhân - Đảng viên. 1.1.2. Tính tích cực học tập của học viên Tính tích cực hoạt động. Khi nói đến hoạt động của con người, người ta thường nói đến tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong hoạt động của họ. Có nhiều khoa học như tâm lý học, triết học, chính trị học, giáo dục học,… nghiên cứu về các trạng thái hoạt động của con người, trong đó, nhiều khoa học đề cập đến tính tích cực hoạt động của con người. Hoạt động xã hội, hành động xã hội là đối tượng nghiên cứu của xã hội học. Khi nghiên cứu hành động xã hội, xã hội học chú trọng nghiên cứu cấu trúc hành động xã hội và phân loại hành động xã hội. Theo các lý thuyết xã hội học, xét về tính chất, hành động xã hội của cá nhân có thể phân chia thành hai dạng: hành động hợp 10 chuẩn và hành động lệch chuẩn. Để có những hành động hợp chuẩn, có tác động tích cực đối với cộng đồng, với xã hội, tất yếu mỗi con người phải có tính tích cực trong mọi hoạt động. Tương tự, trong học tập, để có kết quả học tập tốt, tất yếu người học phải có tính tích cực học tập. Tính tích cực học tập. Có thể hiểu đó là một trạng thái hoạt động học tập của người học nhằm đạt tới hành động học tập hợp chuẩn, nhờ đó hoạt động học tập luôn đúng hướng đích, có chất lượng, hiệu quả, đáp ứng được các mục tiêu, yêu cầu giáo dục đào tạo của các chủ thể giáo dục. Tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan là một trạng thái hoạt động học tập mang tính tự giác, chủ động, sáng tạo của học viên nhằm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo; yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo của nhà trường quân đội. Như mọi hiện tượng xã hội khác, tính tích cực học tập của đội ngũ học viên biểu hiện trong nhận thức, thái độ, hành vi, kết quả học tập của họ. Một người học viên có tính tính cực học tập là người: Thứ nhất phải có nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ học tập; xác định động cơ, mục đích học tập đúng đắn; luôn chủ động, tích cực, tự giác, trung thực; có ý chí khắc phục khó khăn; có tinh thần vô tư, nhiệt tình, đoàn kết, tương trợ trong học tập; tôn trọng phong trào thi đua học tập của đơn vị; mạnh dạn phê bình, đấu tranh với những tiêu cực trong học tập. Thứ hai, thường xuyên chấp hành đúng các quy chế, quy định học tập; hay trao đổi học hỏi thầy, bạn; luôn có sáng kiến, cải tiến phương pháp học tập, nâng cao năng lực tư duy. Thứ ba, kết quả học tập trung thực, chính đáng, luôn có xu hướng tiến bộ theo thời gian, tiến bộ đều trên các mặt trong quá trình phấn đấu học tập, rèn luyện trở thành: đảng viên cử nhân - sĩ quan. 1.1.3. Nhân tố tác động đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan 11 Lý luận xã hội học mác xít đã chỉ ra rằng: con người vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của xã hội. Xét cho cùng, bằng các hoạt động thực tiễn phong phú, đa dạng của mình con người tạo nên xã hội và hoàn thiện bản thân mình. Sống trong xã hội, bản thân con người cũng như hoạt động của con người luôn chịu sự chi phối, tác động của xã hội. Hành động học tập của học viên đào tạo sĩ quan trong các nhà trường quân đội cũng chịu sự tác động, chi phối của nhiều nhân tố. Nhân tố tác động đến tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan là những quá trình, hiện tượng xã hội có khả năng chi phối, làm cho học viên thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi, kết quả trong quá trình học tập và rèn luyện. Sự thay đổi này có thể theo hướng tích cực hoặc tiêu cực tuỳ thuộc vào mức độ và tính chất tác động của từng nhân tố. Căn cứ vào đặc điểm biên chế, tổ chức hoạt động giáo dục đào tạo trong các nhà trường quân đội, đề tài lựa chọn các nhân tố: 1. Tổ chức cơ sở đảng, tổ chức cơ sở đoàn; 2. Đội ngũ cán bộ khung; 3. Đội ngũ giáo viên; 4. Gia đình học viên; 5. Tập thể học viên, để phân tích sự tác động của nó đến tính tích tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội. 1.2. Một số vấn đề về lý luận 1.2.1. Lý luận xã hội học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh Lý luận xã hội học Mác - Lênin. Lý luận Mác - Lênin cho rằng, hoạt động thực tiễn phong phú, đa dạng của con người tạo nên xã hội và các thành tố của nó như các thiết chế xã hội, các tổ chức xã hội, các nhóm xã hội. Trong lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác đã chỉ rõ, hoạt động sản xuất vật chất của con người là cơ sở, nguồn gốc, nguyên nhân của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người; “...trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động, trước khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học v.v.”[ C. Mác và Ph. ăng Toàn tập, Tập 19, Nxb CTQG, H, 1996, tr 166]. 12 Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động đầu tiên cơ bản của loài người. Trải qua thực tiễn lao động sản xuất vật chất, các quan hệ con người với tự nhiên, con người với con người dần hình thành và phát triển. Theo thời gian, với sự tiến bộ không ngừng của hoạt động sản xuất, các quan hệ xã hội nảy sinh, phong phú trên cái thực tiễn đó. “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó” [C. Mác và Ph. ăngghen Toàn tập, Tập 13. Nxb CTQG, H, 1996, tr 15]. Theo Mác, hoạt động thực tiễn đa dạng phong phú của con người đã tạo nên xã hội với các thành tố cấu trúc của nó như: các tổ chức xã hội, các nhóm xã hội, các kiểu thiết chế xã hội. Nhìn dưới góc độ xã hội học, các tổ chức xã hội là biểu hiện trình độ tổ chức bậc cao của hoạt động người, biểu hiện sự tích cực năng động trong hoạt động của con người. Lý luận Mác - Lê nin khi bàn về con người đã khẳng định rằng, con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của xã hội. Vì con người là chủ thể của xã hội cho nên, trước hết, muốn hiểu con người phải nghiên cứu những hành động xã hội thực tiễn của họ. Trong Luận cương về Phoi-ơ-bắc C. Mác đã phê phán Phoi-ơ-bắc là đã “hoà tan bản chất tôn giáo vào bản chất con người”. Theo Mác: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” [C. Mác và Ph. ăngghen Toàn tập, Tập 3. Nxb CTQG, H, 1995, tr 11]. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, Mác đã viết: “Hoàn toàn trái với triết học Đức là triết học từ trên trời đi xuống đất, ở đây chúng ta đi từ dưới đất đi lên trời, tức là chúng ta không xuất phát từ những 13 điều mà con người nói, tưởng tượng, hình dung, chúng ta cũng không xuất phát từ những con người chỉ tồn tại trong lời nói, trong ý nghĩ, trong tưởng tượng, trong biểu tượng của người khác, để từ đó mà đi tới những con người bằng xương bằng thịt; Không, chúng ta xuất phát từ những con người đang hành động, hiện thực và chính là cũng xuất phát từ quá trình đời sống hiện thực của họ mà chúng ta mô tả sự phát triển của những phản ánh tư tưởng và tiếng vang trong tư tưởng của đời sống ấy” [Sđd, Tập 3, tr 38]. Và theo Mác, “sự phong phú thực sự về tinh thần của cá nhân là hoàn toàn phụ thuộc vào sự phong phú những liên hệ hiện thực của họ” [Sđd, Tập 3, tr 55]. Như vậy, để tìm hiểu, nghiên cứu bản chất xã hội của con người không thể chỉ căn cứ vào những đặc điểm tâm lý, sinh lý của con người, càng không thể ngụy biện vin vào những luận điểm mang tính tôn giáo, vào sự sáng tạo của các đấng siêu nhiên; cũng không thể hiểu được bản chất đích thực của con người nếu chỉ nghe những điều họ nói, tưởng tượng và hình dung, mà phải thông qua việc phân tích hoạt động hiện thực của con người để mô tả, làm rõ bản chất xã hội của con người. Thứ hai, vì con người là sản phẩm của xã hội, do vậy, đánh giá con người phải căn cứ vào môi trường xã hội nơi họ sinh ra, lớn lên và hoạt động. Trong lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác đã phân tích, hoạt động sản xuất vật chất của con người tạo nên xã hội, nhưng cũng chính thực tiễn hoạt động sản xuất ấy cùng với các quan hệ xã hội nảy sinh từ quá trình đó, tạo nên khung cảnh xã hội chi phối sự hình thành những đặc trưng xã hội của con người. “Những quan hệ sản xuất đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp” [Sđd, Tập 4, tr 187]. Theo cách lý giải của Mác, con người là chủ thể của các hoạt động xã hội, nhưng chính điều kiện sản xuất xã hội lại là yếu tố 14 quy định những phẩm chất xã hội của con người. “Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy” [Sđd, Tập 3, tr 55]. Do đó, hoạt động của con người như thế nào luôn bị các nhân tố ngoại cảnh xã hội tác động và chi phối. Xã hội luôn vận động và biến đổi, đòi hỏi xem xét con người phải có phương pháp lịch sử, cụ thể. Nghiên cứu con người phải gắn với khung cảnh xã hội nơi con người sinh sống, hoạt động; phải hướng tới phân tích, tìm hiểu các cơ chế, biện pháp để phát huy tốt hơn vai trò của chủ thể của con người trong quá trình cải tạo xã hội và hoàn thiện bản thân mình. Lý luận Mác - Lênin cũng khẳng định, hoạt động tích cực, chủ động và sáng tạo là những đặc trưng bản chất riêng có của loài người; nhưng tính tích cực chủ động sáng tạo trong các hoạt động luôn tuỳ thuộc vào bản chất của các chế độ xã hội. Mác đã chứng minh rằng, trong các xã hội còn tồn tại chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, còn tồn tại chế độ người áp bức bóc lột người, thì trong mọi hoạt động lao động sản xuất con người luôn có nguy cơ bị tha hoá, có nghĩa là, tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong các hoạt động của con người bị hạn chế, thậm chí bị thủ tiêu. Trong tác phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế - chính trị, C. Mác viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quy định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quy định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quy định ý thức của họ”. Trong tác phẩm Lút-vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Ph. ăngghen viết: “Tất cả những cái gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc họ; nhưng cái đó mang hình thức nào ở trong đầu óc con người thì tuỳ thuộc nhiều vào các hoàn cảnh” [Sđd, Tập 21, tr 438]. Từ tư tưởng của C. Mác, Ph. ăngghen, có thể rút ra vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận là, con người chỉ có thể hoạt động tích cực, chủ động, sáng 15 tạo trong điều kiện có môi trường xã hội lành mạnh, môi trường đó tạo điều kiện cho mọi ý tưởng, niềm tin, sự say mê, sáng tạo của con người được phát huy. Trong nghiên cứu xã hội học về con người, nhất thiết phải phân tích các yếu tố có khả năng chi phối đến các hoạt động của con người, để từ đó có những giải pháp nhằm phát huy tốt hơn tính tích cực chủ động sáng tạo trong các hoạt động của con người. Trong nghiên cứu con người xã hội, việc mô tả các đặc trưng xã hội là cần thiết, nhưng quan trọng hơn là giải thích nguyên nhân, nguồn gốc hình thành các đặc trưng xã hội đó. Điều đó đòi hỏi phải chú ý đến sự tác động của các nhân tố ngoại cảnh. Tư tưởng Hồ Chí Minh Tư tưởng Hồ Chí Minh „„là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,… Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân;…;về đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau;…‟‟ [Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr 83,84]. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng. ở đây chỉ trình bày những tư tưởng cơ bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận văn. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đội ngũ cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: cán bộ là gốc của cách mạng; công tác cán bộ là công việc gốc của Đảng; huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ là công việc rất quan trọng. “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém” [Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H, 2000, tr 240]. Trong công tác cán bộ phải làm tốt các khâu: lựa chọn, bồi dưỡng, đánh giá và sử 16 dụng đúng cán bộ. Trong đó, Người rất quan tâm đến công tác bồi dưỡng cán bộ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ phải toàn diện, cả năng lực công tác, cả đạo đức cách mạng, trong đó đạo đức là gốc. Công việc bồi dưỡng cán bộ phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Người yêu cầu mỗi cán bộ phải tích cực học tập, học ở mọi lúc, mọi nơi, trong nhà trường và thông qua thực tiễn công tác; kết hợp chặt chẽ giữa tự bồi dưỡng của cán bộ với công tác bồi dưỡng của tổ chức; phát huy vai trò của gia đình, của tập thể, của nhà trường và xã hội trong bồi dưỡng cán bộ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất đề cao vai trò của giáo dục, bởi vì, theo Người, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa; tính người trong mỗi con người „„phần nhiều do giáo dục mà nên‟‟. Hồ Chí Minh xác định, xây dựng nền giáo dục mới là một nhiệm vụ cấp bách, mang tính chiến lược. Mục tiêu của giáo dục phải vừa nâng cao dân trí, vừa bồi dưỡng lý tưởng và tình cảm cách mạng, vừa bồi dưỡng phẩm chất tốt đẹp trong mỗi con người. Nội dung giáo dục toàn diện: văn hoá, chính trị, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ,... Phương châm giáo dục: học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tiễn; phối hợp gia đình - nhà trường - xã hội để giáo dục; dân chủ, bình đẳng trong giáo dục; học suốt đời, tự học, tự đào tạo;... Trong giáo dục phải coi trọng xây dựng đội ngũ những người thầy xứng đáng là thầy giáo. Thầy giáo là những người thật thà yêu người, yêu nghề, giỏi chuyên môn, thuần thục về phương pháp, ham học hỏi. Để giáo dục đạt kết quả cao, Người yêu cầu Đảng phải luôn tự vươn lên về trình độ mọi mặt, đủ sức lãnh đạo công cuộc giáo dục, chấn hưng nền giáo dục của đất nước; mọi cán bộ, đảng viên của Đảng phải ra sức học tập để làm gương cho quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nhà trường quân đội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến xây dựng quân đội cách mạng, đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Trong xây 17 dựng quân đội, Người rất chú trọng công tác đào tạo cán bộ quân đội, xây dựng các nhà trường quân đội. Ngày 15 tháng 4 năm 1944, theo Nghị quyết của Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ và chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trường Quân chính kháng Nhật được thành lập (sau này là Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, nay là Trường sĩ quan Lục quân 1). Từ nhà trường quân đội đầu tiên ấy, đến nay, nhà trường quân đội đã trở thành hệ thống với 9 học viện, 11 trường sĩ quan, 31 trường trung học chuyên nghiệp, 12 trường quân sự quân khu, quân đoàn và 64 trường quân sự tỉnh, thành. Quá trình ra đời, trưởng thành, phát triển nhà trường quân đội luôn gắn với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm Trường sĩ quan Lục quân 1 chín lần; Người cũng đã đến thăm Học viện Chính trị quân sự, Học viện Hậu cần, Trường Quân y và một số nhà trường khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn học viên quân sự „„Phải siêng năng, siêng nghe, siêng thấy, siêng đi, siêng nghĩ, siêng nói, siêng làm‟‟ [Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H, 1995, tr 34]; phải học toàn diện cả quân sự và chính trị. Người căn dặn các học viên sĩ quan chính trị: „„Riêng về các chú, chính trị biểu hiện ra trong lúc đánh giặc. Học chính cương, chính sách rồi thì phải thực hiện. Nếu thuộc làu mà không biết đánh giặc thì vô dụng. Cho nên các chú phải học tư tưởng chiến lược, chiến thuật, học cách dạy bộ đội đánh giặc, học phương pháp chỉ huy chiến đấu, v.v... Tóm lại là học để nâng cao trình độ của người chỉ huy‟‟ [Sđd, tập 6, tr 319]. Đối với giáo viên quân sự, Người căn dặn „„Giáo viên thi đua tìm cách dạy cho dễ hiểu, cho chóng tiến bộ. Học sinh thì thi đua học cho chóng, cho nhiều, cho tốt‟‟ [Sđd, tập 6, tr 319]. Giáo viên và học viên thi đua, đoàn kết để học hành tiến bộ; và nhà trường phải tạo mọi điều kiện để giáo viên dạy tốt, học viên học tốt, để sau này phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan