Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Vấn đề giữ gìn và phát huy di sản văn hóa ở thừa thiên huế hiện nay ...

Tài liệu Vấn đề giữ gìn và phát huy di sản văn hóa ở thừa thiên huế hiện nay

.PDF
182
484
67

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THỊ HỒNG MINH vÊn ®Ò gi÷ g×n vµ ph¸t huy di s¶n v¨n hãa ë thõa thiªn huÕ hiÖn nay Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS Mã số : 62 22 80 05 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN HÙNG HẬU HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập. Các kết quả số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác của các cơ quan chức năng đã công bố. Những kết luận khoa học của luận án là mới và chưa có tác giả công bố trong bất cứ công trình khoa học nào. Tác giả luận án Trần Thị Hồng Minh MỤC LỤC Trang 1 MMỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VẤN ĐỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA Ở THỪA THIÊN HUẾ HIỆN NAY 1.1. Các công trình nghiên cứu tổng quát về văn hóa, di sản văn hóa và vấn đề giữ gìn, phát huy di sản văn hóa dân tộc 1.2. Các công trình nghiên cứu trực tiếp đến việc giữ gìn và phát huy di sản văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay 5 5 13 Chương 2: GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2.1. Văn hóa, di sản văn hóa và vấn đề giữ gìn phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam hiện nay 2.2. Vị trí và vai trò của di sản văn hóa đối với sự phát triển kinh tế xã hội 2.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới trong việc giữ gìn, phát huy giá trị di sản văn hóa 22 22 45 52 Chương 3: GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HOÁ Ở THỪA THIÊN HUẾ HIỆN NAY- THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 3.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc giữ gìn và phát huy di sản văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay 3.2. Thực trạng của vấn đề giữ gìn và phát huy di sản văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay 3.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc giữ gìn và phát huy di sản văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay 70 70 79 106 Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA Ở THỪA THIÊN HUẾ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 118 4.1. Phương hướng cơ bản, tầm nhìn để nâng cao hiệu quả của việc giữ gìn và phát huy di sản văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay 4.2. Những giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả của việc giữ gìn và phát huy các di sản văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay 124 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 147 151 152 162 118 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa DSVH : Di sản văn hóa KTTT : Kinh tế thị trường UBND : Ủy ban nhân dân TTBTDTCĐ : Trung tâm bảo tồn di tích cố đô TTH : Thừa Thiên Huế DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN ÁN Trang Bảng 3.1: Tổng số khách du lịch của tỉnh Thừa Thiên Huế phát triển hơn trong những năm gần đây Bảng 3.2: Doanh thu của tỉnh Thừa Thiên Huế từ 2006-2012 101 101 Bảng 3.3: Lượt khách và doanh thu của nhà hát Duyệt Thị Đường và Minh Khiêm Đường từ 2003 đến 2009 Biểu đồ 3.1: Doanh thu vé tham quan từ năm 1996- 2011 104 102 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng, bất kỳ dân tộc nào cũng có quá trình lịch sử phát triển riêng của mình, đồng thời sản sinh ra giá trị văn hóa dân tộc và chính giá trị văn hóa đó đã làm nên diện mạo, cốt cách riêng của mỗi dân tộc để tạo nên sự phong phú đa dạng của nền văn hóa chung của nhân loại. Thực tế ngày càng khẳng định vai trò to lớn của DSVH dân tộc đối với quá trình phát triển của xã hội. Một quốc gia không thể phát triển bền vững nếu thiếu một nền tảng văn hóa nội sinh, nếu các giá trị DSVH bị mai một hoặc không được giữ gìn, phát huy đúng đắn, có hiệu quả. Hiện nay, công tác giữ gìn và phát huy DSVH ở nước ta đã thu được những thành tựu rất đáng khích lệ. Cho đến nay, ở Việt Nam đã có khoảng 3.000 di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh được xếp hạng DSVH quốc gia; 120 bảo tàng các loại ở hầu khắp các tỉnh, thành phố trong toàn quốc. Nhiều DSVH phi vật thể đã và đang được phát hiện, nghiên cứu giữ gìn và phát huy tác dụng. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội X, Đảng ta đã nêu rõ quyết tâm: Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, các DSVH vật thể và phi vật thể của dân tộc, các giá trị văn hoá, nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng các dân tộc. Bảo tồn và phát huy văn hoá, văn nghệ dân gian. Kết hợp hài hoà việc bảo vệ, phát huy các DSVH với các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch [32, tr.106]. Ngày nay, TTH là trung tâm văn hóa - du lịch quốc gia và quốc tế hấp dẫn, đã được Tổ chức UNESCO công nhận hai DSVH của nhân loại. Nơi đây 2 hiện đang lưu giữ trong lòng nhiều DSVH vật thể và phi vật thể chứa đựng giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Ngay sau ngày Việt Nam thống nhất, Thủ tướng Phạm Văn Đồng khi vào thăm Huế đã mừng rỡ cho rằng: "Giải phóng xong, Việt Nam may ra còn có Huế để đối ngoại về văn hóa" [35, tr4]. Trong nhiều năm qua, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, cùng sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là sự tham gia đầy nhiệt huyết của các cấp chính quyền địa phương, cán bộ, Đảng viên và nhân dân TTH, công tác trùng tu, giữ gìn và phát huy các DSVH ở TTH đã có những chuyển biến lớn lao và đạt nhiều thành tựu to lớn. Nhiều di tích lịch sử văn hóa có giá trị tiêu biểu đã được khôi phục; cảnh quan thiên nhiên được giữ gìn và tôn tạo; các DSVH phi vật thể và ngành nghề truyền thống cũng được nghiên cứu, phục dựng và phát huy giá trị. Nhìn chung, DSVH ở TTH đã vượt qua giai đoạn khó khăn và đang chuyển dần vào giai đoạn ổn định phát triển theo hướng bền vững. Những giá trị DSVH vật thể và phi vật thể tưởng chừng bị mai một đã dần dần sống lại trong sinh hoạt cộng đồng, trong nếp nghĩ và việc làm người dân cố đô Huế, góp phần mở rộng giao lưu và hội nhập trong đời sống văn hóa của dân tộc Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, do hậu quả nặng nề của chiến tranh và do thiên tai tàn phá, nhiều di tích văn hóa ở TTH vẫn thường xuyên bị đe dọa. Những nỗ lực trong công tác trùng tu, bảo vệ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của một quần thể di tích có quy mô lớn, đa dạng, phức tạp và chưa tương xứng với tiềm năng văn hóa vốn có của tỉnh TTT. Không gian hoang phế ở các khu di tích còn lớn, một số công trình văn hóa nghệ thuật tiêu biểu cho bộ mặt hoàng cung Huế vẫn chưa khôi phục, môi trường văn hóa và cảnh quan thiên nhiên, hệ thống nhà vườn vẫn còn bị xâm phạm; kho tàng văn hóa phi vật thể: ca múa nhạc cung đình, các lễ hội dân gian, các ngành nghề truyền thống vẫn chưa được khai thác triệt để và đầu tư hiệu quả. Vai trò chủ thể của nhân dân TTH trong việc giữ gìn và phát huy DSVH cũng chưa được khẳng định. 3 Vậy làm thế nào để khắc phục tình trạng nói trên, để các giá trị DSVH của TTH tiếp tục được phát huy có hiệu quả, góp phần xây dựng TTH trở thành một tỉnh vững về chính trị, giàu về kinh tế, đẹp về văn hóa, tôi quyết định chọn đề tài: “Vấn đề giữ gìn và phát huy di sản văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay" để làm luận án tiến sĩ của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích Mục đích nghiên cứu của luận án là làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của vấn đề giữ gìn và phát huy DSVH; phân tích, đánh giá thực trạng giữ gìn và phát huy DSVH ở TTH hiện nay; từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giữ gìn và phát huy các DSVH tại địa phương này hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ Để thực hiện mục đích trên luận án có nhiệm vụ: - Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề giữ gìn và phát huy DSVH ở nước ta hiện nay. Đặc biệt làm rõ các khái niệm liên quan đến luận án như: văn hóa, DSVH, giữ gìn và phát huy DSVH. - Nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về giữ gìn và phát huy DSVH. Từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nói chung và tỉnh TTH nói riêng. - Phân tích thực trạng, một số vấn đề đặt ra của việc giữ gìn, phát huy DSVH ở TTH hiện nay. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra các quan điểm làm cơ sở và một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc giữ gìn và phát huy DSVH tại địa phương trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu hoạt động giữ gìn và phát huy DSVH ở tỉnh TTH dưới góc độ triết học. Chủ yếu nghiên cứu thực trạng giữ gìn và phát huy DSVH ở TTH trên những nét tiêu biểu gắn liền với quần thể di tích Cố đô Huế do TTBTDTCĐ Huế quản lý. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Qua quá trình điền dã thực tế, kế thừa từ các kết quả nghiên cứu của các công trình đi trước, tác giả luận án lựa chọn và tập trung khảo sát chủ yếu các DSVH ở TTH gắn liền với quần thể di tích cố đô Huế. Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng giữ gìn và phát huy các giá trị DSVH ở TTH với trọng tâm số liệu được giới hạn trong khoảng thời gian từ 1996 đến năm 2013, các giải pháp đưa ra cho thời kỳ đến năm 2020. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án - Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam về văn hóa, DSVH, giữ gìn và phát huy DSVH. Cơ sở thực tiễn của luận án là phân tích kinh nghiệm của một số nước và đánh giá thực trạng giữ gìn và phát huy DSVH ở tỉnh TTH. - Trên cơ sở lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử dụng các phương pháp cụ thể: Phương pháp phân tích- tổng hợp, phương pháp thu thập và xử lý thông tin. Đồng thời có sự kế thừa các kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. 5. Những đóng góp về khoa học của luận án - Làm rõ thực trạng giữ gìn và phát huy DSVH ở tỉnh TTH với những nét đặc thù riêng có của một tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm miền trung bao gồm: những kết qủa đạt được, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của vấn đề giữ gìn và phát huy DSVH ở tỉnh TTH trong thời gian tới. 6. Kết cấu luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài luận án gồm 4 chương, 10 tiết. 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VẤN ĐỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA Ở THỪA THIÊN HUẾ HIỆN NAY Trong thời gian gần đây, vấn đề giữ gìn và phát huy DSVH được nhiều nhà khoa học quan tâm và đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học có giá trị, đã công bố rộng rãi dưới dạng sách tham khảo, bài báo cáo khoa học…Để đảm bảo tính kế thừa và khẳng định những đóng góp của luận án, luận án chia các công trình nghiên cứu khoa học theo 2 nhóm vấn đề: nhóm công trình nghiên cứu tổng quát về văn hóa, DSVH và vấn đề giữ gìn phát huy DSVH dân tộc; nhóm công trình nghiên cứu trực tiếp đến vấn đề giữ gìn và phát huy DSVH ở TTH. Trên cơ sở sự phân định đó, luận án tiến hành chọn lọc có thực hiện tổng quan những công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến luận án như sau: 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TỔNG QUÁT VỀ VĂN HÓA, DI SẢN VĂN HÓA VÀ VẤN ĐỀ GIỮ GÌN, PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC - Trong cuốn “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [34], các tác giả xuất phát từ sự tiếp cận văn hóa, các yếu tố cấu thành nền văn hóa, những tiền đề lý luận và thực tiễn hoạt động văn hóa hơn nữa thế kỷ qua do Đảng ta lãnh đạo, đã phản ánh rõ những nét chính yếu về tính tiên tiến của nền văn hóa mà nhân dân ta đang xây dựng, về bản sắc văn hóa dân tộc. Qua hoạt động thực tiễn và tham khảo kinh nghiệm xử lý vấn đề văn hóa ở một số nước trên thế giới, cuốn sách ghi nhận rõ nét về thực trạng văn hóa Việt Nam, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị để xây dựng nền văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Từ đó, đưa ra những định hướng chiến lược cơ bản cho sự nghiệp xây dựng nền văn hóa “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, để trở thành nền tảng tinh thần xã hội trên con đường thực hiện mục tiêu: “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. - Cuốn sách “Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển DSVH dân tộc” [139] gồm 3 chương và phần phụ lục đề cập đến những vấn đề lý luận về 6 DSVH dân tộc; về vai trò, chức năng của DSVH đối với việc lựa chọn mô hình phát triển văn hóa dân tộc. Căn cứ vào những đòi hỏi thực tiễn của cuộc sống để tiến hành phân loại và bước đầu mô tả thực trạng vốn DSVH dân tộc. Làm nổi rõ những mặt tồn tại, những nguyên nhân đã và đang gây nên sự xuống cấp vốn DSVH trong thời gian qua. Từ đó, đưa ra những kiến nghị, biện pháp cụ thể và giới thiệu kinh nghiệm của Nhật Bản về giữ gìn và phát huy DSVH. Những nội dung của cuốn sách liên quan đến đề tài luận án: - Khái niệm DSVH là tổng thể những tài sản văn hóa truyền thống trong hệ thống giá trị của nó, được chủ thể nhận biết và đưa vào sử dụng nhằm đáp ứng những nhu cầu của hiện tại. Đóng vai trò then chốt ở đây là những khái niệm “nhận biết” và sử dụng; bên ngoài mối quan hệ với chủ thể, không tồn tại khái niệm DSVH theo nghĩa đích thực của nó. - Chính sách về bảo tồn và phát triển DSVH dân tộc của nước ta trong thời gian qua thông qua các kỳ đại hội của Đảng. - Một số bài học kinh nghiệm từ việc bảo tồn và phát huy DSVH tại Nhật Bản: Luôn coi bảo tồn và khai thác tài sản văn hóa là một vấn đề quan trọng được quy định trong các văn bản pháp luật, chính sách. Thể hiện việc bảo tồn các DSVH được nhấn mạnh trong nhận thức của mỗi người dân và thể hiện chức năng, vai trò của di sản trong qúa trình phát triển của đất nước Nhật Bản theo hướng bền vững. Từ những nhận thức trên, Nhật Bản đã thực hiện hóa DSVH trong đời sống thực tiễn bằng một loạt biện pháp cụ thể như: Tổ chức bộ máy hành chính và ngân sách hoạt động, khai thác các giá trị văn hóa trên cơ sở đưa chúng thâm nhập vào đời sống hiện đại của cộng đồng… Tuy nhiên, cuốn sách này chỉ nghiên cứu giá trị DSVH nói chung mà chưa đi sâu nghiên cứu về vấn đề giữ gìn và phát huy DSVH ở một số thành phố có nhiều tài sản văn hóa đáp ứng nhu cầu hội nhập và phát triển như TTH. Những gợi ý đối với việc giữ gìn và phát huy DSVH dân tộc ở Việt Nam nêu trên mới ở tầm vĩ mô và ở phương diện lý luận chung, chưa đưa ra một cách cụ thể gắn với một loại hình DSVH nào, nhất là đối với TTH, một thành phố đang lưu giữ rất 7 nhiều tài sản văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, tác giả luận án xem đây là một công trình khoa học có thể kế thừa để làm những căn cứ tìm ra các giải pháp thích hợp nhằm giữ gìn và phát huy DSVH ở TTH. - Cuốn sách “Văn hóa mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội”, ” [54] đã nghiên cứu bản chất của văn hóa nhằm chứng minh văn hóa vừa là mục tiêu phấn đấu vươn lên của xã hội loài người vừa là động lực mạnh mẽ có ý nghĩa quyết định trong việc thúc đẩy quá trình phát triển xã hội theo hướng nhân văn; từ đó vận dụng nguyên tắc về mối quan hệ thống nhất giữa mục tiêu và động lực của văn hóa (văn hóa- phát triển- tiến bộ) vào quá trình xây dựng và phát triển xã hội Việt Nam hiện nay. Nội dung của cuốn sách liên quan đến đề tài chủ yếu nằm ở chương I, trong đó tác giả có thể tiếp cận quan niệm triết học mát xít về văn hóa để làm cơ sở lý luận của luận án. - Trong cuốn “Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011-2020 những vấn đề phương pháp luận” [37] là kết quả nghiên cứu bước đầu của đề tài khoa học cấp Nhà nước Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011- 2020, mã số KX04- 13/06 do tác giả làm chủ nhiệm. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 25 năm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam “tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, các bài viết trong cuốn sách đã phân tích, đánh gía thực trạng văn hóa Việt Nam và thực trạng lãnh đạo, quản lý văn hóa của Đảng, Nhà nước ta; chỉ rõ mối quan hệ giữa văn hóa và các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng văn hóa chính trị; đề xuất mục tiêu, quan điểm, định hướng và các giải pháp có tính chất đột phá để phát triển văn hóa dân tộc trong thập kỷ tới. Những nội dung của cuốn sách này liên quan trực tiếp đến đề tài luận án tập trung chủ yếu ở các bài viết: Khái niệm văn hóa và sự phát triển của văn hóa (GS.TS Đỗ Huy); Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (PGS.TS Phạm Đức Duy). Tác giả luận án có thể kế thừa các nội dung sau: - Cách tiếp cận khái niệm văn hóa theo nhiều cách khác nhau, đặc biệt cuốn sách khẳng định phương pháp tiếp cận mácxít về văn hóa là cách tiếp 8 cận về hình thái kinh tế - xã hội, do đó: “Văn hóa gắn bó chặt chẽ với sự vận động của các phương thức sản xuất”, “nguyên tắc tiếp cận đầu tiên với văn hóa là phải tìm thấy mối quan hệ giữa tự nhiên và văn hóa” [37, tr.22]. - Các quan điểm chỉ đạo của Đảng cộng sản Việt Nam như văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; đồng thời chỉ ra một trong những nhiệm vụ quan trọng là cần giữ gìn và phát huy các DSVH: DSVH là cơ sở để liên kết cộng đồng, là nền tảng để sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới, là tiền đề để mở rộng giao lưu văn hóa với các dân tộc khác trên thế giới. DSVH không chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của nhân dân, góp phần khẳng định niềm tự hào dân tộc mà còn là nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội” [37, tr.177]. - Cuốn “Bảo tồn, phát huy giá trị DSVH vật thể Thăng Long - Hà Nội” [8] đã làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn kinh nghiệm bảo tồn, phát huy giá trị của DSVH vật thể Thăng Long - Hà Nội, tiếp thu những quan điểm mới về quản lý di sản một số nước trên thế giới để vận dụng vào công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản vật thể Thăng Long - Hà Nội; xuất phát từ thực trạng DSVH vật thể Thăng Long - Hà Nội làm rõ giá trị của nó trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở chỉ ra những nguy cơ, thách thức của công cuộc bảo tồn DSVH, cuốn sách đã đề xuất các giải pháp nhằm phát huy hiệu quả của công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản vật thể Thăng Long - Hà Nội. Sách gồm 5 chương và những nội dung của cuốn sách liên quan trực tiếp đến đề tài luận án tập trung chủ yếu ở chương 2 và chương 5. Từ kết quả nghiên cứu của cuốn sách, tác giả có thể chọn lọc, kế thừa và phát triển trong quá trình viết luận án là: - Các văn bản của Đảng ta về công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH, đặc biệt một mốc đánh dấu quan trọng về định hướng của Đảng đó là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa 9 VIII) viết: “DSVH là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa”. - Thông qua các nhóm giải pháp về: Nâng cao năng lực quản lý DSVH; cơ chế chính sách kinh tế - tài chính; luật pháp; huy động sự tham gia của cộng đồng; nâng cao nhận thức của người dân, cán bộ trong và ngoài ngành văn hóa, thể thao và du lịch về giá trị của di sản và việc bảo tồn và phát huy giá trị của di sản; xây dựng lưu trữ tài liệu, thông tin; hợp tác quốc tế… tác giả luận án có thể áp dụng vào chính thực tiễn của công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH ở TTH hiện nay. - Ở cuốn “Bảo tồn, phát huy giá trị DSVH phi vật thể ở Thăng Long - Hà Nội” [107], tác giả luận án có thể kế thừa có chọn lọc phần cơ sở lý luận về bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH như: Khái niệm văn hóa; văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể; bảo tồn và phát huy DSVH phi vật thể, mối quan hệ giữa DSVH vật thể và DSVH phi vật thể, quan điểm của UNESCO, Đảng và Nhà nước ta về bảo tồn và phát huy DSVH phi vật thể đồng thời nêu kinh nghiệm một số nước trong công tác này. Luận án quán triệt quan điểm: “Bảo tồn cần phải đi kèm với khai thác, phát huy giá trị DSVH trong đời sống…Bảo tồn cần phải quan tâm đến đặc điểm xã hội trong từng thời điểm cụ thể để có những điều chỉnh phù hợp với thời đại” [107, tr.237]. Một trong những biện pháp hữu hiệu để giữ gìn và phát huy DSVH là cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục ý thức tự giác, trách nhiệm của người dân tham gia vào công tác này. - Cuốn “Thành tựu trong xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam 25 năm đổi mới (1986- 2010)” [38] là tập hợp các bài viết có chọn lọc của các chuyên gia nghiên cứu về văn hóa. Xuất phát từ sự tiếp cận văn hóa, những yếu tốc cấu thành nền văn hóa, những tiền đề lý luận và thực tiễn hoạt động văn hóa do Đảng ta lãnh đạo, nội dung cuốn sách phản ánh thực trạng văn hóa Việt Nam qua 25 năm đổi mới, chỉ ra những thành tựu quan trọng, đồng thời vạch ra những mặt yếu kém, hạn chế, qua đó đề xuất một số giải pháp cơ bản và kiến nghị xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong những năm tiếp 10 theo vừa đáp ứng những đòi hỏi bức xúc tinh thần của xã hội ta trên con đường: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Bài viết trong cuốn sách liên quan trực tiếp tới đề tài luận án: Thực trạng bảo tồn và phát huy DSVH dân tộc và bài học kinh nghiệm(Th.s Vũ Công Hội), tác giả luận án kế thừa được khái niệm DSVH và vai trò của DSVH trong đời sống xã hội, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về việc bảo tồn và phát huy DSVH dân tộc và đặc biệt là những ưu điểm, nhược điểm, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, những vấn đề đặt ra trong việc bảo tồn và phát huy DSVH dân tộc. - Trong cuốn “Giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay” [42] đã khằng định, vấn đề bản sắc dân tộc và việc giữ gìn bản sắc dân tộc là mối quan tâm của nhiều quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa. Vì một trong những thách thức mà toàn cầu hóa đặt ra đối với sự phát triển của các nước là sự nhạt nhòa, mai một bản sắc dân tộc. Đòi hỏi mỗi quốc gia phải có những phương thức xử lý để không những đưa đất nước phát triển đi lên, hội nhập cùng thế giới và phát huy được sức mạnh vốn có của mình, đưa bản sắc dân tộc thành động lực nội sinh thúc đẩy dân tộc phát triển. Trong cuốn sách, tác giả khẳng định: “Dân tộc Việt Nam phải giữ gìn… bản sắc dân tộc một cách sáng tạo, linh hoạt; phải kết tinh lại và nâng lên tầm cao mới mọi đặc điểm tích cực của dân tộc và những đặc điểm tích cực mới của thế giới” [42, tr.69]. Với cách nhìn nhận này, tác giả luận án có thể tiếp thu vào công tác giữ gìn và phát huy DSVH ở TTH, vì suy cho đến cùng, DSVH là biểu hiện rõ nét bản sắc văn hóa dân tộc. Hay nói cách khác, giữ gìn DSVH là giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. - Cuốn“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam” [61] là kết quả nghiên cứu của hai tác giả tổng hợp qua các bài viết được đăng tải trên các tạp chí về lý luận và thực tiễn xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam trong quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế dưới sự chỉ đạo của Đảng: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm nhuần 11 vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”. Những nội dung của cuốn sách này liên quan trực tiếp trực tiếp đến đề tài luận án tập trung chủ yếu ở phần 2, gồm: - Kinh nghiệm của Trung Quốc về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa, xem “phát triển văn hóa dân tộc phải gắn với trình độ khoa học kỹ thuật” [61, tr.77], “Phải có những phương thức thích hợp trong việc bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc” [61, tr.78]. - Chính sách của Canada trong việc giữ gìn di sản lịch sử- văn hóa. Theo bách khoa toàn thư Canada, “Giữ gìn di sản- đó là sự nhận thức, sự thừa nhận giá trị và bảo tồn một cách xác đáng những vật thể được coi là quan trọng đối với sự phát triển văn hóa và lịch sử của đất nước” [61, tr.87]. Trong các phương diện đối nội và đối ngoại của mình, Canada luôn có những chính sách phù hợp, tối ưu cho công tác giữ gìn di sản lịch sử- văn hóa. Những kinh nghiệm đó có ý nghĩa lớn đối với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, cuốn sách bàn về xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam nói chung và ở tầm vĩ mô, chưa bàn đến vấn đề giữ gìn và phát huy các giá trị DSVH trong bối cảnh hội nhập và phát triển, nhất là đối với tỉnh TTH nói riêng, chưa có điều kiện để đưa ra các giải pháp cụ thể để việc giữ gìn và phát huy giá trị DSVH có hiệu quả. Ngoài ra còn có một số bài viết đăng ở các tạp chí khoa học cũng đề cập đến vấn đề này như: - GS.TS Ngô Đức Thịnh trong bài “Bảo tồn và phát huy văn hóa phi vật thể” [89] đã khẳng định: Văn hóa phi vật thể là một cách phân loại, chỉ ra các dạng chính thức của văn hóa phi vật thể, các đặc trưng của văn hóa phi vật thể và việc sưu tầm bảo tồn chúng. Qua đó, tác giả muốn gửi thông điệp rằng: Văn hóa phi vật thể là văn hóa trải dài trong cả không gian và thời gian, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong giai đoạn hiện nay với sự giao thoa, giao lưu văn hóa giữa các vùng miền, các quốc gia thì văn hóa phi vật thể mang tính mỏng manh, dễ bị thương tổn. Do đó, Nhà nước cần thông qua các cấp 12 chính quyền, các nhà khoa học, giữ vai trò định hướng trong nhiệm vụ bảo tồn và phát huy văn hóa phi vật thể của dân tộc. - Chu Thái Thành trong bài “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc” [86] khẳng định từ xưa đến nay, bản sắc văn hóa dân tộc đã làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng người Việt Nam vượt qua biết bao thử thách khắc nghiệt của lịch sử để không ngừng phát triển và lớn mạnh. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng ta đã ra nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm động viên tối đa nguồn lực nội sinh và ngoại sinh để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. - Tác giả Nguyễn Văn Huyên trong bài “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc” [55] khẳng định quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực chất tự bản thân nó chính là một quá trình biến mọi hoạt động kinh tế - chính trị - xã hội, đặc biệt là hoạt động sản xuất tinh thần và đời sống văn hóa từng bước lên trình độ tiên tiến và hiện đại. Trong đó, bản sắc văn hoá là cơ sở bảo đảm cho sự phát triển ổn định và trường tồn của văn hoá đất nước. Theo phương châm đó, CNH, HĐH ở Việt Nam phải lấy văn hóa truyền thống làm nền tảng và động lực, lấy việc làm đậm đà bản sắc văn hóa làm mục tiêu. - Tác giả Nguyễn Chí Bền trong bài viết “Bảo tồn DSVH phi vật thể ở nước ta hiện nay” [7] xuất phát từ khái niệm DSVH phi vật thể đến chính sách đối với nó và các vấn đề đang đặt ra, tác giả đã khẳng định: Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, việc sưu tầm, nghiên cứu và bảo tồn, phát huy DSVH phi vật thể các dân tộc đang được đặt ra rất nhiều vấn đề đòi hỏi phải giải quyết cả ở tầm vĩ mô lẫn vi mô, cả ở phương diện lý luận lẫn thực tiễn. - Tác giả Ngô Phương Thảo trong bài “Bảo vệ di sản, cuộc chiến từ những góc nhìn” [87] đã đề cập trực tiếp đến vấn đề bảo vệ DSVH hiện nay. Theo tác giả thì “Mỗi ngày, DSVH càng đối mặt với nhiều nguy cơ, xuất phát từ những hệ lụy của cuộc sống hiện đại. Cũng mỗi ngày, ý thức về trách 13 nhiệm phải gìn giữ các giá trị văn hoá đã tồn tại với thời gian càng lan toả sâu rộng trong toàn xã hội, trong mỗi cộng đồng để dẫn tới những chương trình dự án ngày càng có hiệu quả hơn trong việc gìn giữ các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể”. - Giáo sư Hoàng Chương trong bài báo “Thực trạng vấn đề bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc” [20] cho rằng: Bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc là vấn đề muôn thuở, nhưng cũng là vấn đề mang tính bức xúc của xã hội, bởi thực trạng nền văn hóa dân tộc đang có nguy cơ mai một và có nhiều vấn đề mà toàn xã hội cần quan tâm bên cạnh hiện tượng xâm thực văn hóa ngày càng gia tăng. Trong thời kỳ đổi mới, chuyển đổi sang cơ chế thị trường và nhất là trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay, vấn đề bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc đang bắt đầu nảy sinh những khó khăn, tiêu cực, thiếu lành mạnh. Cụ thể là xu hướng thương mại hóa nghệ thuật dân tộc đang lan ra trên khắp các sân khấu biểu diễn. Các loại hình nghệ thuật truyền thống như Tuồng, Chèo, Cải Lương, dân ca quan họ Bắc Ninh, dân ca kịch ngày càng thiếu hấp dẫn với khán giả, đặc biệt là khán giả trẻ. Các rạp hát dành cho nghệ thuật dân tộc phần lớn là vắng khách, “tối đèn”. Theo tác giả, muốn bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc tốt hơn, hiệu quả hơn, bền vững hơn, Ðảng và Nhà nước phải có một chính sách đầu tư hợp lý hơn, mạnh mẽ, thỏa đáng hơn, phải quan tâm, khuyến khích những cơ quan, những tổ chức, những cá nhân đang tâm huyết cho sự nghiệp bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc; đồng thời phê phán, có biện pháp xử lý đối với những tổ chức và cá nhân không nhận thức đúng, làm tổn hại DSVH của cha ông, làm mờ nhạt bản sắc văn hóa dân tộc và hình ảnh của đất nước nghìn năm văn hiến. 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRỰC TIẾP ĐẾN VẤN ĐỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA Ở THỪA THIÊN HUẾ HIỆN NAY TTH hiện đang lưu giữ trong lòng nhiều DSVH vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam nên cũng được khá nhiều các nhà nghiên cứu quan tâm và tiếp cận bằng nhiều cách khác nhau: 14 1.2.1. Từ góc độ sử học - Trong cuốn “Quần thể di tích Huế di sản thế giới” [75], tác giả Thái Công Nguyên chủ yếu giới thiệu pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hệ thống các DSVH của TTH như sông hương, núi Ngự Bình, cầu Trường tiền, Kinh thành, Hoàng thành, Đàn Nam giao, Điện hòn chén, chùa Linh mụ... đồng thời khẳng định giá trị của nó đối với sự phát triển của tỉnh TTH. Với cuốn sách này tác giả luận án tiếp thu để có cái nhìn một cách có hệ thống các giá trị DSVH ở Huế một cách chi tiết và khá đầy đủ. - Tác giả Phan Thuận An trong cuốn“Kiến trúc cố đô Huế” [2] cho rằng, Huế ngày nay còn bảo lưu được một khối lượng lớn những di sản vật chất và tinh thần mang tính văn hóa nghệ thuật truyền thống của Việt Nam. Trong gần 400 năm (1558- 1945), Huế là trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng trong, rồi trở thành Kinh đô của cả đất nước thống nhất. Huế đã được xác nhận là một trung tâm văn hóa du lịch của Việt Nam, và quần thể di tích cố đô Huế đã được công nhận là một DSVH Thế giới. Sau đó một thập niên, nhã nhạc triều Nguyễn lại được tổ chức UNESSCO công nhận là kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Cuốn sách chủ yếu giới thiệu các công trình kiến trúc, thời gian và vật liệu xây dựng các DSVH: Quách thành cung điện, kinh thành, Đại nội, Ngọ môn, điện Thái Hòa, điện Long An, Lăng Gia Long, lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị, lăng Tự Đức, lăng Dục Đức, lăng Đồng Khánh, lăng Khải Định, Văn Miếu Huế, đàn Nam Giao, Hổ Quyền, điện Hòn Chén, chùa Thiên Mụ. Nhìn chung, cuốn sách này đã bổ sung cho tác giả luận án một cách nhìn phong phú hơn: có thể tiếp cận một cách cụ thể, hiểu thêm kiến trúc các DSVH ở TTH để từ đó có cơ sở đưa ra một số kiến nghị nhằm bảo vệ, giữ gìn và phát huy có hiệu quả các DSVH đó. 1.2.2. Từ góc độ văn hóa học, quản lý văn hóa Tập san kỷ niệm 5 năm thực hiện dự án quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích cố đô Huế: “Thời gian đã chứng minh” [108] gồm 42 bài viết bàn về những thành tựu mà Huế đạt được sau 5 năm thực hiện dự án quy 15 hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích cố đô Huế. Trong đó các bài liên quan đến trực tiếp đến luận án: Chặng đường ngắn trên con đường dài (Thái công Nguyên), Đẩy mạnh công cuộc bảo tồn khu di tích Huế- di sản thế giới đầu tiên ở Việt Nam (Trương Quốc Bình); công cuộc bảo tồn các di sản văn hóa Huế, Việt Nam (Phan Thanh Hải và Shin’e Toshihiki). Tác giả luận án có thể kế thừa những khía cạnh sau: - Phương pháp đánh giá tình trạng di tích Huế trước và sau khi có quyết định 105/TTg của thủ tướng chính phủ về bảo tồn và phát huy giá trị di tích cố đô Huế. - Kế thừa và phát triển thêm khi phân tích các yếu tố tác động đến công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH ở Huế hiện nay. - Tham khảo những số liệu về kinh phí tu bổ, các công trình di sản được tu bổ, mục tiêu bảo tồn DSVH phi vật thể cung đình Huế cũng như công tác phát huy DSVH của tỉnh nhà trong thời gian tới. - Tham khảo vai trò của các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương trong việc phối hợp, tổ chức thực hiện nghị quyết 105/TTg của thủ tướng chính phủ và nghị quyết 06/NQ- TƯ của Tỉnh ủy TTH về bảo tồn và phát huy giá trị di tích cố đô Huế. - Kế thừa chọn lọc một số giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường việc bảo vệ và phát huy quần thể di tích lịch sử- văn hóa Huế trước bối cảnh mới của thời kỳ mới. Cuốn “Huế Di sản và cuộc sống” [109] gồm 28 bài viết của các nhà nghiên cứu văn hóa Huế chủ yếu khẳng định sau 10 năm kể từ khi quần thể di tích cố đô Huế đã được công nhận là một DSVH Thế giới, sự nghiệp giữ gìn và phát huy DSVH Huế đã có những bước phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Mới 5 năm được thế giới công nhận, quần thể di tích cố đô Huế đã vượt qua được giai đoạn cứu nguy khẩn cấp để kịp bước vào thời kỳ ổn định và phát triển. Trong 5 năm tiếp theo hàng chục dự án trùng tu di tích lớn đã được thực hiện thành công; các chính sách và biện pháp cụ thể để bảo tồn và phát huy các DSVH phi vật thể cũng được xúc tiến mạnh mẽ, đặc biệt là việc
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan