Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Vai trò nhân viên công tác xã hội đối với trẻ em bị hiv,aids từ thực tiễn các tr...

Tài liệu Vai trò nhân viên công tác xã hội đối với trẻ em bị hiv,aids từ thực tiễn các trung tâm bảo trợ xã hội, tỉnh bà rịa – vũng tàu

.PDF
85
692
134

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THÙY HƯƠNG VAI TRÒ NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM CÓ HIV/AIDS TỪ THỰC TIỄN CÁC TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU Chuyên ngành: Công tác xã hội Mã số: 60.90.01.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. NGUYỄN HỮU MINH HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội về “Vai trò nhân viên công tác xã hội đối với trẻ em bị HIV/AIDS từ thực tiễn các Trung tâm bảo trợ xã hội, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thùy Hương MỤC LỤC MỞ ĐẦU…………………………………………………………………....01 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM CÓ HIV/AIDS.............12 1.1. Khái niệm và đặc điểm của trẻ em có HIV/AIDS....................................12 1.2. Lý luận về vai trò của nhân viên công tác xã hội...……………………..18 1.3. Cơ sở pháp lý liên quan đến chính sách đối với trẻ em có HIV/AIDS và nhân viên công tác xã hội....................................................................... ....... .22 Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM CÓ HIV/AIDS TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ TRẺ EM VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU ..........28 2.1. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu …………...………..…….. 28 2.2. Nhu cầu trợ giúp về công tác xã hội của trẻ HIV/AIDS và việc đáp ứng các nhu cầu đó của Trung tâm………….……………………………………32 2.3. Thực trạng về vai trò của nhân viên công tác xã hội đối với trẻ em có HIV/AIDS............................................................................... ..................... ...43 2.4. Những yếu tố tác động, làm làm ảnh hưởng đến việc thực hiện vai trò của nhân viên công tác xã hội đối với trẻ em có HIV/AIDS tại Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu............................................................................... .............. 54 2.5. Sự cần thiết phải có nhân viên công tác xã hội để hỗ trợ trẻ HIV/AIDS tại Trung tâm……………………………………………………………………60 Chương 3: KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM CÓ HIV/AIDS TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ TRẺ EM VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU.. 65 3.1. Các khuyến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan thực thi chính sách....................................................................................................... .65 3.2. Các khuyến nghị đối với nhân viên công tác xã hội trợ giúp trẻ em có HIV/AIDS tại các Trung tâm có chăm sóc trẻ HIV/AIDS..............................67 KẾT LUẬN……….……………….………………………………..……..................…69 TÀI LIỆU THAM KHẢO…..……………………………………….......................72 PHỤ LỤC...........................................................................................................81 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài HIV/AIDS hiện nay được xem là “căn bệnh thế kỷ”, là mối đe dọa cho con người bởi khả năng gây tử vong cao, sự lây lan nhanh chóng, và hiện nay vẫn chưa có loại thuốc đặc trị nào có thể chữa được bệnh này cũng như chưa có vắc xin phòng bệnh. Ở Việt Nam, tình hình lây nhiễm HIV/AIDS tiếp tục diễn biến phức tạp. Nó xuất hiện ở tất cả các tỉnh, thành và có xu hướng ngày càng lan rộng, đe doạ trực tiếp đến sức khoẻ, tính mạng con người, trật tự an toàn xã hội và sự phát triển của đất nước. Thời gian qua, dưới tác động của công tác giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi, nhận thức của người dân về dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS ở nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Một trong những đối tượng bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, phải gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề chính là trẻ em. Ở Việt Nam, con số trẻ em bị nhiễm và ảnh hưởng bởi HIV/AIDS cũng đang ngày càng gia tăng. Ảnh hưởng của HIV/AIDS đối với trẻ em là rất lớn, thậm chí có tính chất quyết định đối với cuộc sống của các em, nhất là những trẻ bị ảnh hưởng trực tiếp (trẻ có/nhiễm HIV/AIDS). Công tác xã hội (sau đây viết tắt là CTXH) là một ngành nghề tương đối mới mẻ ở Việt Nam. Tuy vậy, từ khi mới ra đời, nó đã ứng dụng vào rất nhiều hoạt động, đặc biệt là hoạt động trợ giúp người yếu thế. Một trong những nhóm người yếu thế mà CTXH hướng đến hỗ trợ là đối tượng trẻ em có HIV/AIDS. Trong đó, vai trò của các nhân viên công tác xã hội (sau đây viết tắt là NVCTXH) có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giúp đỡ đối tượng đương đầu và vượt qua hoàn cảnh. Đối với tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, theo số liệu thống kê của Uỷ ban Phòng, chống HIV/AIDS tỉnh, tính đến ngày 30/6/2016, lũy tích số người 1 nhiễm HIV của tỉnh là 3.899 trường hợp, trong đó số người nhiễm HIV còn sống tiếp cận được 2.143, chuyển AIDS là 3.146. Riêng trong 6 tháng đầu năm 2016, toàn tỉnh phát hiện mới 52 trường hợp nhiễm HIV, 43 bệnh nhân AIDS và 14 người tử vong do AIDS. Trong số đó, trẻ em có HIV/AIDS là 91 em (điều trị thuốc ARV 82 em), đã đưa vào Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu chăm sóc 18 em. Trước đây, Trung tâm chỉ có chức năng tiếp nhận và chăm sóc trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, trẻ lang thang. Nhưng trước thực tế là các gia đình có bố mẹ, hoặc bố hoặc mẹ có HIV/AIDS đã chết, hoặc không đủ điều kiện để chăm sóc trẻ nên đã đưa trẻ gửi vào Trung tâm nên Ủy ban nhân dân tỉnh đã bổ sung thêm chức năng chăm sóc trẻ có HIV/AIDS cho Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu. Vì vậy, việc nâng cao năng lực cho cán bộ thực hiện và thể hiện vai trò của NVCTXH tại Trung tâm này là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, từ khi Trung tâm được bổ sung thêm chức năng này, chưa có một NVCTXH nào có đào tạo bài bản để làm việc với trẻ có HIV/AIDS, hoặc nếu có nhân viên nào được tạo điều kiện để bồi dưỡng thêm về nghiệp vụ CTXH thì cũng được phân công vào các công việc chưa phù hợp hoặc luân chuyển, biệt phái trong ngành. Đội ngũ nhân viên vẫn là những bảo mẫu chăm sóc trẻ mồ côi, không có kiến thức chuyên môn về CTXH để làm việc với trẻ em có HIV/AIDS. Hoạt động chủ yếu vẫn là những chăm sóc tối thiểu như cho ăn - mặc, chở đi học, khi đau bệnh thì đưa đi bệnh viện khám, uống thuốc,…; mà nhu cầu cần được trợ giúp của trẻ HIV/AIDS không chỉ dừng lại ở những những nội dung đó. Theo chủ trương chung về tinh giản biên chế nên không có định suất dành cho NVCTXH. Mặt khác, nghề CTXH tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đang trong giai đoạn hình thành, kinh nghiệm CTXH đối với trẻ em có HIV/AIDS chưa nhiều, và nhận thức của các cơ quan, ban ngành, của xã hội về vai trò của NVCTXH đối với các đối tượng yếu thế nói chung chưa thật sự được đánh giá đúng mức. Chính vì lý do trên mà tôi thực hiện nghiên cứu đề tài: “Vai trò NVCTXH đối với trẻ em có HIV/AIDS tại các Trung tâm Bảo trợ xã hội, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”. Luận văn sẽ nghiên cứu lý luận và đánh giá 2 thực trạng vai trò của NVCTXH đối với trẻ em có HIV/AIDS tại các Trung tâm bảo trợ xã hội của tỉnh hiện nay và đưa ra một số khuyến nghị nhằm giúp các cơ quan chức năng, những nhà quản lý và các cán bộ, nhân viên thực thi chính sách về bảo trợ xã hội có những đánh giá và quan tâm đúng mức về vai trò của NVCTXH đối với các đối tượng yếu thế, đặc biệt là trẻ em HIV/AIDS tại các Trung tâm bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh, để hướng tới việc tranh thủ sự ủng hộ, vận động, đề xuất, tạo điều kiện, cơ chế cho NVCTXH hoạt động và phát huy vai trò của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua, vai trò của NVCTXH đối với đối tượng yếu thế đã và đang ngày càng được xã hội đánh giá cao trong hoạt động nghề nghiệp. Có một số tác giả đã tiến hành nghiên cứu về vai trò của NVCTXH trong hỗ trợ tâm lý cho đối tượng nhiễm HIV/AIDS; vai trò của NVCTXH trong trợ giúp gia đình có trẻ tự kỷ; và một số đề tài liên quan đến vai trò của NVCTXH khác, cụ thể như: - Đề tài nghiên cứu “Vai trò của NVCTXH trong việc hỗ trợ trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS hòa nhập học đường” năm 2012 của tác giả Phạm Văn Tư, Trưởng bộ môn cơ sở Công tác xã hội, Khoa Công tác xã hội, Đại học Sư phạm Hà Nội. Nghiên cứu này diễn ra tại Hà Nội, Thái Nguyên, Tuyên Quang và Quảng Ninh. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng: NVCTXH can thiệp, hỗ trợ trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS bằng phương pháp CTXH cá nhân theo tiến trình cụ thể nhằm giúp trẻ phát huy được tiềm năng của bản thân trong việc giải quyết vấn đề của mình, trong đó có việc đi học. NVCTXH sử dụng phương pháp CTXH nhóm để can thiệp, hỗ trợ trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS tại một địa bàn cụ thể, thông qua việc sinh hoạt nhóm, giúp các em chia sẻ, đồng cảm và đặc biệt là giúp các em có cơ hội đi học. Nghiên cứu này cũng đã cho thấy NVCTXH sử dụng kỹ năng biện hộ để giúp bảo vệ quyền được đến trường của trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS,.... 3 - Luận văn thạc sĩ “Vai trò của NVCTXH trong hỗ trợ tâm lý cho đối tượng nhiễm HIV/AIDS tại Trung tâm khám chữa bệnh Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Thái Bình” năm 2013 của tác giả Trần Thị Hoa. Mục đích của đề tài nghiên cứu này nhằm làm rõ vai trò của NVCTXH trong tham vấn cho đối tượng nhiễm HIV/AIDS đương đầu và vượt qua khủng hoảng, giảm căng thẳng tâm lý. Trong vai trò này, NVCTXH sẽ tư vấn giúp cho các em vượt qua những trở ngại tâm lý như sự kỳ thị, xa lánh của những người xung quanh. Cung cấp cho trẻ những thông tin cần thiết về căn bệnh HIV/AIDS mà trẻ đang mắc phải cũng như những quyền mà trẻ được hưởng. Bên cạnh đó, giúp trẻ tiếp cận với các nguồn lực về kinh tế và những dịch vụ y tế cần thiết. - Đề tài nghiên cứu “Vai trò của NVCTXH chuyên nghiệp trong bệnh viện hiện nay” năm 2013 của tác giả Dương Thị Phương (Nghiên cứu tại bệnh viện Nhi Trung ương) làm rõ vai trò của NVCTXH là người hỗ trợ, kết nối – trung gian và vai trò giáo dục trong trợ giúp đối tượng. Qua nghiên cứu cho thấy đội ngũ NVCTXH này đã và đang cung cấp hệ thống dịch vụ trợ giúp về tinh thần và vật chất đến bệnh nhân và thân nhân của họ để có thể khắc phục khó khăn, vượt qua trở ngại, phần nào hỗ trợ cho quá trình điều trị được thực hiện tốt hơn. - Nghiên cứu “Vai trò của NVCTXH trong trợ giúp gia đình có trẻ tự kỷ tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ” năm 2014 của tác giả Đào Thị Lương, được tiến hành tại huyện Văn Giang – Hưng Yên. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài này là khẳng định vai trò của NVCTXH trong trợ giúp gia đình có trẻ tự kỷ tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ. NVCTXH thực hiện vai trò tham vấn chính sách, kết nối gia đình trẻ với các hệ thống khác như: trường học các cấp, địa phương, các nhà tài trợ,…Trong quá trình thực hiện vai trò này, NVCTXH gặp khó khăn ở việc thực tế hiện nay các nguồn lực hỗ trợ trẻ tự kỷ và gia đình trẻ không nhiều, vì vậy các phụ huynh có con bị 4 bệnh tự kỷ hầu như đều phải tự mày mò phương hướng giải quyết các vấn đề xung quanh việc trong gia đình có thành viên mắc bệnh tự kỷ. Tóm lại, theo những tài liệu và thông tin mà tác giả thu thập được thì những nghiên cứu chỉ dừng lại ở những vấn đề hỗ trợ, can thiệp cho đối tượng tiếp cận dịch vụ, tham vấn cho đối tượng hay chỉ tập trung theo hướng nghiên cứu về một/một số vai trò của NVCTXH trong quá trình trợ giúp thân chủ. Các đề tài đó chỉ mới nghiên cứu trong phạm vi các vấn đề tương ứng với từng trường hợp hoặc nhóm đối tượng cụ thể theo tình hình thực tiễn ở một số địa bàn đặc thù của từng địa phương đó. Còn một số vấn đề mà luận văn này hướng tới như vai trò của NVCTXH đối với trẻ có HIV/AIDS như thế nào, những yếu tố nào cản trở hoặc thúc đẩy việc thực hiện vai trò của NVCTXH đối với trẻ có HIV/AIDS, thì các nghiên cứu trước đây chưa thực hiện. Việc nghiên cứu vai trò của NVCTXH đối với trẻ em có HIV/AIDS từ thực tiễn các Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có giá trị tham khảo đối với cơ quan, tổ chức hữu quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và phát triển nghề CTXH nói chung, CTXH đối với trẻ em có HIV/AIDS nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ vai trò của NVCTXH đối với trẻ em có HIV/AIDS tại Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu – cơ sở duy nhất có chức năng nhiệm vụ chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em có HIV/AIDS của tỉnh. Qua đó cho thấy sự cần thiết phải có NVCTXH được đào tạo, huấn luyện bài bản về chuyên môn CTXH để làm việc tại các Trung tâm chăm sóc trẻ HIV/AIDS. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu và xây dựng cơ sở lý luận, thực tiễn về vai trò của NVCTXH, một số vai trò chính của NVCTXH đối với trẻ em HIV/AIDS từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu trong hệ thống các Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. 5 - Xác định nhu cầu trợ giúp về CTXH của trẻ em có HIV/AIDS và các yếu tố ảnh hưởng đến trẻ. - Đánh giá thực trạng vai trò của NVCTXH tại Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu đối với việc giúp đỡ trẻ em có HIV/AIDS cũng như các yếu tố ảnh hưởng (cản trở và thúc đẩy) để nâng cao vai trò của NVCTXH đối với trẻ em có HIV/AIDS. - Đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao vai trò của NVCTXH đối với trẻ em có HIV/AIDS tại Trung tâm bảo trợ trẻ em Vũng Tàu, trên cơ sở đó phát triển cho các Trung tâm bảo trợ xã hội của tỉnh có chức năng chăm sóc trẻ em HIV/AIDS sau này. 4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Vai trò của NVCTXH đối với trẻ có HIV/AIDS tại Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu. 4.2. Khách thể nghiên cứu - Nhà quản lý, chuyên gia. - Cán bộ, nhân viên Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu. - Trẻ có HIV/AIDS tại Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu. 4.3. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về không gian: Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh trong phạm vi nghiên cứu là các cơ sở bảo trợ xã hội công lập trực thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh. Trong phạm vi đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu tại Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu (vì trong hệ thống các cơ sở bảo trợ xã hội của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, đây là cơ sở duy nhất có chức năng tiếp nhận và chăm sóc trẻ em HIV/AIDS). - Phạm vi về thời gian nghiên cứu: giai đoạn 2008 – 2014 đến nay. - Giới hạn nội dung nghiên cứu: Trong CTXH đối với trẻ em HIV/AIDS có rất nhiều vấn đề mà trẻ nhiễm cần được hỗ trợ, và vai trò của NVCTXH cũng được thể hiện ở rất nhiều vị trí khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu và làm rõ 04 vai trò chính, quan 6 trọng của NVCTXH đối với thực tiễn cụ thể của Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu, mà những vai trò này hiện nay còn đang bỏ ngỏ, chưa được Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu thực hiện tốt, các vai trò đó là: người kết nối nguồn lực; người giáo dục; người chăm sóc, trợ giúp; và là người tạo sự thay đổi. - Phạm vi về khách thể: Hiện nay, Trung tâm đang chăm sóc 18 trẻ có HIV/AIDS ở các độ tuổi khác nhau và tình trạng bệnh tật khác nhau. Trong phạm vi đề tài này chỉ nghiên cứu trên 10 trẻ có HIV/AIDS trong độ tuổi từ 6 đến dưới 16 tuổi đang được chăm sóc tại Trung tâm còn/có khả năng giao tiếp, 03 cán bộ quản lý cấp Sở và phòng chuyên môn thuộc Sở, 03 chuyên gia của tổ chức phi Chính phủ hoạt động trong lĩnh vực CTXH với trẻ có HIV/AIDS (Tổ chức Cô nhi thế giới – Wordwide Orphans FoundationWWO), 30 cán bộ và nhân viên đang làm việc tại Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu – những người thường xuyên tiếp xúc với trẻ em có HIV/AIDS và có thời gian công tác tại Trung tâm giai đoạn 2008 – 2014 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận - Các phương pháp lý luận được sử dụng trong quá trình nghiên cứu: dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói chung và trẻ em có HIV/AIDS nói riêng. - Nghiên cứu vấn đề lý luận trong hệ thống: nghiên cứu hệ thống những lý thuyết về nhu cầu, về vai trò, các yếu tố có liên quan như dịch vụ hỗ trợ của CTXH đối với trẻ em HIV/AIDS, hệ thống chính sách trợ giúp xã hội đối với trẻ em HIV/AIDS, các mô hình tác động của hệ thống dịch vụ CTXH, v.v... 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như sau: - Phương pháp nghiên cứu, tổng hợp, tài liệu Dựa trên việc tham khảo các tài liệu, thông tin có liên quan đến vấn đề nghiên cứu thu thập được từ các nguồn như: số liệu của các cuộc điều tra và 7 các nghiên cứu về trẻ em HIV/AIDS; số liệu trong các báo cáo của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, của Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS – Sở Y tế tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu; báo cáo đánh giá của tổ chức WWO; sách, báo, tạp chí trong nước; thông tin từ mạng Internet; các văn bản và định hướng của Nhà nước trong lĩnh vực liên quan đến đề tài. - Phương pháp chuyên gia: người thực hiện tiến hành lựa chọn và phỏng vấn sâu 03 chuyên gia của tổ chức phi Chính phủ (WWO) hoạt động trong lĩnh vực CTXH với trẻ em HIV/AIDS. Họ là những NVCTXH chuyên nghiệp đã từng tham gia quản lý, điều phối, thực hiện dự án hỗ trợ trẻ em có HIV/AIDS tại Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu giai đoạn 2008 – 2014. Đây là những người có hiểu biết sâu, có nhiều kinh nghiệm và thực tiễn trong CTXH đối với trẻ em HIV/AIDS. Các ý kiến của chuyên gia sẽ được xem như là cơ sở, là mốc chuẩn để so sánh, nêu bật việc thực hiện một số vai trò giữa NVCTXH chuyên nghiệp và nhân viên của Trung tâm (những người làm CTXH) trong quá trình hỗ trợ trẻ có HIV/AIDS tại Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu. Ý kiến của chuyên gia giúp làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu, nhất là hiểu được các nhu cầu trợ giúp về CTXH của trẻ có HIV/AIDS, đánh giá được những yếu tố chính ảnh hưởng đến trẻ, cũng như những yếu tố làm ảnh hưởng đến việc thực hiện vai trò của NVCTXH trong hoạt động nghề nghiệp của họ và đề xuất các khuyến nghị nhằm góp phần nâng cao vai trò của NVCTXH tại các Trung tâm Bảo trợ xã hội có chăm sóc trẻ em HIV/AIDS của tỉnh trong thời gian tới. Các ý kiến của chuyên gia sẽ là những gợi ý hữu ích giúp quá trình nghiêu cứu và tác nghiệp của người viết thêm thuận lợi và hiệu quả hơn. - Phương pháp phỏng vấn sâu: Tiến hành phỏng vấn sâu với 03 người ở cấp quản lý (01 lãnh đạo Sở, 02 lãnh đạo Phòng chuyên môn của Sở), 03 chuyên gia của tổ chức phi Chính phủ WWO tại Việt Nam trong dự án hỗ trợ trẻ HIV/AIDS tại Trung tâm Bảo 8 trợ trẻ em Vũng Tàu, 10 trẻ có HIV/AIDS tại Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu. Phương pháp phỏng vấn sâu nhằm tìm hiểu thêm về chính sách của Nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong việc ưu đãi cho trẻ em có HIV/AIDS; tìm hiểu nhận thức, đánh giá, cách nhìn nhận của những nhà quản lý, chuyên gia đối với vị trí, vai trò, tầm quan trọng của NVCTXH cũng như những yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng cao vai trò của NVCTXH; thu thập, tìm hiểu nhu cầu trợ giúp về CTXH của trẻ em có HIV/AIDS; tìm hiểu tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của trẻ và các yếu tố ảnh hưởng đến trẻ, qua đó thể hiện vai trò và thấy được sự cần thiết của NVCTXH đối với trẻ có HIV/AIDS trong thực tế. Do nhóm trẻ em có HIV/AIDS có khả năng giao tiếp được không nhiều, nên việc chọn mẫu được thực hiện theo phương pháp lập danh sách toàn bộ trẻ em có HIV/AIDS có khả năng giao tiếp (10 trẻ) để thực hiện khảo sát. - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Tiến hành điều tra bằng bảng hỏi đối với 30 cán bộ, nhân viên Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu – những người thường tiếp xúc với trẻ em HIV/AIDS và có thời gian công tác tại Trung tâm giai đoạn 2008 – 2014 đến nay. Thông qua quá trình điều tra bằng bảng hỏi sẽ đánh giá được mức độ nhận thức, hiểu biết của cán bộ, nhân viên Trung tâm về vai trò, sự cần thiết của NVCTXH đối với trẻ em có HIV/AIDS; tìm hiểu phương pháp, kỹ năng làm việc hiện nay của họ đối với trẻ em có HIV/AIDS cũng như những đề xuất của họ nhằm nâng cao vai trò của NVCTXH đối với trẻ có HIV/AIDS. - Phương pháp quan sát: Quan sát thực tế tại Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu, tiếp xúc trực tiếp với Ban lãnh đạo, đội ngũ nhân viên và nhóm trẻ có HIV/AIDS đang được nuôi dưỡng tại Trung tâm. Giai đoạn quan sát thực tế được tiến hành trong suốt quá trình nghiên cứu, xác định vai trò của NVCTXH đối với trẻ em có HIV/AIDS tại Trung tâm. 9 - Phương pháp phân tích: Sử dụng chương trình SPSS để xử lý, phân tích bảng hỏi; trích dẫn nội dung phỏng vấn sâu qua băng ghi âm, biên bản ghi chép theo chủ đề phân tích. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Những thông tin thu thập được từ luận văn đã chỉ rõ được vai trò của NVCTXH trong hỗ trợ đối tượng yếu thế nói chung và trẻ em có HIV/AIDS nói riêng. Trên cơ sở các khái niệm, cơ sở lý luận về trẻ em có HIV/AIDS, về các đặc điểm, nhu cầu của trẻ HIV/AIDS, vai trò của NVCTXH đã được làm rõ, góp phần làm phong phú thêm hệ thống cơ sở dữ liệu cho việc phân tích lý luận về vai trò của NVCTXH đối với trẻ em có HIV/AIDS nói riêng và lý luận về vai trò của NVCTXH nói chung. Đồng thời, luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu sau này về lĩnh vực nghiên cứu vai trò của NVCTXH đối với trẻ em có HIV/AIDS. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Nghiên cứu vấn đề vai trò của NVCTXH có ý nghĩa thiết thực và trực tiếp đối với tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, giúp các nhà quản lý, các cơ quan chức năng hiểu đúng và đủ về vai trò, tầm quan trọng, ảnh hưởng của NVCTXH đối với việc trợ giúp các đối tượng yếu thế nói chung, đặc biệt là trẻ em có HIV/AIDS sống tại các cơ sở bảo trợ xã hội của tỉnh. Sự có mặt của NVCTXH tại các Trung tâm với việc thực hiện các vai trò của họ sẽ đồng hành, giúp trẻ HIV/AIDS có thể sống và lớn lên một cách tự tin và có khả năng ứng phó trong cuộc sống thường ngày. Hay nói một cách khác là trẻ được quan tâm, chăm sóc, yêu thương một cách phù hợp để trẻ em có thể phát triển lành mạnh và sống một cuộc sống có chất lượng hơn; giúp cán bộ, nhân viên tại Trung tâm có nhận thức đúng đắn về vai trò quan trọng của mình đối với trẻ em có HIV/AIDS nhằm cải thiện và nâng cao dần chất lượng đáp ứng các nhu cầu về CTXH ở trẻ. Đồng thời, qua đó cũng là cơ sở để đề xuất tham mưu tỉnh bố trí định suất NVCTXH và tạo điều kiện để NVCTXH thể hiện 10 vai trò của mình tại các Trung tâm bảo trợ xã hội của tỉnh nói chung và Trung tâm có chức năng chăm sóc trẻ HIV/AIDS nói riêng, nhằm mục đích hỗ trợ tốt hơn cho đối tượng cần sự trợ giúp. Ngoài ra, qua quá trình thực hiện đề tài, bản thân tác giả sẽ học hỏi và tích lũy được một số kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm về CTXH. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về vai trò của NVCTXH đối với trẻ em có HIV/AIDS. Chương 2: Vai trò của NVCTXH đối với trẻ em có HIV/AIDS tại Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Chương 3: Khuyến nghị nâng cao vai trò của NVCTXH đối với trẻ em có HIV/AIDS tại Trung tâm Bảo trợ trẻ em Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. 11 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM CÓ HIV/AIDS 1.1. Khái niệm và đặc điểm của trẻ em có HIV/AIDS 1.1.1. Khái niệm về trẻ em có HIV/AIDS *Khái niệm trẻ em Theo Công ước về quyền trẻ em của Liên hiệp quốc thì: “Trẻ em mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [10, tr.02]. Còn theo Luật Trẻ em do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 05/4/2016 quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”[04, tr.01]. Trong luận văn này, chọn khái niệm trẻ em theo quy định của Luật Trẻ em. *Khái niệm HIV/AIDS Theo Luật phòng, chống nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) ban hành năm 2006, thuật ngữ HIVvà AIDS được hiểu như sau [05, tr.01]: - HIV là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh “Human Immunodeficiency Virus”, là virus gây suy giảm miễn dịch mắc phải ở người, làm cho cơ thể suy giảm khả năng chống lại các tác nhân gây bệnh. - AIDS là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh “Acquired Immune Deficiency Syndrome”, là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải do HIV gây ra, thường được biểu hiện thông qua các nhiễm trùng cơ hội, các ung thư và có thể dẫn đến tử vong. * Khái niệm trẻ em có HIV/AIDS 12 Từ cơ sở hai khái niệm “Trẻ em” và “HIV/AIDS” nêu trên, chúng ta có thể hiểu khái niệm về “Trẻ em có HIV/AIDS” như sau: “Là người dưới 16 tuổi có HIV/AIDS trong cơ thể, được xét nghiệm có HIV dương tính - H+ “ (thường gọi là “bị nhiễm HIV/AIDS”, hay còn gọi là “bị ảnh hưởng trực tiếp bởi HIV/AIDS”, hoặc là “người có H”). 1.1.2. Đặc điểm tâm sinh lý - xã hội và nhu cầu của trẻ em có HIV/AIDS 1.1.2.1. Đặc điểm tâm sinh lý - xã hội của trẻ em có HIV/AIDS * Đặc điểm về sinh lý Hầu hết trẻ bị nhiễm HIV khi mới sinh ra đều bình thường, khoẻ mạnh, chỉ có một số ít có cân nặng thấp so với tuổi thai. Với những trẻ bị lây nhiễm trong hoặc sau khi sinh thì một vài tuần sau sinh có thể có những biểu hiện sốt nhẹ, mệt mỏi, quấy khóc, khám có thể thấy thấy gan lách to (gần giống với giai đoạn tiền triệu chứng của người lớn nhiễm HIV). Các biểu hiện lâm sàng: - Hạch to: thường thấy hạch to nhỏ không đều ở nhiều nơi, nhiều nhất là vùng cổ, dưới hàm, nách, bẹn; thường không đau, mật độ chắc, diễn biến dai dẳng. - Gan lách to: có thể gặp gan to hoặc lách to riêng biệt, hoặc cả gan lách đều to (thường to ít và không có biến đổi đặc biệt về hình thể và tính chất). - Không tăng cân hoặc sút cân: thường xảy ra ở giai đoạn muộn, trẻ sút cân nhiều ở giai đoạn AIDS tiến triển muộn và đặc biệt có nhiễm trùng cơ hội. - Sốt kéo dài: giai đoạn đầu thường sốt dai dẳng không có quy luật, không rõ nguyên do, có thể nặng lên khi có nhiễm trùng cơ hội. Sốt thường kéo dài hơn 1 tháng. 13 - Tiêu chảy mạn tính: thường xảy ra ở giai đoạn AIDS tiến triển nặng, kết hợp với nhiễm trùng đường ruột. Ngoài ra, có thể gặp các tổn thương thần kinh, bệnh viêm phổi, viêm tuyến mang tai, xuất huyết giảm tiểu cầu, tan máu tự nhiên, viêm cơ tim, viêm thận,...và ung thư da dạng Sacoma Kaposi (mặc dù ở trẻ em hiếm gặp hơn nhiều so với người lớn). - Nhiễm trùng da: hay gặp do các loại vi-rút Herpes, tróc lở do tụ cầu, liên cầu và có thể do một số loại nấm. - Nhiễm trùng phổi: hay gặp nhất là viêm phổi do một số loại vi-rút hoặc một số loại nấm, tỷ lệ mắc bệnh lao phổi ở những trẻ nhiễm HIV thường khá cao. - Nhiễm trùng tiêu hoá: thường xảy ra do mắc các loại vi khuẩn viêm dạ dày – đường ruột như E. Coli, Salmonella, trực khuẩn lị,... và có thể do nấm, đặc biệt là nấm Candida Albicans. Ngoài những loại nhiễm trùng cơ hội hay gặp kể trên, còn có thể gặp viêm màng não do nấm, viêm gan, vi-rút các loại. (Nguồn:http://khotailieu.com/congtacxahoivoitrebianhhuongboihiv/aid s) * Đặc điểm về tâm lý – xã hội - Đối với trẻ 0 – dưới 6 tuổi: trẻ chưa có nhận thức về HIV và về thái độ của những người xung quanh nên giai đoạn này tâm lý trẻ phát triển như những trẻ em bình thường khác. - Đối với trẻ 6 – 12 tuổi: các em đã phần nào cảm nhận, nhận thức được tình trạng sức khoẻ của mình. Do đó, các em thường mang tâm lý ngại giao tiếp, lo sợ về sự đau đớn do bệnh mang lại, về sự xa lánh và phân biệt đối xử của những người xung quanh đối với các em. 14 - Trẻ thường thiếu thốn tình cảm gia đình, ruột thịt và nhận được ít tình yêu thương, sự vuốt ve như các trẻ nhỏ bình thường khác; các em thường cảm thấy buồn tủi, chán nản và sống khép mình. Bên cạnh đó, do thiếu tình thương và sự giáo dục của cha mẹ, người thân và sự ghẻ lạnh, tránh né của những người xung quanh nên các em thường bị trầm cảm, chậm nói, chậm phát triển trí não, khả năng vận động kém do không được chơi với các bạn cùng độ tuổi Những em có HIV/AIDS rất sợ hãi trước những biểu hiện của bệnh trên cơ thể mình, như: sốt, nhiễm trùng da, đau người,…Ở các em thường hình thành nên ý nghĩ rằng sẽ chết sớm bởi đây là căn bệnh nguy hiểm chưa có thuốc chữa. Nguồn:http://khotailieu.com/congtacxahoivoitrebianhhuongboihiv/aids) Từ những đặc điểm tâm lý trên, ta có thể thấy được những nhu cầu của trẻ có HIV/AIDS. 1.1.2.2. Nhu cầu của trẻ em có HIV/AIDS Theo nhà tâm lý học Abraham Maslow, nhu cầu của con người được chia làm hai nhóm chính là nhu cầu cơ bản và nhu cầu bậc cao. Có thể thể hiện những nhu cầu của trẻ em có HIV/AIDS theo mô hình thang nhu cầu của Abraham Maslow (xem trang sau) 15 Sơ đồ 1.1. Tháp bậc thang nhu cầu của Maslow (Nguồn: https:/www.google.com.vn/thap+nhu+cau+maslow) Trên cơ sở nghiên cứu khoa học về mặt lý luận, ta thấy nhu cầu chính của trẻ em có HIV/AIDS nói chung rất đa dạng, nhưng vẫn tập trung vào các nhu cầu sau: - Nhu cầu được chăm sóc đời sống vật chất: nhu cầu căn bản nhất thuộc thể chất và sinh lý đó là nhu cầu được chăm sóc đời sống vật chất như thức ăn, nước uống, nơi ở, nghỉ ngơi. Đây là nhu cầu không thể thiếu và ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống còn của các em và cũng là quyền đầu tiên trong số những quyền các em phải được hưởng theo Công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em. Chỉ khi đáp ứng được đầu đủ nhu cầu này thì mới có thể tạo điều kiện cho trẻ phát triển bình thường trước hết về mặt thể chất. - Nhu cầu an toàn xã hội: được đảm bảo về sức khoẻ, tiếp cận với các dịch vụ khám chữa bệnh thông thường cũng như đặc biệt là nhu cầu quan 16 trọng cần được đáp ứng đối với tất cả mọi người. Riêng đối với trẻ có HIV/AIDS thì nhu cầu này là rất cần thiết bởi vì các em đã mang bệnh, khả năng miễn dịch không thể bằng những trẻ bình thường khác, hoặc thường xuyên sống với bệnh tật nên các em cần được kiểm tra sức khoẻ một cách đầy đủ và thường xuyên. Bên cạnh việc được đảm bảo về sức khỏe thì các em cũng cần được yêu thương, chăm sóc, đặc biệt là từ những người gần gũi trẻ. Hầu hết trẻ có HIV/AIDS đều mong muốn có người thân thiết để chia sẻ hoặc hỗ trợ tâm lý khi cần thiết. Nếu không có cảm giác được yêu thương, che chở, trẻ dễ rơi vào tâm trạng lo sợ, tự ti và khép mình. - Nhu cầu xã hội: cùng với mong muốn được an toàn, trẻ có HIV/AIDS cũng rất muốn được hoà nhập cuộc sống cộng đồng, muốn được tới trường học tập, vui chơi giải trí như những đứa trẻ bình thường khác. Vui chơi, học tập và giao lưu với bạn bè đều là những hoạt động chủ đạo của trẻ em. Do đó, nếu những nhu cầu xã hội này được đáp ứng thì trẻ có HIV/AIDS sẽ có điều kiện phát triển bình thường về trí não cũng như tâm lý, tình cảm. Nhưng hiện nay, nhu cầu này chưa được đáp ứng tích cực bởi rất nhiều định kiến tiêu cực trong xã hội, và để các em có thể đến trường một cách “công khai”, có thể hoà nhập cuộc sống một cách “danh chính ngôn thuận” như những đứa trẻ bình thường khác là một việc làm đòi hỏi phải có nhiều thời gian và sự nỗ lực, tận tâm của từng cá nhân, tổ chức trong xã hội. - Nhu cầu được tôn trọng: trẻ có HIV/AIDS thường lo sợ, tự ti trước thái độ kỳ thị, xa lánh của những người xung quanh. Các em luôn mong muốn được mọi người tôn trọng, không phán xét, bình phẩm gì đến tình trạng bệnh tật của các em. Các em có thể tự đương đầu với với bệnh tật nhưng khó có thể vượt qua rào cản tâm lý xã hội để có được một cuộc sống bình thường. Rào cản đó là sự khinh rẻ, kỳ thị, sự sợ hãi của nhiều người đối với trẻ có HIV/AIDS. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan